Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Tìm hiểu về điều kiện tự nhiên, văn hóa xã hội của các dân tộc thiểu số tại THỊ XÃ BỈM SƠN, THANH HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.61 KB, 7 trang )

Tìm hiểu về điều kiện tự nhiên, văn hóa xã hội của các dân tộc thiểu số
(chọn địa phương cụ thể)
THỊ XÃ BỈM SƠN, THANH HÓA
1.1. Khái quát về vùng đất Bỉm Sơn, Thanh Hóa
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Phía bắc giáp thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình;
Phía đơng giáp huyện n Mơ, tỉnh Ninh Bình và huyện Hà Trung, Thanh Hóa (xã Hà
Vinh);
Phía nam giáp huyện Hà Trung, Thanh Hóa (các xã Hà Thanh, Hà Vân, Hà Dương);
Phía tây giáp huyện Hà Trung, Thanh Hóa (các xã Hà Bắc, Hà Long).
Nằm ở toạ độ 20°18’ – 20°20’ vĩ độ Bắc và 105°55’ – 106°05’ kinh độ Đông, Bỉm Sơn
cách thủ đơ Hà Nội 120 km về phía nam, cách thành phố Thanh Hóa 34 km về phía bắc, nằm
trên mạng lưới giao thông vận tải thuận lợi với tuyến đường sắt Bắc - Nam, quốc lộ 1A chạy
qua, tạo nên mối giao thương rộng lớn với các tỉnh trong vùng và các trung tâm kinh tế lớn
của cả nước.
Địa hình
Bỉm Sơn là vùng đất thấp dần từ Tây sang Đơng. Tuy diện tích khơng rộng nhưng Bỉm
Sơn vừa có vùng đồng bằng, vùng núi đá, vùng đồi và sông suối.
Vùng đồi núi có diện tích 50,97 km2, chiếm 76,3%.Vùng đồng bằng có diện tích
15,19 km2, chiếm 23,7%
Khí hậu
Nhiệt độ trung bình hằng năm là 23,60 độ C. Lượng mưa trung bình đạt 1.514
mm/năm; Độ ẩm khơng khí trung bình 80%.
Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên đất
Thị xã Bỉm Sơn có 2 nhóm đất chính là đất phù sa, đất xám Feralit, cụ thể: Đất phù sa:
999,22 ha, trong đó:
Đất phù sa chua Glây nặng: nằm 6 vùng địa hình thấp trũng; diện tích: 126,26 ha,
phân bố tập trung ở các xã: Hà Lan, Quang Trung, phù hợp với phát triển trồng lúa nước, nuôi
trồng thuỷ sản.


1


Đất phù sa biến đổi Glây nặng diện tích: 872,96 ha, phân bố ở các địa hình vàn, vàn
cao, thuận lợi cho việc trồng lúa, màu và cây công nghiệp hàng năm, khả năng tăng vụ khá
cao.
Diện tích đất xám: 4.193,93 ha, gồm các loại: Đất xám Feralit đá lẫn nông 3.535,86
ha. Đất xám Feralit đá lẫn sâu 658,07 ha. Độ dày tầng đất khá thuận lợi cho cây công nghiệp
dài ngày, ngắn ngày phát triển.
Tài nguyên khoáng sản
Bỉm Sơn có khống sản chủ yếu là đá vơi, đá sét. Trong đó: Đá vơi mỏ n Dun:
3.000 triệu tấn, diện tích phân bố: 1000 ha; Đá phiến sét mỏ Cổ Đam, trữ lượng 60 triệu tấn,
diện tích phân bố: 200 ha; Sét xi măng (mỏ Tam Diên) trữ lượng 240 triệu tấn, diện tích phân
bố: 200 ha; Đất san lấp (Thung Cớn) trữ lượng: 3,5 triệu tấn, diện tích: 100 ha; Hai mỏ sét để
sản xuất gạch ngói tại xã Hà Lan trữ lượng 19 triệu tấn, diện tích 30 ha.
Tài ngun nước
Hệ hống sơng ngịi, ao, hồ của Bỉm Sơn, sông suối ngắn và nhỏ nguồn nước mặt
nghèo nàn biến động thất thường theo mùa: mùa mưa ngập úng, mùa khơ thiếu nước.
Các suối: suối Sịng, Chín Giếng, Cổ Đam, khe Gỗ, 3 voi, Khe cạn đều đổ ra sông
Hoạt, qua kênh Tam Điệp.
Tổng lưu lượng nước về mùa lũ: 1.685.000 m3/ngày đêm, về mùa kiệt: 9.513m3/ngày
đêm. Nước ngầm khá phong phú, do địa hình đá vơi, Bỉm Sơn có nhiều hang động, sơng suối
ngầm có thể cung cấp nước cho cả thị xã, kết quả thăm dò 56km2 khu vực thị xã Bỉm Sơn
(đoàn địa chất 47) được hội đồng trữ lượng nước quốc gia thông qua khẳng định: Khu vực
nước Bỉm Sơn có trữ lượng nước ngầm thuộc cấp A + B = 41.300m3/ngày, đêm
Tài nguyên rừng
Rừng Bỉm Sơn chủ yếu là rừng trồng, thực vật tự nhiên trên núi đá chủ yếu là cây lùm
bụi, cây gỗ mọc rải rác khơng có trữ lượng, diện tích: 1.141,57 ha
Động vật rừng nghèo nàn, chủ yếu là một vài lồi bị sát và chồn, cáo trên núi đá.


1.1.2. Lịch sử, kinh tế, văn hóa
Lịch sử
Ngày 29-6-1977: Thị trấn Bỉm Sơn được thành lập nhằm hỗ trợ cho Nhà máy Xi măng
Bỉm Sơn - nhà máy sản xuất xi măng lớn nhất Việt Nam lúc bấy giờ.

2


Ngày 18-12-1981: Thị xã Bỉm Sơn được thành lập trên cơ sở sáp nhập thị trấn Bỉm Sơn, thị
trấn Nông trường Hà Trung và 2 xã Quang Trung, Hà Lan, thuộc huyện Trung Sơn (nay là
huyện Hà Trung).
Dân số
Theo thông tin từ cổng thơng tin điện tử tỉnh Thanh Hóa, đến thời điểm 31/12/2008,
dân số Bỉm Sơn có 59.747 người.
Hành chính
Thị xã có 8 đơn vị hành chính trực thuộc (6 phường và 2 xã): Phường Ngọc Trạo,
Phường Ba Đình, Phường Bắc Sơn, Phường Lam Sơn, Phường Đông Sơn, Phường Phú Sơn,
Xã Hà Lan, Xã Quang Trung
Kinh tế
Thị xã Bỉm Sơn là một mũi nhọn phát triển công nghiệp của xứ Thanh. Theo thống kê
năm 2006, cơ cấu kinh tế của thị xã: Công nghiệp – xây dựng 75,2%, Thương mại - Dịch vụ
20,5%, Nông – Lâm nghiệp 4,3%.Trong giai đoạn 2005 - 2010, thị xã đã đạt được những
thành tựu kinh tế như sau:
Giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng tăng bình quân hàng năm 13,9%, gấp 1,9 lần
so với những năm 2005. Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển nhanh, loại hình phong phú, đa
dạng, trên địa bàn thị xã có 233 doanh nghiệp, trong đó có 160 doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh đạt hiệu quả. Giá trị dịch vụ tăng bình quân hàng năm 27,6%, gấp 3,4 lần so với năm
2005.Tổng mức bán lẻ hàng hóa năm 2010 ước đạt 678 tỷ đồng, gấp 2,4 lần năm 2005. Giá trị
hàng hóa xuất khẩu năm 2010 ước đạt 30 triệu USD. Mức huy động vốn năm 2010 ước đạt
1.796 tỷ đồng, tăng 2,65 lần năm 2005.

Các cơng ty, xí nghiệp lớn trên địa bàn thị xã:
Cơng ty Cổ phần xi măng Bỉm Sơn là doanh nghiệp trọng điểm của tỉnh đóng trên địa
bàn thị xã. Cơng ty với tiền thân là Nhà máy xi măng Bỉm Sơn được thành lập vào ngày 4 - 3
- 1980. Ngày 01/05/2006 chuyển đổi thành Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn. Công suất của
nhà máy là 4 triệu tấn/năm. Là đơn vị anh hùng thời kỳ đổi mới.
Nhà máy ô tô VEAM được xây dựng trên địa bàn phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn.
Cơng ty chính thức đi vào hoạt động ngày 28/9/2009. Công suất thiết kế là 33.000 xe/năm.
Công ty LILAMA5 trên địa bàn phường Ba Đình.
Cơng ty cổ phần Xây lắp và cơ giới 15 (LICOGI 15) trên địa bàn phường Ba Đình.
Văn hóa - Xã hội

3


Giáo dục
Thị xã Bỉm Sơn là một trong những vùng "đất học" của tỉnh Thanh Hóa. Trường
PTTH Bỉm Sơn thường có tỉ lệ đậu đại học hàng năm chỉ xếp sau trường PTTH chuyên Lam
Sơn trong tỉnh. Trong những năm gần đây, tỉ lệ học sinh Bỉm Sơn đỗ vào các trường đại học
đạt trên 40%, riêng năm 2006 đạt 62%.
Trên địa bàn thị xã có trường cao đẳng tài nguyên và môi trường miền Trung và cơ sở
2 của trường cao đẳng nghề LILAMA 1.
Lễ hội
Lễ hội Sòng Sơn - Ba Dội được tổ chức hàng năm để thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh - một
trong tứ bất tử được nhân dân ta tơn thờ. Ngồi ra, cũng là thời điểm nhân dân thị xã tỏ lòng
nhớ ơn tới vị hoàng đế ảo vải Quang Trung. Tại nơi đây, năm 1789, Nguyễn Huệ đã cùng Ngơ
Thì Nhậm, Ngơ Văn Sở đã dừng chân để tập kết quân lương, chiêu mộ binh lính, trước khi
tiến ra bắc đánh bại 29 vạn qn Thanh. Trong dân gian cịn có câu:
Đền Sịng thiêng nhất xứ Thanh
hay:
Nhất vui là hội Phủ Giày

Vui là vui vậy, khơng tày Sịng Sơn
Lễ hội Đền Sịng thường diễn ra từ ngày mùng 10/2 đến hết tháng 3 âm lịch hàng năm.
Nhưng đông vui nhất là ngày 26/2, tương truyền là ngày Thánh Mẫu hạ giới.
Lễ hội đền thờ bát Hải Long Vương
Đền thờ bát Hải Long Vương là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Lễ hội được tổ chức
vào 24 - 8 âm lịch.
Di tích, danh thắng
Đèo Ba Dội (hay còn gọi là đèo Tam Điệp) nằm giữa 2 tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình.
Đèo Ba Dội đã được cơng nhận là di tích cấp quốc gia.
Hồ Cánh Chim có diện tích 201.000m2 và 33.000m3 nước trữ lượng. Sở dĩ có tên là
Cánh Chim vì đứng trên đèo Ba Dội nhìn xuống, hồ có dáng một con chim đang vút cánh bay
cao. Hồ Cánh Chim là một danh thắng được xếp hạng cấp quốc gia.
Quần thể động Cửa Buồng
Hệ thống động Cửa Buồng gồm 3 động: Động Cô Tiên, động Đào Nguyên và động
Cửa Buồng, nằm giữa 2 núi Tượng Sơn và Điểu Sơn (núi hình con voi và núi hình con chim).
Nhiều danh nhân đã từng tới đây và để lại dấu ấn của mình.

4


Năm 1408, Nguyễn Trãi trên đường tìm minh chủ Lê Lợi đã qua đây và viết ở phiến
đá giữa cửa động chữ Trãi theo lối chữ triện, đến nay vẫn cịn.
Hải Thượng Lãn Ơng cũng có bài thơ ca ngợi cảnh sắc động Đào Nguyên:
Đào Nguyên vân vũ vãn mơ hồ
Thuỷ sắc thiên quang bán hữu vô
Vạn cổ càn khôn thanh cảnh trí
Hải sơn vi ngã bất tâm đồ
Trong dân gian còn lưu truyền về Nguyễn Huệ khi đưa đại binh ra Bắc đã cho tổ chức
các cuộc nghị bàn kế sách giải phóng Thăng Long tại đây và cũng chính nơi đây Nguyễn Huệ
đã được thần báo mộng phải tiến quân nhanh ra Bắc mới mong thắng trận. Khi trở về Phú

Xuân, qua vùng đất này, Nguyễn Huệ đã có hai câu đối để cảm ơn thánh nhân, hiện nay hai
câu đối đó vẫn cịn lưu giữ tại đền Cây Vải hay còn gọi là đền Bà Giếng Tiên (thuộc Làng
Nghĩa Môn, phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn). Hệ thống động cửa buồng là di tích được xếp
hạng cấp quốc gia.
Người Mường xứ Thanh được cấu thành ít nhất từ ba dịng chính: gốc người Mường
từ tỉnh Hồ Bình di dân vào... tràn vào đất Thanh Hố hầu hết gồm các tộc hệ ở đất Mường
Vang, Mường Thàng, Mường Động là các Mường lớn của "bà con Hoà Bình". Tất nhiên chủ
yếu vẫn là dân vùng Mường Bi, được gọi là MọiBi hoặc MonBi. Bộ phận thứ hai là q trình
vận động của người Việt hố, hoặc Thái hoá. Bộ phận đáng chú ý nhất và cũng là cái lõi của
vùng Mường xứ Thanh là tộc Mường bản địa, tính bản địa của một bộ phận đáng kể này
khơng pha tạp, khơng lẫn lộn vào hai dịng trên từ tiếng nói, trang phục của bộ nữ phục" [1,
208 - 209]
Lý giải rõ hơn về tên gọi MolBi, tác giả Nguyễn Dương Bình đã viết: "Trước đây
MolBi là tên tự gọi của những người có quê hương ở vùng Mường Bi: MolBi hoặc MolBiMường Bi. Về thực chất tộc danh MolBi khơng có ý nghĩa khinh rẻ dân tộc. Từ "Mọi" ở đây
chỉ người Mường theo cách gọi của người Thái, còn "Bi" nhằm chỉ địa phương xuất phát của
nhóm người Mường đó. Lâu dần MọiBi trở thành tên gọi chính thức của một nhóm Mường
địa phương rồi được coi như tên gọi một dân tộc" [2].
Theo tài liệu điều tra năm 1968, dân số MọiBi ở miền Tây Thanh Hố có 9.282 nhân
khẩu. Người MọiBi cư trú tập trung chủ yếu ở các huyện: Quan Hoá (7.177 người), Bá Thước
(1.536 người), Lang Chánh (569 người).

5


Tác giả còn cho biết thêm: Theo một số cụ già người Molbi, một vài đồng chí ở Ban
Dân tộc tỉnh Thanh Hố và huyện Quan Hố thì người MolBi từ Mường Bi vào miền Tây
thực mới diễn ra trong khoảng trên dưới 8 đời.[2].
Về nguyên nhân người MolBi có mặt sinh sống ở vùng miền núi Thanh Hoá, tác giả
Nguyễn Dương Bình cho biết: một bộ phận người Mường ở Mường Bi bị lang đạo áp bức bóc
lột quá nặng nề nên đã dời bỏ quê hương đến nơi khác làm ăn sinh sống. Người MolBi còn

lưu truyền lại một số câu chuyện xung quanh việc rời bỏ quê hương của mình. Đồng bào
MolBi ở làng Giả (hoặc Giá) thuộc xã Phú Xn huyện Quan Hố cịn nhớ, khi xưa, hồi còn
sống ở vùng Mường Bi, nhà lang đưa trâu bị chia về cho các gia đình trong Mường phải chăn
dắt cho nó. Ngày lại ngày trơi đi, trâu bò sinh đẻ ngày một nhiều, trâu mẹ đẻ trâu con. Làng
cũng khơng biết đàn trâu bị đã sinh sơi nảy nở được bao nhiêu. Khi dân có việc, đem trâu bị
trong số mới sinh sơi ra làm thịt, bọn lang đạo hay biết được truyện đó, chúng phạt vạ rất
nặng. Vì khơng lo nổi việc phạt vạ, sợ bị chúng trừng phạt, nên nhiều gia đình đã phải trốn đi.
Khi sang được vùng đất mới, dân làng phải làm những cái mả giả để thời cúng (vì đất thờ
cúng cũ cịn ở Mường Bi). Từ đó họ đặt tên nơi mới đến là làng Giả. Giả (hoặc Giá) là tên
một làng của người Mọi Bi ở xã Phú Xuân, huyện Quan Hoá.
Một nguyên nhân khác cũng được tác giả nhắc đến là sự tranh giành quyền lực giữa
bọn lang đạo nắm quyền thống trong Mường... Trong những cuộc tranh chấp như vậy thường
chúng buộc một số dân phải theo chúng. Để tránh cuộc xơ xát đó, một số người phải trốn
tránh đi nơi khác.
Cũng có một nguyên nhân nữa là: Xưa kia lang đạo Mường Bi đem con gái gả cho
một đạo Mường vùng Quan Hoá... Nhà lang bắt một số người đi theo hầu hạ phục dịch và họ
phải ở lại đó sinh sống.[2]
Kết quả khảo sát, nghiên cứu của tác giả Lâm Bá Nam đã cho biết: "Theo một số cụ
già MolBi thì anh em của họ ở Mường Bi khơng chỉ chạy vào Thanh Hố mà còn chạy đi
khắp nơi như Yên Bái, Nghĩa Lộ, Phú Thọ... Người MolBi ở Quan Hoá hầu hết là các nông nô
của lang đạo Mường Bi ngày trước, vào khoảng thế kỷ XVIII... do mất mùa đói kém, tơ cao
thuế nặng, dân ở đây hầu hết là họ Bùi và một số họ Đinh đã nổi dậy chống lại rồi bỏ chạy lên
Châu Mộc (Sơn La) Chúa đất địa phương truy nã, họ phải bỏ Châu Mộc chạy sang vùng Sầm
Nưa (Thượng Lào), cuối cùng đồn người theo dịng sơng Mã về Quan Hố cho tới ngày
nay... Và ngồi bộ phận người MolBi trên đây, các nhóm người Mường khác ở Thanh Hoá,

6


một bộ phận lớn khá đơng cũng có nguồn gốc từ Hồ Bình di cư vào trong nhiều thời điểm

khác nhau với nhiều nguyên nhân lịch sử.

7



×