Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Đảng bộ huyện bình lục tỉnh hà nam lãnh đạo công tác giáo dục chính trị tư tưởng từ năm 1986 đến năm 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.14 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

******************************

VŨ THỊ MỸ HẠNH

ĐẢNG BỘ HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM
LÃNH ĐẠO CƠNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2006

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

Hà Nội 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

******************************

VŨ THỊ MỸ HẠNH

ĐẢNG BỘ HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM
LÃNH ĐẠO CƠNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2006

LUẬN VĂN THẠC SỸ L ỊCH SỬ

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số


: 60 22 56
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH QUANG HẢI

Hà Nội 2009


Mục lục
Trang
Mở đầu

1

Chương 1: Đảng bộ huyện Bình Lục (Hà Nam) lãnh đạo cơng tác
giáo dục chính trị - tư tưởng từ năm 1986 đến năm 1995

8

1.1 Khái niệm, tầm quan trọng của cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng
của Đảng

8

1.1.1 Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng

8

1.1.2 Tầm quan trọng của cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng

15


1.2 Q trình lãnh đạo cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng của Đảng
bộ huyện Bình Lục trong những năm (1986 – 1995)

23

1.2.1 Khái quát đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị và văn hố xã hội
của huyện Bình Lục

23

1.2.2 Tình hình và đặc điểm của Đảng bộ huyện Bình Lục trước Đổi
mới (1986)

28

1.2.3 Đảng bộ huyện Bình Lục thực hiện chủ trương của Đảng trong
lãnh đạo công tác GDCTTT (1986 – 1995)

37

Chương 2. Đảng bộ huyện Bình Lục lãnh đạo cơng tác giáo dục
chính trị, tư tưởng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hoá (1996 - 2006)

51

2.1 Quan điểm, chủ trương và các biện pháp của Đảng về cơng tác giáo
dục chính trị, tư tưởng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH

51


2.1.1 Quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH

51

2.1.2 Những biện pháp cơ bản của Đảng ta về cơng tác giáo dục chính
trị, tư tưởng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH

61


2.2. Q trình đẩy mạnh và tăng cường cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng của Đảng bộ huyện Bình Lục (1996 – 2006)

68

2.2.1 Sự cần thiết phải đẩy mạnh, tăng cường cơng tác giáo dục chính
trị, tư tưởng

68

2.2.2 Đảng bộ huyện Bình Lục lãnh đạo đẩy mạnh và tăng cường cơng
tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong những năm (1996-2006)

71

Chương 3. Kinh nghiệm và một số nhận xét góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng ở
Đảng bộ huyện Bình Lục

3.1 Kinh nghiệm

86
86

3.2 Một số nhận xét góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác
giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở Bình Lục

91

Kết luận

96

Danh mục tài liệu tham khảo

99

Phụ lục

107


Danh mục các chữ viết tắt

BCHTW

: Ban Chấp hành trung ương

BCT


:bộ chính trị

cnđq : chủ nghĩa đế quốc
CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNH, HĐH : Cơng nghiệp hố, hiện đại hố
CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

GDCTTT

: Giáo dục chính trị, tư tưởng

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa


Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục chính trị - tư tưởng (GDCTTT) là một nhiệm vụ quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và được tiến hành trong suốt quá

trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Chủ trương đường lối,
chính sách của Đảng chỉ có thể đi vào quần chúng thơng qua cơng tác giáo
dục chính trị - tư tưởng, từ đó làm cho chủ trương, đường lối chính sách
thành hiện thực sinh động.
Cơng tác Giáo dục chính trị - tư tưởng nhằm xây dựng Đảng ln
ln vững mạnh về chính trị, tư tưởng và hành động, giữ gìn và tăng cường
sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong quần chúng nhân dân. Đồng
thời, giáo dục chính trị - tư tưởng nhằm nâng cao sức mạnh của một chính
Đảng cách mạng, nâng cao khả năng lãnh đạo nhân dân trong việc xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, làm thất bại mọi âm mưu gây rối loạn
về chính trị, phá hoại về tư tưởng của các thế lực thù địch trong và ngồi
nước.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, cơng tác giáo dục chính trị - tư
tưởng khơng chỉ góp phần xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng mà
cịn hình thành, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống mới, tạo ra
sự nhất trí về tư tưởng, thống nhất ý chí và hành động cho cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân. Cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng cịn
góp phần tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận.
Từ khi ra đời (1930) đến nay, Đảng ta ln coi trọng cơng tác giáo
dục chính trị - tư tưởng trong Đảng. Trải qua các thời kỳ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất, tiến lên theo định
hướng XHCN, cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng được thực hiện theo
những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ cụ thể khác nhau, song đều

1


nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đảng là độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước, xây dựng CNXH dựa trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đến Đại hội

đại biểu Đảng tồn quốc lần thứ X (2006), cơng tác GDCTTT của Đảng đã
thu được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, như Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X đã đánh giá “cơng tác giáo dục chính trị- tư tưởng cịn nhiều
hạn chế, thiếu sót” bộc lộ những bất cập về nội dung, phương pháp và tính
hiệu quả trước những yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Phải nâng cao vai trò lãnh đạo cơng tác giáo dục chính trị - tư
tưởng của Đảng để kiên định hệ tư tưởng, quan điểm đường lối, chủ trương
của Đảng cho cán bộ, đảng viên trên cơ sở đó thống nhất ý chí và hành động
trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, thực hiện nhiệm vụ chính trị của
Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho toàn
Đảng, toàn dân trước hết cho đội ngũ cán bộ, đảng viên vốn đã quan trọng
nay càng có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết hơn.
Huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam cũng như nhiều điạ phương khác của
cả nước, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đổi mới ở địa phương suốt 20
năm qua đã thu được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế, văn
hố - xã hội, khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân. Có được những kết quả đó là nhờ sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và
sự đồn kết nhất trí của tồn dân. Trong các mặt hoạt động của Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân huyện Bình Lục, cơng tác giáo dục chính trị - tư
tưởng của Đảng bộ huyện luôn được quan tâm đặt lên hàng đầu. Việc nâng
cao công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân trong huyện Bình Lục là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục

2


nhằm góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh. Tuy nhiên,
trong q trình tiến hành cơng tác GDCTTT của Đảng bộ huyện Bình Lục
vẫn cịn có mặt tồn tại cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để rút ra những bài
học kinh nghiệm. Xuất phát từ những lý do trên, tơi chọn nghiên cứu đề tài:

"Đảng bộ huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam lãnh đạo cơng tác giáo dục
chính trị - tư tưởng từ năm 1986 đến năm 2006" làm luận văn thạc sĩ
khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn nhận
thức được tầm quan trọng đặc biệt của công tác tư tưởng, lý luận nên công
tác này được các cấp bộ Đảng tiến hành thường xuyên liên tục hàng năm;
đặc biệt là ở vào các thời điểm bước ngoặt lịch sử, nhất là từ Đại hội đại
biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) đến nay.
Các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Quân đội và các đồn thể đã có nhiều bài nói, bài viết về công tác
tư tưởng, lý luận, công tác GDCTTT trong Đảng như các tác phẩm: “Về
Xây dựng Đảng” của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn; “Về xây dựng Đảng” của
nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười; “Cơng tác tư tưởng” của đồng chí Đào
Duy Tùng v.v… Nội dung các tác phẩm đó tập trung trình bày về những
vấn đề lý luận cơ bản của công tác xây dựng Đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, hoặc cơng tác lý luận tư tưởng của Đảng.
Vấn đề đấu tranh tư tưởng, GDCTTT là những vấn đề lớn có tầm
quan trọng đặc biệt nên đã có nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả đề cập tới
như: Hữu Thọ (năm 1995) “Một số vấn đề về cơng tác tư tưởng trong tình
hình mới”; Cao Văn Định (năm 1997) “Tăng cường vai trị cơng tác tư tưởng của các tổ chức cơ sở đảng”; Bùi Đình Phong (năm 2001) “Cơng tác
xây dựng Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất

3


nước”; Đào Duy Quát (năm 2002) “Phê phán các quan điểm sai trái”; Tác
giả Trần Thành (năm 2003) “Tư duy lý luận với hoạt động của người cán
bộ, lãnh đạo chỉ đạo thực tiễn”... Những cơng trình trên đây đi sâu nghiên
cứu, phân tích về cơng tác tư tưởng và vấn đề lý luận tư tưởng của Đảng ở

nhiều khía cạnh, góc độ và mức độ khác nhau. Tuy nhiên, những cơng trình
đó vẫn chưa tổng kết một cách tồn diện, có hệ thống về cơng tác
GDCTTT, nhất là trong thời kỳ đổi mới đất nước. Hơn nữa, đối với cơng
tác GDCTTT ở một đơn vị cấp huyện càng ít được đề cập đến.
ở địa phương trong những năm gần đây đã xuất bản nhiều cơng
trình lịch sử như: cuốn Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Nam (năm 2000), Lịch
sử Đảng bộ huyện Bình Lục (năm 2005) và Lịch sử Đảng bộ ở một số xã
trong huyện như: Lịch sử Đảng bộ xã Vụ Bản (2007), Lịch sử Đảng bộ
xã Tràng An(2007), Lịch sử Đảng bộ xã Bình Nghĩa (2007), Lịch sử
Đảng bộ xã Ninh Xá(2007), Lịch sử Đảng bộ xã Đồng Du (2008), Lịch
sử Đảng bộ thị trấn Bình Mỹ (2008)… Những cơng trình này đã đề cập
đến vai trò lãnh đạo của các cấp bộ Đảng bộ và q trình hoạt động của
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hố, xã hội. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một cơng trình riêng
nào nghiên cứu tồn diện có hệ thống, nhấn mạnh về vai trị và q trình
lãnh đạo của Đảng bộ huyện Bình Lục đối với cơng tác GDCTTT trong
thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến năm 2006 dưới góc độ của khoa học Lịch
sử Đảng. Chính vì vậy, tác giả luận văn mong muốn nghiên cứu một cách
có hệ thống, tồn diện về vấn đề này để làm rõ vai trị cơng tác GDCTTT
của Đảng bộ huyện Bình Lục đối với cán bộ, đảng viên trong thời kỳ 19862006. Từ đó bước đầu nêu ra một số bài học kinh nghiệm và giải pháp góp
phần giúp cho tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ở địa phương được ổn định

4


và phát triển; góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Luận văn đi sâu nghiên cứu tình hình thực hiện cơng tác
giáo dục chính - trị tư tưởng, kết quả và những tồn tại của công tác này để

từ đó đánh giá thực trạng, tìm ra ngun nhân, đề xuất một số giải pháp góp
phần nâng cao chất lượng của cơng tác giáo dục chính trị – tư tưởng của
Đảng bộ huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986
đến năm 2006
- Nhiệm vụ của luận văn tập trung làm rõ những vấn đề chính sau:
+ Trình bày quan điểm của Đảng ta về cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng
+ Tìm hiểu q trình lãnh đạo cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng
của Đảng bộ huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; chỉ ra những ưu, khuyết điểm,
nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với công tác GDCTTT.
+ Kinh nghiệm, đề xuất một số nhận xét nhằm nâng cao chất lượng cơng
tác giáo dục chính trị, tư tưởng ở địa phương trong thời kỳ mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Đảng bộ huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam lãnh
đạo cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Nghiên cứu cơng tác GDCTTT của Đảng bộ
trên tồn bộ địa bàn huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam gồm 21 xã và 1thị trấn.
+ Phạm vi thời gian: Nghiên cứu quá trình lãnh đạo cơng tác
GDCTTT của Đảng bộ huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam từ năm 1986 đến
năm 2006. Chúng tôi chọn mốc năm 1986 là thời điểm bước ngoặt lịch sử
mở đầu thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước và mốc năm 2006 là năm đất

5


nước ta đã trải qua 20 năm tiến hành đổi mới đất nước trên mọi phương
diện (trong đó có cơng tác GDCTTT). Chúng tôi lấy mốc năm 1996 để chia
làm 2 giai đoạn nghiên cứu (1986-1995) và (1996-2006) vì năm 1996 tỉnh
Hà Nam được tái lập lại theo Nghị quyết của Quốc hội khố IX nước Cộng

hồ XHCN Việt Nam, nên trong cơng tác GDCTTT của huyện cũng có
những thay đổi và có bước phát triển mới
Ngồi ra, luận văn còn quan tâm đề cập đến một số điểm trong cơng
tác giáo dục chính trị, tư tưởng của Đảng bộ một số huyện tiếp giáp có
những nét tương đồng với huyện Bình Lục để so sánh và có cách nhìn toàn
diện cũng như việc đánh giá được khách quan hơn.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn kết hợp sử dụng hai phương
pháp nghiên cứu chính là phương pháp lịch sử và phương pháp lơgíc, ngồi
ra cịn kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: điều tra, khảo
sát, đối chiếu, phân tích, so sánh… để giải quyết vấn đề đã đặt ra.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ khái niệm và khẳng định vị trí, vai trị,
tầm quan trọng và những nội dung cơ bản của công tác GDCTTT do Đảng
lãnh đạo.
- Luận văn nghiên cứu tương đối toàn diện, có hệ thống về tình hình
kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội của huyện Bình Lục; đồng thời xem xét
đánh giá thực trạng chất lượng công tác giáo dục chính trị, tưởng của Đảng
bộ đối với cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị. Nêu rõ những thành
tựu và hạn chế về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Bình Lục đối với cơng
tác giáo dục chính trị, tư tưởng.

6


- Rút ra một số bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ và bước
đầu nêu những giải pháp phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương và
của Đảng bộ trong q trình lãnh đạo cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm tài liệu
phục vụ công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu lịch sử Đảng bộ địa

phương trong thời kỳ đổi mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Đảng bộ huyện Bình Lục (Hà Nam) lãnh đạo cơng tác
giáo dục chính trị, tư tưởng từ năm 1986 đến năm 1995
Chương 2. Đảng bộ huyện Bình lục lãnh đạo cơng tác giáo dục chính trị,
tư tưởng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá từ năm 1996 đến
năm 2006
Chương 3. Kinh nghiệm và một số nhận xét góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên
ở Đảng bộ huyện Bình Lục.

7


Chương 1
Đảng bộ huyện Bình Lục (Hà Nam) lãnh đạo cơng tác giáo dục
chính trị, tư tưởng (1986 - 1995)
1.1 Khái niệm, tầm quan trọng của công tác giáo dục chính trị ,
tư tưởng của Đảng
1.1.1 Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay, thuật ngữ "cơng tác
giáo dục chính trị tư tưởng" đã được sử dụng rất phổ biến trong các văn
kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thuật ngữ này cũng được nhiều tài
liệu, sách báo trong nước và nước ngồi đề cập đến, được nhiều mơn khoa
học sử dụng như: Xây dựng Đảng, Công tác vận động quần chúng, Chính
trị học... Tùy theo tính chất, đặc điểm, mục đích, u cầu nghiên cứu mà có
cách khai thác và tiếp cận khác nhau.
Qúa trình nghiên cứu lịch sử xây dựng Đảng đã chứng minh rằng

công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là cơng tác hết sức quan trọng, bởi vì
đường lối, chính sách của Đảng chỉ có thể thấm nhuần vào quần chúng
thông qua GDCTTT và để hiểu rõ hơn khái niệm về công tác GDCTTT cần
làm rõ một số khái niệm như chính trị, tư tưởng và một số vấn đề có liên
quan đến chính trị, tư tưởng.
* Chính trị và một số vấn đề của chính trị
Khái niệm chính trị là khái niệm chỉ lĩnh vực phức tạp của đời sống
xã hội có giai cấp mà khoa học chính trị học và nhiều khoa học chính trị
khác nghiên cứu. Trong mỗi một xã hội có giai cấp đều được cấu thành từ
bốn lĩnh vực cơ bản là kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội. Chính trị là một
trong bốn lĩnh vực cơ bản đó. Cần phải khẳng định rõ điều này để chống
các quan điểm, tư tưởng phi chính trị hoặc tuyệt đối hố chính trị.

8


Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chính trị về thực chất
bắt nguồn từ quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các
quốc gia dân tộc. Trong đó, trước hết và cơ bản nhất là lợi ích kinh tế. Đây
khơng phải là cách quan niệm biệt phái riêng của chủ nghĩa Mác – Lênin,
mà nói chung mọi tư duy khoa học khách quan về chính trị đều đi tới, tìm
ra và khẳng định thực chất của chính trị là như vậy.
Rõ ràng, chính trị có logic vận động nội tại của nó và chịu sự quy
định của kinh tế, đồng thời chính trị có tác động to lớn đối với kinh tế và
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Và như vậy cái chi phối trực tiếp
chính trị chính là quan hệ giai cấp và vấn đề trung tâm then chốt nhất trong
chính trị là vấn đề quyền lực nhà nước. Vấn đề quan hệ giai cấp và vấn đề
quyền lực nhà nước là hai vấn đề cơ bản nhất của chính trị. Tuy nhiên,
khơng chỉ có giai cấp và nhà nước mà chính trị cịn liên quan đến nhiều vấn
đề khác ở những cấp độ quan trọng khác nhau. Nói đến chính trị mà chỉ nói

đến giai cấp và nhà nước là chưa đủ, nhất là trong thời đại ngày nay khi hồ
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, bình đẳng đã trở thành xu thế của đời
sống nhân loại. Từ đó cho thấy, chính trị là một lĩnh vực đặc biệt, rất phức
tạp, nó liên quan đến lợi ích trực tiếp của các giai cấp và các lực lượng xã
hội nên có nhiều cách tiếp cận và nhìn nhận khác nhau, có thể hiểu: “Chính
trị, tồn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các
giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn đề
giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực của Nhà nước, sự tham
gia vào công việc của Nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ,
nội dung hoạt động của nhà nước. Bất kỳ vấn đề chính trị nào cũng đều có
liên quan đến quyền lợi của các giai cấp và nhà nước. Chính trị thuộc kiến
trúc thượng tầng bao gồm (hệ tư tưởng chính trị, nhà nước, các đảng phái),

9


xuất hiện khi xã hội phân chia thành các giai cấp dựa trên cơ sở hạ tầng
kinh tế ” . [76, Tr. 478]
Khái niệm trên đã cho thấy vấn đề chính trị ln mang bản chất giai
cấp, thể hiện mối quan hệ và mục tiêu của các giai cấp, các lực lượng chính
trị trong việc giành quyền điều khiển nhà nước. Mặt khác, để đánh giá sự
tiến bộ của xã hội thông qua việc thực hiện dân chủ mà dân chủ cao nhất,
đầy đủ nhất, triệt để nhất là quyền làm chủ của nhân dân đối với nhà nước.
Khi tiếp cận chính trị với tư cách hình thức hoạt động nhằm duy trì
quyền lực chính trị có thể thấy: chính trị là những hoạt động tổ chức, điều
hành, quan hệ của bộ máy của Đảng và của Nhà nước. Vì vậy chính trị
cũng có thể hiểu là: Những hoạt động của một số cá nhân, một giai cấp,
một chính Đảng, một tập đồn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền điều
hành bộ máy nhà nước, giành quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị được thể hiện bằng việc tổ chức ra nhà nước để

thống trị xã hội theo quan điểm của một giai cấp nhất định nhằm bảo vệ lợi
ích cho giai cấp đó mà lợi ích biểu hiện tập trung đầy đủ nhất là lợi ích kinh
tế. Tùy theo tính chất, đặc điểm và sự tiến bộ của giai cấp thực hiện cuộc
đấu tranh cách mạng mà nền dân chủ được thực hiện sâu sắc và triệt để đến
mức độ như thế nào đối với toàn xã hội. Mức độ và sự tiến bộ đó thể hiện
bằng sự tham gia của quần chúng nhân dân vào việc thực thi quyền lực của
nhà nước, giành quyền lực chính trị.
Vậy có thể hiểu chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các cộng
đồng xã hội trong vấn đề chính quyền nhà nước; là sự tham gia của nhân
dân vào các công việc của nhà nước; là tổng hợp những phương thức,
phương pháp, những hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái để
giành, giữ và điều khiển hoạt động của nhà nước để bảo vệ lợi ích của giai
cấp mình.

10


Để đạt được mục đích đó địi hỏi các giai cấp phải tiến hành công
tác giáo dục nhằm nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng, làm cho
quần chúng nhận thức đầy đủ về mục đích, đường lối, nhiệm vụ của cách
mạng. Từ đó tổ chức quần chúng thực hiện đường lối và những nhiệm vụ
nhất định theo yêu cầu nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng.
Với góc độ nghiên cứu của khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, luận văn tiếp cận đến chính trị với tư cách là những hoạt động của
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động - nhằm giác ngộ, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên
nói chung, ở cơ sở nói riêng để lãnh đạo, tổ chức quần chúng nhân dân thực
hiện mục đích của Đảng là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh”.

* Tư tưởng, hệ tư tưởng, công tác tư tưởng
Theo Từ điển tiếng Việt (Nhà xuất bản Khoa học, xã hội, Hà Nội,
1977) Tư tưởng là sự nhìn nhận, là quan điểm, là sự phản ánh thế giới tự
nhiên, xã hội của con người một cách tích cực, tự giác.
Đại từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1999 (Nhà xuất bản Văn hố thơng tin) cho rằng tư tưởng có hai nghĩa: Một là chỉ sự suy nghĩ của con
người; hai là chỉ quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối với thế giới
tự nhiên và xã hội
Trong Tạp chí Cộng sản số 3/1993, mục Tìm hiểu khái niệm cho
rằng: Tư tưởng là những suy nghĩ, những ý niệm về các sự vật, hiện tượng
được phản ánh trong ý thức, là biểu hiện các quan hệ của con người đối với
thế giới xung quanh. Tư tưởng do chế độ xã hội, điều kiện sinh hoạt vật
chất của con người quyết định. Thực chất và nguồn gốc tư tưởng ở trong cơ

11


sở kinh tế, trong điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, trong tồn tại xã
hội.
Tóm lại, tư tưởng của con người là sản phẩm của tự nhiên – lịch sử
– xã hội, là kết quả của quá trình nhận thức của con người ở giai đoạn cao,
giai đoạn trừu tượng hoá của sự phản ánh hiện thực khách quan, là sự suy
nghĩ của con người nhận thức bản chất và cải tạo hiện thực khách quan.
Tư tưởng là một hiện tượng xã hội, sự hình thành và phát triển của tư
tưởng do thực tiễn lịch sử – xã hội quyết định. Q trình phát triển của tư
tưởng khơng thể không phụ thuộc vào hoạt động thực tiễn của con người,
vào tồn tại xã hội.
Khi nói tới tư tưởng của Đảng, thì tư tưởng cịn bao gồm nghĩa hẹp
hơn, thể hiện ở các quan điểm trong Cương lĩnh, đường lối, chính sách
của Đảng. Nói tới Đảng là nói tới hoạt động chính trị để bảo vệ lợi ích cho
giai cấp và dân tộc của Đảng. [31,Tr.14].

Như vậy, những luận điểm trên cho thấy sự đa dạng, đa diện của tư
tưởng, nhưng cái chung nhất của tư tưởng là sự phản ánh khái quát hiện
thực khách quan trong ý thức, biểu hiện những lợi ích của con người, của
giai cấp và của xã hội. Đó là ý thức phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng khái
quát, phản ánh lợi ích của một con người, một tập đoàn, một giai cấp, một
dân tộc, một thời đại nhất định. Sự phản ánh đó có thể đúng và chưa đúng,
thậm chí có thể sai. Vì vậy, có tư tưởng tiến bộ thúc đẩy sự phát triển xã
hội; có tư tưởng lạc hậu và cả tư tưởng phản động, kìm hãm sự phát triển
của xã hội. Do đó, trong xã hội có giai cấp ln có sự đấu tranh giữa các
giai cấp về mặt tư tưởng để truyền bá tư tưởng của giai cấp mình nhằm
mục đích tập hợp quần chúng, giác ngộ họ theo quan điểm tư tưởng của
giai cấp mình, tạo nên sức mạnh hành động, giành thắng lợi trong đấu tranh
giai cấp.

12


Các tư tưởng cùng nhìn nhận thế giới theo một hướng được sắp xếp
một cách có hệ thống, lơgic được gọi là hệ tư tưởng. Hệ tư tưởng là hệ
thống ý thức của một người hay một giai cấp do lợi ích của giai cấp chi
phối, nó có giá trị chỉ đạo tư duy, hành động của con người vì lợi ích của
giai cấp, chỉ đạo hoạt động cải tạo thực tiễn của con người. Hệ tư tưởng tồn
tại, phát triển cùng lịch sử, có sự kế thừa, mang tính chọn lọc, phê phán,
phát triển, sáng tạo. Hệ tư tưởng được hệ thống hố thành lý luận, có tính
xã hội và tính chiến đấu cao. Đó là những quan điểm, tư tưởng được con
người tư duy một cách tự giác, tích cực, được hệ thống hố thành lý luận,
thành học thuyết chính trị. Nó phản ánh tồn tại xã hội và đại diện cho một
giai cấp nhất định.
Công tác tư tưởng trước hết bắt nguồn từ vai trò của hệ tư tưởng,
tức là hệ thống quan điểm của một giai cấp về triết học, chính trị, pháp

quyền, văn học, nghệ thuật, đạo đức, tơn giáo… nhằm bảo vệ lợi ích của
giai cấp đó.
Vậy cơng tác tư tưởng là gì? Để có một khái niệm bao qt về cơng
tác tư tưởng, chúng ta có thể tiếp cận bằng những phương pháp khác nhau.
Một trong những phương pháp tiếp cận là gắn công tác tư tưởng với việc
truyền bá hệ tư tưởng. Theo cách tiếp cận này, chúng ta có thể hiểu cơng
tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính Đảng
nhằm hình thành và phát triển hệ tư tưởng, truyền bá hệ tư tưởng vào ý
thức quần chúng, thúc đẩy họ đi tới hành động.
Vận dụng cách tiếp cận trên đây, chúng ta có thể thấy rằng công tác
tư tưởng là một hoạt động của Đảng ta trên lĩnh vực ý thức tư tưởng, tác
động vào đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhằm xác lập, phát triển
hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, truyền bá hệ tư tưởng, thế giới quan và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm

13


cho họ tin tưởng và tự giác thực hiện mục tiêu, lý tưởng XHCN và đường
lối chính trị của Đảng.
Trong tồn bộ q trình hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam,
cơng tác tư tưởng là một vũ khí sắc bén, đóng vai trị to lớn trong việc xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong nội bộ
Đảng, công tác tư tưởng là hoạt động xây dựng Đảng về mặt trí tuệ, tư
tưởng chính trị, góp phần bảo đảm cho Đảng ln là đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam đủ năng lực lãnh đạo chính trị tồn xã hội.
Cơng tác tư tưởng có tầm quan trọng đặc biệt, nó trực tiếp liên quan
đến sinh mệnh chính trị của Đảng và xu hướng phát triển của xã hội. Có
làm tốt cơng tác tư tưởng mới xây dựng và phát triển được lý luận cách
mạng. Thực tiễn đã cho thấy khơng phải chỉ có chúng ta, những người theo

chủ nghĩa cộng sản mới thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa sống cịn của
cơng tác tư tưởng, mà chính kẻ thù đã và đang lớn tiếng phản đối, lên án
chủ nghĩa cộng sản rằng: những người cộng sản khơng bao giờ hạ thấp vai
trị của vũ khí tư tưởng của mình.
Từ những cách hiểu trên, chúng ta có thể hiểu chính trị, tư tưởng là
những quan điểm lý luận, là chính kiến, là thế giới quan của mỗi người đối
với thế giới, đối với chế độ xã hội, đối với sự giác ngộ về lợi ích giai cấp và
địa vị của giai cấp đó trong một xã hội nhất định. Chính trị, tư tưởng được
hình thành và phát triển trong quá trình sống, hoạt động của con người.
Chính trị, tư tưởng thể hiện lý tưởng, mục tiêu, lẽ sống của mỗi người.
* Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng
Xét về mặt cấu trúc của khái niệm, thuật ngữ chính trị, tư tưởng là từ
ghép giữa chính trị và tư tưởng được sử dụng ở đây như một bổ ngữ của
công tác giáo dục nhằm phân biệt làm rõ nội dung của giáo dục. Theo cách
diễn đạt hiện nay: Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ

14


thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm
cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu
cầu đề ra (Từ điển tiếng Việt năm 1994). Trong thực tế ta thấy có các
lĩnh vực: giáo dục kinh tế, giáo dục lao động, giáo dục đạo đức, giáo dục
quân sự v.v...
Với cách tiếp cận về chính trị và tư tưởng như phần trên đã trình bày,
bản chất của cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng là q trình tác động có
mục đích, có hệ thống của một Đảng, một giai cấp, một tổ chức vào quần
chúng, nhằm giác ngộ, nâng cao nhận thức tư tưởng của họ về quan điểm,
đường lối chính trị, để quy tụ tập hợp quần chúng tham gia vào quá trình
đấu tranh cách mạng để giành và bảo vệ, thực thi quyền lực chính trị nhằm

đáp ứng, thỏa mãn các nhu cầu về lợi ích. Những lợi ích đó có thể là lợi ích
chính trị, lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế... trong đó, lợi ích kinh tế là mục
đích sâu xa nhất, cốt lõi nhất phản ánh quan hệ đấu tranh giữa các giai cấp,
nhưng lại được thể hiện ở mục tiêu trực tiếp trước mắt là lợi ích chính trị.
Cơng tác GDCTTT là một trong những nội dung hoạt động của công
tác tư tưởng của Đảng (là một bộ phận của cơng tác tư tưởng). Nội dung
giáo dục chính trị, tư tưởng của Đảng bao gồm:
- Thứ nhất là quá trình tổ chức giáo dục, truyền bá hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân đến với quần chúng nhân dân mà thực chất là quá trình
truyền bá, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương
lĩnh, đường lối, quan điểm và những chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước vào cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Thứ hai là quá trình tác động vào nhận thức của cán bộ, đảng viên
và nhân dân bằng cách trình bày, giải thích những vấn đề cơ bản về lý
luận chính trị, về đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước, nhằm từng bước trang bị thế giới quan và phương pháp luận

15


khoa học, nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng, thực hiện thắng lợi mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
- Thứ ba là giáo dục lịch sử, truyền thống của Đảng và dân tộc
Việt Nam.
- Thứ tư là giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng
viên và nhân dân trong điều kiện mới, thường xuyên định hướng chính trị,
dự báo xu hướng phát triển của tình hình trong nước, khu vực và thế giới
để có một nội dung cơng tác chính trị – tư tưởng chính xác, kịp thời.
1.1.2 Tầm quan trọng của cơng tác giáo dục chính trị. tư tưởng
ở mỗi giai đoạn cách mạng, mỗi thời kỳ lịch sử lại đặt ra những mục

tiêu cụ thể địi hỏi cơng tác GDCTTT phải nắm vững, từ đó xây dựng nội
dung giáo dục phù hợp. Điều đó có nghĩa là cơng tác GDCTTT ln ln
gắn với đường lối và trên cơ sở đường lối chính trị của Đảng và dân tộc để
triển khai các hoạt động cụ thể.
Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta đặc biệt coi trọng công tác
GDCTTT, giáo dục bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở nắm vững
đường lối, Nghị quyết của Đảng; nắm vững và kiên định những quan điểm
có tính ngun tắc, trong đó nhấn mạnh cần phải nắm vững và kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh và những nguyên tắc đổi mới của Đảng. Từ đó nâng
cao bản lĩnh chính trị vững vàng, quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới,
đồng thời biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương của
đơn vị và nhiệm vụ của bản thân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Chủ thể của công tác GDCTTT là Đảng Cộng sản Việt Nam, mà trực
tiếp là cấp ủy đảng các cấp và các cơ quan chức năng.

16


Đối tượng của công tác GDCTTT là cán bộ, đảng viên và nhân dân
nói chung. Trong luận văn đối tượng cụ thể của công tác GDCTTT được đề
cập là cán bộ, đảng viên thuộc sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Bình Lục,
tỉnh Hà Nam
Trên cơ sở trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học,
công tác GDCTTT góp phần giúp cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở xác định
đúng mục tiêu, lý tưởng, có định hướng tư tưởng chính trị đúng đắn tạo cho
họ khả năng lựa chọn phương hướng và biện pháp để thực hiện mục tiêu lý
tưởng. Không xác định rõ hoặc mất phương hướng chính trị thì cán bộ đảng

viên khơng có khả năng phân biệt đúng sai, dễ dao động ngả nghiêng trước
những biến cố chính trị. Điều này có ý nghĩa lớn đối với cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
Thơng qua các hình thức, phương pháp tác động tư tưởng phong
phú, sinh động, hấp dẫn và có tính thuyết phục cao, công tác GDCTTT
vừa thực hiện được chức năng định hướng rộng (giác ngộ về mục tiêu lý
tưởng, lẽ sống, lối sống nhân cách), đồng thời vừa thực hiện chức năng
định hướng hẹp (định hướng thái độ, hành vi của mỗi người trước một sự
kiện, một hoạt động cụ thể...).
Định hướng chính trị tư tưởng là một việc làm thường xuyên của
công tác GDCTTT, đặc biệt trước bước ngoặt cách mạng, trước những biến
động phức tạp của đời sống chính trị quốc tế và trong nước. Nếu khơng kịp
thời định hướng sẽ gây ra sự hỗn loạn trong xã hội.
Thực tiễn đã cho thấy, công tác GDCTTT, mà cốt lõi là công tác
giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, giữ vị trí rất quan trọng trong tiến trình
phát triển của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân thế giới
nói chung cũng như sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân Việt

17


Nam. Đây là nhiệm vụ và là công tác quan trọng hàng đầu mà Đảng Cộng
sản phải tiến hành.
Việc nâng cao trình độ nhận thức lý luận cách mạng cho cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân bằng nhiều con đường, với nhiều hình
thức và phương pháp khác nhau, nhưng thực tế cho thấy trong bất cứ thời
kỳ nào, giai đoạn nào của cách mạng, công tác GDCTTT vẫn ln có tầm
quan trọng đặc biệt. Đó là một thực tế, một yếu tố quan trọng góp phần
tạo nên bản lĩnh chính trị vững vàng của một Đảng cũng như của mỗi
cán bộ, đảng viên trong tiến trình của cuộc đấu tranh cách mạng, nhất là

ở những bước ngoặt, ở những lúc giao thời, chuyển tiếp từ giai đoạn này
sang giai đoạn khác, từ nhiệm vụ này sang nhiệm vụ khác do yêu cầu của
cuộc cách mạng đặt ra.
Như vậy, vai trị và tầm quan trọng của cơng tác GDCTTT, trước hết
được bắt nguồn từ vai trò và tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác – Lênin học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Đó là thế giới quan và phương pháp luận khoa học giúp cho giai cấp
công nhân và nhân dân lao động tổ chức nên chính Đảng của mình - Đảng
Cộng sản, đội tiền phong của giai cấp công nhân, yếu tố đầu tiên bảo đảm
sự thắng lợi trong đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân; đồng thời
là cơ sở lý luận vững chắc để Đảng đề ra Cương lĩnh và đường lối chính trị
đúng đắn, chiến lược, sách lược phù hợp với sự phát triển của phong trào
cách mạng.
Đối với mỗi cán bộ, đảng viên cũng như tồn bộ giai cấp cơng nhân
và nhân dân lao động thông qua công tác GDCTTT của Đảng mới có điều
kiện hiểu biết về chủ nghĩa Mác – Lênin, mới có tầm nhìn chính trị rộng
lớn, mới có cơ sở lý luận để hiểu biết về mình, về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp cơng nhân, mới có khả năng đánh giá đúng đắn các hiện tượng, tình

18


hình và chiều hướng phát triển của chúng, từ đó rút ra những kết luận khoa
học chỉ đạo hành động và do đó mới có khả năng lãnh đạo được quần
chúng.
Vì vậy, đội tiền phong của giai cấp cơng nhân - Đảng Cộng sản, cần
phải coi trọng việc giáo dục lý luận Mác - Lênin cho cán bộ, đảng viên
cũng như quần chúng nhân dân lao động, lực lượng cơ bản của cách mạng.
Cán bộ, đảng viên của Đảng phải có nghĩa vụ tham gia học tập lý luận
chính trị. Tuy nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa là cán bộ, đảng viên chỉ
học tập lý luận Mác - Lênin, mà cịn phải biết vận dụng lý luận đó vào

trong thực tiễn cơng tác. Lý luận đó đã dạy cho giai cấp cơng nhân tự
nhận thức được mình và có ý thức về mình, nó đem khoa học thay thế cho
mộng tưởng. Lý luận đó là đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. Nó là sự kế
thừa có chọn lọc và phê phán tất cả các kiến thức mà nhân loại đã tạo ra
từ trước và được nâng lên tầm cao mới bằng lao động khoa học và sáng
tạo của những nhà bác học vĩ đại C.Mác, Ăngghen, Lênin. Nó kết hợp tính
khoa học chặt chẽ và cao độ với tinh thần cách mạng, sự kết hợp đó khơng
phải là ngẫu nhiên, khơng phải chỉ vì người sáng lập ra học thuyết đó đã kết
hợp trong bản thân mình những phẩm chất của nhà bác học và của nhà cách
mạng, mà là kết hợp chính trong bản thân lý luận ấy, một sự kết hợp nội tại
và khăng khít. Thật thế, nhiệm vụ của lý luận, mục đích của khoa học là
giúp đỡ giai cấp, những người bị áp bức trong cuộc đấu tranh kinh tế đang
thực sự diễn ra.
Lý luận Mác – Lênin đã chỉ rõ: “Lực lượng vật chất chỉ có thể đánh
bại bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật
chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [17, Tr. 580]. Vai trị của cơng
tác giáo dục lý luận chính là làm cho lý luận thâm nhập vào quần chúng để
qua đó trở thành lực lượng vật chất. Bản thân sự giác ngộ của quần chúng

19


là một sức mạnh, thậm chí là nguồn gốc của các sức mạnh khác. Vì vậy,
tạo ra sự giác ngộ của đa số quần chúng có nghĩa là tạo ra nguồn sức mạnh
vơ địch. Điều đó càng cho thấy rõ vai trị quan trọng của cơng tác
GDCTTT.
ở Việt Nam, cơng tác GDCTTT giữ vai trò quan trọng đối với mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Gần 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta đã giành được thắng lợi vẻ
vang, mở ra một thời đại phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử của dân tộc thời đại Hồ Chí Minh; mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập

dân tộc gắn liền với CNXH.
Những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam (thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám năm 1945; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước và thắng lợi của công cuộc Đổi mới) đã khẳng định sự lãnh đạo
đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng ta đã nắm vững, vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề
ra đường lối đúng đắn, đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng. Đường
lối đó đã thấm sâu vào quần chúng nhân dân bằng công tác GDCTTT do
Đảng tiến hành để giáo dục, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, nâng cao ý
thức chính trị, giác ngộ cách mạng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Vì vậy,
Đảng ta đã huy động được mọi nguồn lực, tạo nên sức mạnh tổng hợp của
dân tộc để chiến thắng mọi kẻ thù. Đó là sức mạnh hiện tại và sức mạnh
của truyền thống, sức mạnh của tinh thần và sức mạnh của vật chất, sức
mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại.
Cơng tác GDCTTT ln có vai trị to lớn trong cơng tác xây dựng
Đảng vững mạnh, xây dựng bồi dưỡng đội ngũ đảng viên có đủ sức chiến

20


×