Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

Đảng bộ tỉnh thanh hóa lãnh đạo công tác giáo dục chuyên nghiệp tu nam 1996 den nam 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 168 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------

BÙI THỊ HẬU

ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HÓA LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHUYÊN NGHIỆP
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------

BÙI THỊ HẬU

ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HÓA LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHUYÊN NGHIỆP
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Nhật

Hà Nội – 2014


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Người thầy
giáo đáng kính: PGS.TS Nguyễn Văn Nhật, người đã nhiệt tình hướng dẫn,
chỉ bảo và đóng góp những ý kiến quý báu trong suốt thời gian tôi tiến hành
nghiên cứu, hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, Phòng sau đại học, các
thầy cô và đặc biệt là các thầy cô trong bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, khoa Lịch sử - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội
đã nhiệt tình giảng dạy, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong suốt
quá trình học tập cũng như thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Sở Giáo dục và
Đào tạo, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Cục thống kê, Cục Lưu trữ
tỉnh Thanh Hóa đã tạo điều kiện thuận lợi về nguồn tư liệu, sách báo tham
khảo.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, bạn bè
đã luôn động viên, khích lệ để tôi hoàn thành khóa học.
Hà Nội, tháng /2014

Bùi Thị Hậu


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi, không

sao chép của ai. Các tư liệu được trình bày có nguồn gốc rõ ràng tuân thủ
đúng nguyên tắc.
Tác giả luận văn

Bùi Thị Hậu


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCHTW

: Ban chấp hành Trung ƣơng

CTQG

: Chính trị quốc gia

HĐND

: Hội đồng nhân dân

NQ

: Nghị quyết

Nxb

: Nhà xuất bản

UBND


: Ủy ban nhân dân

GD-ĐT

: Giáo dục đào tạo

GDCN

: Giáo dục chuyên nghiệp

CNKT

: Công nhân kỹ thuật

GDPT

: Giáo dục phổ thông

THCS

: Trung học cơ sở

THCN

: Trung học chuyên nghiệp



: Cao đẳng


ĐH

: Đại học

DN

: Dạy nghề

TTDN

: Trung tâm dạy nghề

CNH- HĐH

: Công nghiệp hóa- hiện đại hóa

LĐ-TBXH

: Lao động – Thƣơng binh và Xã hội

TTGDTX-DN

: Trung tâm Giáo dục thƣờng xuyên và dạy nghề


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................... 1
Chƣơng 1 THỰC TRẠNG VÀ YÊU CẦU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CHUYÊN
NGHIỆP THANH HOÁ TRƢỚC NĂM 1996....................................................................... 10

1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và truyền thống hiếu học của nhân
dân Thanh Hoá. ............................................................................................................................. 10
1.1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................................................. 10
1.1.2. Điều kiện dân cư.................................................................................................................... 12
1.1.3. Kinh tế - xã hội....................................................................................................................... 12
1.1.4. Truyền thống hiếu học của nhân dân Thanh Hoá ............................................................. 14
1.2. Khái quát về tình hình giáo dục chuyên nghiệp Thanh Hóa trƣớc năm 1996. ........ 17
1.2.1. Về hệ thống trường, lớp, quy mô, cơ cấu ngành đào tạo:................................................. 28
1.2.2. Về chất lượng và hiệu quả đào tạo của Giáo dục chuyên nghiệp.................................... 31
1.2.3. Thực trạng đội ngũ giảng viên ............................................................................................ 32
1.2.4. Về cơ sở vật chất và các điều kiện phục vụ cho đào tạo ................................................... 34
1.2.5. Về công tác quản lý ngành học ............................................................................................ 34
Chƣơng 2 GIÁO DỤC CHUYÊN NGHIỆP THANH HÓA TƢ̀ NĂM 1996 ĐẾN
NĂM 2010 ....................................................................................................................................... 37
2.1. Giáo dục chuyên nghiệp Thanh Hóa trong những năm đầu đẩy mạnh sự nghi
ệp
CNH-HĐH đất nƣớc (1996 - 2000). ........................................................................................... 37
2.1.1.Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển giáo dục GDCN. ..................... 37
2.1.2. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa quán triệt quan điểm của Đảng và đề ra chủ trương phát
triển giáo dục chuyên nghiệp.......................................................................................................... 44
2.1.3. Quá trình thực hiện và kết quả............................................................................................. 46
2.2. Giáo dục chuyên nghiệp Thanh Hóa trong 10 năm đầ u thế kỷ XXI (2001 2010) ………………………………………………………………………...65
2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa về đẩy mạnh phát triển giáo dục chuyên
nghiệp trong điề u kiê ̣n mớ.............................................................................................................
i
65
2.2.2. Kết quả cơ bản của GDCN Thanh Hóa trong

10 năm từ năm 2001 đến


năm 2010. ........................................................................................................................................ 73


Chƣơng 3: NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM.................................. 89
3.1. Nhâ ̣n xét chung....................................................................................................................... 89
3.1.1. Về ưu điểm ............................................................................................................................. 89
3.1.2. Những hạn chế và nguyên nhân ......................................................................................... 93
3.1.3. So sánh giáo dục chuyên nghiệp Thanh Hóa với các tỉnh Bắc Trung
Bộ ...................... 99
3.2. Mô ̣t số kinh nghiệm............................................................................................................. 101
3.3. Nhƣ̃ng vấn đề đặt ra
............................................................................................................ 102
KẾT LUẬN................................................................................................................................... 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO
. ....................................................................................................... 115
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, không riêng gì ở Việt Nam, giáo dục - đào tạo đã đang là bài toán
khó, ngay ở những nước tiên tiến nhất trên thế giới. Trong xã hội hiện đại, thành bại
là do vốn văn hoá, khoa học, công nghệ của con người quyết định, nên giáo dục
đương nhiên là mặt trận xung yếu nhất của mọi quốc gia.
Ở Việt Nam, ngay từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã coi ―Dốt‖ là một trong ba thứ giặc cực kỳ nguy hiểm cần phải tiêu trừ
ngay. Bởi vì: ―một dân tộc dốt là một dân tộc yếu‖, ―dốt thì dại, dại thì hèn‖ [55,
tr.8]. Theo Hồ Chí Minh: ―Nay chúng ta giành quyền độc lập. Một trong những việc
phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí‖. Vì: ―Nước nhà cần phải

kiến thiết, kiến thiết cần phải có nhân tài‖.[55, tr.36, tr.451]. Người nhấn mạnh:
―Bây giờ xây dựng kinh tế, không có cán bộ không làm được. Không có giáo dục,
không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hoá.‖[55, tr.184]. Trong việc
đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu.
Như vậy, ngay từ sớm Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thấy vai trò của
giáo dục đào tạo đối với cách mạng và sự phát triển của xã hội. Một nền giáo dục
tốt sẽ là động lực thúc đẩy xã hội phát triển trên cả bình diện chiều sâu lẫn chiều
rộng.
Năm 1986, sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng Cộng sản Việt
Nam quyết định đổi mới toàn diện đất nước, giáo dục – đào tạo do vậy có sự chuyển
biến mạnh mẽ nhằm đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tại các Đại hội đại biểu toàn quốc sau đó, trong đường lối lãnh đạo đất nước
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định: "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài" (Đại hội VIII – 7/1996). "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện

1


để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững".(Đại hội IX – 4/2001)
Và gần đây nhất, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1-2011), Đảng
Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định lại quan điểm coi giáo dục - đào tạo là
quốc sách hàng đầu, tích cực đổi mới để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành nước công nghiệp
hiện đại.
Trong phát triển nguồn nhân lực có hai vấn đề phải giải quyết thỏa đáng, đó
là: mặt bằng học vấn và trình độ nghề nghiệp. Hai lĩnh vực này có quan hệ biện

chứng với nhau. Trong các bậc học của hệ thống giáo dục quốc dân, Giáo dục phổ
thông mới tạo ra mặt bằng học vấn, tạo ra ―vật liệu‖ cho đào tạo nhân lực; còn
chính Giáo dục chuyên nghiệp mới tạo ra được nhân lực kỹ thuật. Mặt bằng học vấn
tốt thì ―vật liệu‖ sẽ tốt, đào tạo chuyên nghiệp phải tốt thì mới có sản phẩm lao động
kỹ thuật lành nghề. Có lực lượng lao động cân đối, được đào tạo ở trình độ chuyên
môn lành nghề thì mới đưa được nền kinh tế đi lên, mới tạo ra được sản phẩm hàng
hóa có sức cạnh tranh lớn trên thị trường và khu vực, do đó mới hoàn thành được sự
nghiệp CNH – HĐH đất nước. Bởi vậy, Đảng và Nhà nước ta phải có sự đầu tư thỏa
đáng và cân đối cho cả hai lĩnh vực: mặt bằng học vấn và trình độ kỹ thuật.
Về mặt bằng học vấn, Nhà nước đã có luật Phổ cập giáo dục tiểu học và đang
chú ý đầu tư trung học. Nhưng về Giáo dục chuyên nghiệp, lĩnh vực trang bị trình
độ chuyên môn, kỹ thuật lành nghề cho số đông trực tiếp làm ra của cải vật chất và
tinh thần cho xã hội, trực tiếp thực hiện sự nghiệp CNH – HĐH, thì vẫn chưa được
quan tâm đúng mức, chưa cân đối với sự quan tâm về mặt bằng học vấn và chưa
gắn chặt với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Trong sự nghiệp giáo dục – đào tạo nói chung thì công tác đào tạo ở các
trường chuyên nghiệp chính là yếu tố gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và chịu
ảnh hưởng trực tiếp của thị trường lao động. Chính vì vậy, công tác giáo dục chuyên
nghiệp luôn luôn được Đảng đặt lên vị trí hàng đầu trong sự nghiệp giáo dục – đào
tạo. Tuy nhiên, hiện nay giáo dục chuyên nghiệp của nước ta đang có nhiều bất cập
cần được Đảng quan tâm, chỉ đạo hơn nữa.

2


Trong thực tế, từ khi Đảng đề ra đường lối đổi mới cho đến nay, trong sự
phát triển chung của sự nghiệp giáo dục – đào tạo thì giáo dục chuyên nghiệp cũng
có nhiều chuyển biến lớn và giành được nhiều kết quả quan trọng. Những thành tựu
đạt được đó chính là nhờ sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, là sự đóng góp tích cực
của nhiều địa phương trong cả nước.

Thanh Hoá là tỉnh nằm ở đầu phía Bắc của dải đất miền Trung. Đất rộng,
người đông, từ xưa vốn đã nổi tiếng là đất hiếu học. Là một tỉnh mà cuộc sống đang
còn nhiều khó khăn nên đối với người dân nơi đây, học là cách duy nhất để thoát
nghèo. Trên cơ sở kế thừa truyền thống hiếu học của quê hương, được sự chỉ đạo
của các nghị quyết Đảng, hoà chung với quá trình đổi mới của cả nước với mong
muốn xây dựng quê hương giàu đẹp, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá luôn quan tâm phát
triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo, đặc biệt là công tác giáo dục chuyên nghiệp. Với
tất cả sự nỗ lực, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá, giáo dục chuyên
nghiệp của tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, là cái nôi sản sinh ra nhiều nhân
tài cho đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên giáo dục chuyên nghiệp của
tỉnh Thanh Hoá vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế. Hiện nay, dưới tác động của nền
kinh tế thị trường, có nhiều vấn đề về giáo dục chuyên nghiệp đang trở thành mối
quan ngại của nhiều người dân tỉnh Thanh, đòi hỏi Đảng bộ Thanh Hoá phải có sự
chỉ đạo chặt chẽ hơn nữa, quán triệt những nghị quyết đổi mới của Đảng để áp dụng
vào thực tiễn địa phương nhằm đưa nghiệp giáo dục – đào tạo nói chung, giáo dục
chuyên nghiệp nói riêng phát triển hơn nữa xứng đáng với danh hiệu ―Đất Thanh
đất học‖.
Mặc dù, giáo dục chuyên nghiệp của tỉnh đang được đổi mới nhưng vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu CNH-HĐH đất nước và xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Vì
vậy, đây là đề tài được tham luận, nghiên cứu nhiều nhưng vẫn cần được nghiên
cứu nhiều hơn nữa, cụ thể hơn nữa tại các địa phương nhằm đưa ra bài học kinh
nghiệm, giải pháp để đưa giáo dục chuyên nghiệp nước ta đuổi kịp với các nền giáo
dục tiên tiến khác trên thế giới. Với mong muốn được góp một phần vào công tác
nghiên cứu và sự nghiệp phát triển giáo dục – đào tạo, là người con xứ Thanh, tôi
mạnh dạn chọn đề tài: Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo công tác giáo dục

3


chuyên nghiệp (1996 - 2010) làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử

Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu
Phải khẳng định rằng không có đề tài nào mà được toàn xã hội quan tâm như
giáo dục – đào tạo, bởi nó là yếu tố quyết định sự sống còn, hưng thịnh của một
quốc gia, một gia đình, một cá nhân. Không phải chỉ bây giờ, trong thời đại ngày
nay, giáo dục đào tạo mới được nhắc đến, quan tâm như thế. Đã có rất nhiều công
trình kinh điển về giáo dục – đào tạo được loài người nhắc đến như: các bộ kinh của
Nho gia, chủ nghĩa Mác - Lênin…
Là một lãnh tụ thiên tài, mà những tư tưởng của người đã trở thành kim chỉ
nam dẫn đường cho cách mạng Việt Nam tiến lên, ngay từ đầu Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề cao vai trò của giáo dục, và sự cần thiết của một nền giáo dục trong chế
độ xã hội chủ nghĩa bằng tác phẩm ―Bàn về công tác giáo dục‖, Nxb Sự thật, Hà
nội, 1972.
Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo nói chung, công tác
giáo dục chuyên nghiệp nói riêng với sự phát triển của đất nước nên các nhà lãnh
đạo Đảng và Nhà nước cũng có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như:
“Sự nghiệp giáo dục trong chế độ xã hội chủ nghĩa” của Phạm Văn Đồng, Nxb Sự
thật, Hà Nội (1978); “Phát triển mạnh mẽ giáo dục và đào tạo phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước‖ của Tổng Bí thư Đỗ Mười, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1991)...Các tác giả là những người giữ cương vị lãnh
đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước nên các công trình này đã hệ thống những quan
điểm, tư tưởng của Đảng về giáo dục – đào tạo.
Đảng Cộng sản Việt Nam với các Nghị quyết chuyên đề bàn về thực trạng và
phương hướng đổi mới giáo dục – đào tạo như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương
lầ n thứ 4 (khóa VII), Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (khóa VIII), Nghị
quyế t Hô ̣i nghi ̣Trung ương lầ n thứ 6 (khóa IX). Những tài liệu này là một hệ thống
những quan điểm, tư tưởng khoa học, bao gồm cả khái niệm, mục đích, nội dung,
cách dạy, cách học, cách quản lý, cách lãnh đạo ngành giáo dục. Đây là cơ sở lý
luận cho đường lối chính sách giáo dục đã và đang tiến hành ở nước ta, cho nền


4


khoa học giáo dục Việt Nam, cho chiến lược xây dựng con người mới của đất nước
Việt Nam XHCN, là kim chỉ nam cho Đảng bộ các địa phương lãnh đạo thực hiện
hoạt động giáo dục – đào tạo cụ thể.
Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu của các cơ quan như Ban Khoa giáo
Trung ương, Bộ Giáo dục – Đào tạo; các công trình của các đồng chí đã từng là
lãnh đạo ngành giáo dục – đào tạo như: tác phẩm “ Phát triển giáo dục, phát triển
con người phục vụ phát triển kinh tế - xã hội”, Nxb Khoa học xã hội (1996) của
Phạm Minh Hạc; “ Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện”, Tạp chí
Cộng sản, số tháng 9 (2002) của Trần Hồng Quân; “Đổi mới về nhận thức vị trí, vai
trò của giáo dục và đào tạo‖, Tạp chí nghiên cứu Giáo dục số 1 (1992) của Nguyễn
Minh Hiển…cũng là cơ sở quan trọng giúp cho người viết có được cái nhìn rõ nét
về định hướng chiến lược phát triển, quá trình tổ chức thực hiện đường lối phát
triển GD - ĐT của Đảng để từ đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới GD - ĐT.
Ngoài ra, còn có dự án của Tổ chức Văn hóa - Khoa học - Giáo dục của Liên
Hợp Quốc (UNESCO), Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP)
―Nghiên cứu tổng thể giáo dục - đào tạo, phân tích nguồn nhân lực VIE89/022‖ và
―Báo cáo đánh giá tình hình giáo dục và đào tạo của Việt Nam hiện nay‖, được tiến
hành trong 2 năm (1991-1992) nghiên cứu về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.
Riêng đối với giáo dục – đào tạo Thanh Hoá, đã có một số công trình nghiên
cứu, tiêu biểu là: “50 năm giáo dục và đào tạo Thanh Hoá (1945 - 1995), sự kiện
và thành tựu”, Nxb Thanh Hoá, 1995, do tập thể những người làm công tác giáo
dục ở địa phương biên soạn nhân dịp kỉ niệm 50 năm giáo dục và đào tạo Thanh
Hoá. Cuốn sách đã nhìn lại những sự kiện và thành tựu chính của nền giáo dục
Thanh Hoá suốt nửa thế kỉ qua, đồng thời phác hoạ về hướng phát triển của 15 năm
tiếp theo; “Danh sĩ Thanh Hoá và việc học thời xưa”, Nxb Thanh Hoá xuất bản
năm 1995 do Trần Văn Thịnh chủ biên, tuy chưa phải viết riêng về lĩnh vực giáo

dục nhưng cũng đã đề cập đến vai trò của tài năng và bồi dưỡng tài năng nhằm
chuẩn bị cho Thanh Hoá trong thời kỳ mới; Nhân kỉ niệm 60 năm ngày thành lập

5


trường, tập thể giáo viên trường THPT Lam Sơn biên soạn “60 năm Collège de
Lam Sơn - Đào Duy Từ - Lam Sơn 1931 – 1991” năm 1991…
Ngoài ra, gần đây có luận án thạc sỹ của Nguyễn Thị Hường "Đảng bộ tỉnh
Thanh Hoá lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông thời kỳ (1954 – 1975)"; mô ̣t số
các tham luận, nghiên cứu khoa học của những người tâm huyết với sự nghiệp giáo
dục - đào tạo trong tỉnh.
Các văn bản, nghị quyết của BCH Trung ương Đảng, các báo cáo của Tỉnh
ủy Thanh Hoá, UBND tỉnh, HĐND tỉnh về phát triển Giáo dục đào tạo nói chung và
phát triển giáo dục chuyên nghiệp nói riêng thời kỳ từ năm 1996 đến năm 2010.
Đây là nguồn tư liệu thể hiện những quan điểm, chính sách phát triển Giáo dục đào
tạo nói chung và giáo dục chuyên nghiệp nói riêng. Những báo cáo hàng năm của
HĐND tỉnh, UBND tỉnh đã tóm tắt tình hình phát triển Giáo dục đào tạo nói chung
và giáo dục chuyên nghiệp nói riêng qua các năm, nêu lên những thành tựu, hạn
chế, đề ra vướng mắc cần được tháo gỡ hay phương hướng nhiệm vụ cho những
năm tiếp theo. Khai thác các tư liệu trên sẽ phục vụ trực tiếp cho việc nghiên cứu đề
tài của tác giả luận văn.
Như vậy, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về giáo dục
chuyên nghiệp một cách chuyên sâu và tổng quát, nhấ t là các công trình nghiên cứu
về đường lối, chủ trương phát triển công tác giáo dục chuyên nghiệp của Đảng bộ
và chính quyền tỉnh Thanh Hoá trong thời kỳ đổi mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu và trình bày có hệ thống quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Thanh Hoá từ năm 1996 đến 2010 (chủ trương, đường lối, biện pháp thực hiện đổi

mới giáo dục chuyên nghiệp).
- Đánh giá khách quan, khoa học về thành tựu, hạn chế và nguyên nhân quá
trình lãnh đạo công tác phát triển giáo dục chuyên nghiệp của Đảng bộ tỉnh Thanh
Hoá

6


3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Tập hợp, hệ thống hóa những tư liệu về chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh
Hóa trong công tác GDCN của tỉnh.
Nghiên cứu, làm rõ những nội dung cơ bản trong chủ trương, đường lối,
chính sách GDCN của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa và các giải pháp, cách thức thực
hiện chủ trương, đường lối đó trong quá trình phát triển GDCN nh÷ng n¨m 1996 2010.
Thông qua việc phân tích, đánh giá những thành tựu và hạn chế về GDCN
của tỉnh rút ra một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa chỉ đạo
phát triển GDCN .
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cƣ́u:
+ Luận văn đi sâu nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đối
với công tác giáo dục chuyên nghiệp của tỉnh thông qua Chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng và Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá về giáo dục chuyên nghiệp và quá trình triể n khai
thực hiện các chỉ thị, nghị quyết đó của các cấp chính quyền, các sở, ban, ngành liên
quan.
+ Rút ra một số nhâ ̣n xét và kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Thanh Hoá đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục chuyên nghiệp trong giai đoạn
(1996- 2010).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Không gian: bao gồ m các trường đại học , cao đẳ ng , trung ho ̣c chuyên
nghiê ̣p và dạy nghề đóng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

+ Thời gian: trong thời kỳ từ năm 1996 đến 2010.
Mố c 1996: Đa ̣i hô ̣i Đảng lầ n th ứ VIII và đặc biệt là khi Hội nghị lần thứ Hai
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 12 - 1996) ra Nghị quyết:
“Định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kì CNH, HĐH
và nhiệm vụ đến năm 2000‖.
Mố c cuố i là năm 2010, năm kế t thúc nhiê ̣m kỳ Đa ̣i hô ̣i X của Đảng Cô ̣ng sản
Viê ̣t Nam.

7


5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
5.1. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luâ ̣n : luâ ̣n văn dựa vào quan điể m của chủ nghiã Mác -Lênin, quan
điể m của Đảng Cô ̣ng sản Viê ̣t Nam , tư tưởng Hồ Chí Minh về cách ma ̣ng xã hô ̣i
chủ nghĩa nói chung, về vấ n đề giáo du ̣c - đào ta ̣o nói riêng.
- Các phương pháp chủ yếu: phương pháp lịch sử và phương pháp logic
- Các phương pháp khác: phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng
hợp... để làm rõ những vấn đề cần thiết trong quá trình nghiên cứu.
5.2. Nguồ n tài liệu
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ lịch sử, tác giả sử dụng nguồn tư liệu chủ
yếu sau:
- Về kinh điển: tác giả chọn lựa các bài nói, bài viết của Các Mác, Ăng ghen,
Lênin và Hồ Chí Minh bàn về giáo dục.
- Các Văn kiện, Nghị định, Chỉ thị, Quyết định của Đảng và Nhà nước; của
Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh Thanh Hoá về giáo dục - đào tạo nói chung và công
tác giáo dục chuyên nghiệp nói riêng.
- Một số bài phát biểu, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
Bộ GD - ĐT; Tỉnh ủy, Sở GD - ĐT tỉnh Thanh Hoá.
- Các văn bản, báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về giáo dục chuyên

nghiệp.
- Các báo cáo của Sở GD - ĐT tỉnh Thanh Hoá, Phòng Giáo dục các huyện,
thị xã, thành phố trong tỉnh.
- Các công trình, bài viết của các chuyên gia nghiên cứu, các luận văn, luận
án về lĩnh vực giáo dục - đào tạo ở Châu Á, Việt Nam trong những năm gần đây.
- Các bài báo, tạp chí số ra hàng ngày, hàng tháng được đăng tải trên các
phương tiện thông tin đại chúng…
6. Đóng góp của luận văn
- Trình bày một cách hệ thống quá trình lãnh đạo, tổ chức thực hiện đổi mới
giáo dục chuyên nghiệp của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn 1996 - 2010.
- Rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình thực hiện.

8


- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng,
hiệu quả giáo dục chuyên nghiệp của tỉnh trong thời gian tới, từng bước đáp ứng tốt
hơn yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước nói chung, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hoá nói riêng.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những công trình
nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài.
7. Bố cục
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục; nội
dung chính của luận văn được chia thành 3 chươnng:
Chƣơng 1: Thực trạng và yêu cầu phát triển giáo dục chuyên nghiệp
Thanh Hoá trƣớc năm 1996.
Chƣơng 2: Giáo dục chuyên nghiệp Thanh Hóa tƣ̀ năm 1996 đến năm
2010.
Chƣơng 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm.


9


Chƣơng 1
THỰC TRẠNG VÀ YÊU CẦU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CHUYÊN
NGHIỆP THANH HOÁ TRƢỚC NĂM 1996
1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và truyền thống hiếu học của
nhân dân Thanh Hoá.
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Thanh Hoá là một tỉnh (xưa là bộ, là thừa tuyên, là trấn) của đất nước Việt
Nam, đã hiện diện trên bản đồ Việt Nam từ thời Hùng Vương và luôn có vị trí đặc
biệt trong quá trình tiến hoá của lịch sử. Các triều đại luôn thừa nhận đây là một dải
đất phên dậu để bảo vệ Tổ quốc. Vùng đất này đã chia sẻ với cả dân tộc những
chiến công chiến đấu và xây dựng suốt ngàn năm lịch sử.
Thanh Hoá là tỉnh địa đầu miền Trung - cửa ngõ của Trung Bộ nơi tiếp giáp
với đồng bằng Bắc Bộ rộng lớn phì nhiêu, với dải đất dài và hẹp về phía Nam.
Là một tỉnh lớn và đông dân, Thanh Hoá có diện tích đất liền 11.168km 2,
bằng 3,3 diện tích cả nước, có 70% đất đai là núi đồi và rừng. Phía Bắc giáp 3 tỉnh
Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình với đường ranh giới dài 175 km. Phía Tây giáp tỉnh
Hủa Phăn của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, với đường biên giới dài
192km. Phía Đông, mở rộng ra phần giữa của Vịnh Bắc Bộ thuộc biển Đông với
đường bờ biển dài hơn 102 km.
Thanh Hoá có hai miền là trung du - miền núi và đồng bằng – ven biển; trung
du - miền núi gắn với hệ núi cao phía Tây bắc và hệ núi Trường Sơn phía Nam gồm
11 huyện: Mường Lát, Quan Sơn, Quan Hoá, Bá Thước, Lang Chánh, Ngọc Lặc,
Thường Xuân, Như Xuân, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành, Như Thanh; với tổng diện tích
tự nhiên trên 800.000 ha (chiếm 2/3 diện tích cả tỉnh); dân số gần 1 triệu người, mật
độ dân số hơn 90 người/km2.
Đồng bằng – ven biển Thanh Hoá thuộc kiểu đồng bằng bồi tụ gồm 13
huyện, 2 thị xã và 1 thành phố là: huyện Vĩnh Lộc, Thọ Xuân, Triệu Sơn, Nông

Cống, Thiệu Hoá, Yên Định, Đông Sơn, Hà Trung, Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá,

10


Quảng Xương, Tĩnh Gia, thị xã Sầm Sơn và thị xã Bỉm Sơn và thành phố Thanh
Hoá.
Các tài nguyên của tỉnh rất phong phú đã, đang được quy hoạch khảo sát và
khai thác sử dụng bao gồm:
Tài nguyên nước dồi dào cả về bề mặt và nước ngầm. Trên bề mặt, có hệ
thống các sông chính là sông Hoạt, sông Mã, sông Yên, sông Bạng, sông Chu, sông
Bưởi với diện tích lưu vực là 39.756 km2 . Cùng với hệ thống nước ngầm, chúng
cung cấp lượng nước sạch đảm bảo cho sinh hoạt và sản xuất của tỉnh.
Thanh Hoá có vùng đồng bằng khá rộng (3.100km2), là đồng bằng rộng nhất
trong các tỉnh miền Trung, bằng 1/5 diện tích đồng bằng Bắc Bộ, do phù sa sông
Mã tạo thành. Đồng bằng Thanh Hoá có một số núi đá vôi và đồi phiến thạch xen
kẽ. Tài nguyên nông nghiệp rất lớn, là thị trường lớn để áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật từ sản xuất, chế biến tiêu thụ. Sản lượng lương thực ngày càng tăng, đảm
bảo an ninh lương thực trong tỉnh và một phần cho xuất khẩu. Diện tích trồng cây
công nghiệp tăng nhanh, đàn gia súc, gia cầm phát triển mạnh và phân bố đều khắp
các vùng miền trong tỉnh.
Tài nguyên khoáng sản có nhiều, đã khảo sát được 23 điểm có quặng: quặng
sắt – măng gan phân bố ở các huyện miền núi với trữ lượng khoảng 3 triệu tấn, sa
khoáng biển khoảng 1 triệu tấn,…
Tài nguyên rừng với 2/3 diện tích toàn tỉnh cũng là nguồn lợi hàng năm cung
cấp khoảng 100.000 tấn nguyên liệu cho công nghiệp giấy, chế biến gỗ…
Tài nguyên biển với bờ biển dài hơn 100 km, hải sản phong phú, hiện tại mới
khai thác được từ 18 đến 20% trữ lượng tôm, cá hàng năm.
Các tiềm năng khác về giao thông vận tải với gần 5000 km đường bộ; đường
sắt chạy qua tỉnh là 100 km; đường sông và ven biển có chiều dài 1.770 km. Về

điện năng đã có trạm và hệ thống phân phối điện năng toàn tỉnh phân bổ điện cho
sản xuất và sinh hoạt.
Về mặt khí hậu, Thanh Hoá nằm ở vĩ tuyến 20 trong vùng nhiệt đới gió mùa
rõ rệt của Đông Nam Á mưa nhiều, nắng lắm. Đây là điều kiện tự nhiên thuận lợi
cho hoa màu cây cối phát triển quanh năm. Khí hậu Thanh Hoá vừa mang đặc điểm

11


của Bắc Bộ (có một mùa đông ngắn, khô và lạnh, mùa xuân mưa phùn âm u và
thiếu nắng do sương mù), vừa mang đặc điểm của khí hậu Trung bộ (khô nóng, có
gió Tây Nam).
Nhìn chung tiềm năng tự nhiên của tỉnh Thanh Hoá là rất lớn, có đủ điều
kiện để phát triển thành một tỉnh kiểu mẫu về các lĩnh vực kinh tế xã hội. Trong
khoảng 10 năm trở lại đây nền kinh tế của tỉnh phát triển tương đối ổn định, có tốc
độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 6%. Cơ cấu kinh tế phát triển ngày
càng phù hợp với các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh như: mía đường, xi măng,
phân bón, vật liệu xây dựng,… tăng mạnh, Thanh Hoá có thể tham gia vào các tam
giác phát triển kinh tế phía Bắc.
1.1.2. Điều kiện dân cƣ
Về cư dân, Thanh Hoá có khoảng 3,6 triệu người, là tỉnh đông dân thứ 2
trong 61 tỉnh thành (sau thành phố Hồ Chí Minh). Huyện có số dân đông nhất tỉnh
là Quảng Xương với gần 300.000 người, ít dân nhất là huyện Mường Lát khoảng
29.000 người. Quy mô trung bình của mỗi đơn vị hành chính trong tỉnh là 13 vạn
người. Thanh Hoá là một cộng đồng gồm nhiều các dân tộc anh em: Kinh, Thái,
Mường, Hmông, Dao, Khơ mú, Tày, Nùng, … trong đó người Kinh chiếm đa số cư
dân với hơn 85% dân số. Người Thái có khoảng 20 vạn người gồm Thái trắng và
Thái đen, người Mường có 29 vạn người, người Hmông khoảng 5000 người, sống ở
vùng cao biên giới Thanh Hoá, người Tày có khoảng 7642 người sống ở Như
Xuân… Dân số đông là một trong những nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế

- xã hội của tỉnh.
Là một tỉnh có diện tích rộng và dân số đông, Thanh Hoá có một thành phố,
hai thị xã, 27 huyện, 30 thị trấn huyện lỵ, 9 thị trấn nông trường, 587 xã, 22 phường
và được chia thành 3 vùng cơ bản: đồng bằng ven biển, trung du và miền núi.
1.1.3. Kinh tế - xã hội
1.1.3.1 . Kinh tế.
Với đặc điểm địa hình và khí hậu như trên, nên Thanh Hoá chủ yếu sống
bằng nông nghiệp trồng lúa nước ngoài ra, công nghiệp, thủ công nghiệp, thương

12


nghiệp cũng khá phát triể n. Trong nhiều thế kỷ, Thanh Hoá có nhiều trung tâm nổi
tiếng với các nghề đúc đồng, làm dụng cụ bằng đá, chiếu cói,…
Trước năm 1986, cũng giống như nhân dân cả nước, Thanh Hoá gặp nhiều
khó khăn nhưng từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, hoà chung với không
khí của cả nước Thanh Hoá đã dần dần khắc phục được khó khăn, đời sống nhân
dân dần được cải thiện, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm tăng 6%.
Thanh Hoá đang cùng cả nước tiến hành CNH, HĐH đất nước. Hiện nay, Thanh
Hoá đang hình thành bốn khu công nghiệp lớn là Bỉm Sơn - Thạch Thành phía Bắc,
Nghi Sơn ở phía Nam, khu công nghiệp Lam Sơn ở phía Tây và khu công nghiệp
Lễ Môn ở phía Bắc.
Kinh tế của tỉnh trong những năm gần đây liên tục tăng trưởng ở mức khá cao,
giai đoạn 2006 - 2010 là 11,3%. GDP theo giá so sánh năm 2010 gấp 1,7 lần 2005.
GDP bình quân đầu người năm 2010 ước đạt 810 USD. Cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển
dịch theo đúng hướng nhu cầu của nền kinh tế thị trường. Từ năm 2005 đến 2010: tỉ
trọng nông nghiệp đã giảm từ 32,3% xuống còn 21,5%; tỉ trọng ngành công nghiệp xây dựng đã tăng từ 34,6% lên 44,1%; tỉ trọng các ngành dịch vụ tăng từ 33,1% lên
34,4%. Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ từng ngành kinh tế cũng có sự tiến bộ ngày
càng phù hợp với tiềm năng kinh tế địa phương. Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ chuyển
dịch theo hướng hình thành các vùng động lực tăng trưởng, các khu công nghiệp, khu

kinh tế, các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của
các vùng miền. Việc huy động vốn đầu tư phát triển tăng rõ nét. Năm 2010, tổng vốn
huy động ước đạt 85. 395 tỉ đồng tăng 55% so mục tiêu đề ra. Trong đó vốn tín dụng
nhà nước giảm, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng. Nhờ vậy, đời sống của nhân dân
địa phương cũng không ngừng được nâng cao. Nhưng nhìn chung Thanh Hóa vẫn là
một tỉnh nghèo. Năm 2008, cả nước có 62 huyện nghèo, riêng Thanh Hoá có 7
huyện, bình quân thu nhập GDP/người năm 2009 so với cả nước vẫn còn rất thấp
(ước 720 USD/1.200 USD).
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 2001
– 2010 là tập trung đẩy mạnh CNH nông nghiệp và phát triển nông thôn, phát triển
các ngành chế biến nông – lâm - thuỷ sản, công nghiệp vật liệu xây dựng, công

13


nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp điện tử tin học, phát triển du lịch dịch vụ. Khôi
phục và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống của địa
phương. Như vậy, nhu cầu về đào tạo lao động qua đào tạo sẽ tăng từ 19% lên 27%
vào năm 2005 và 38% vào năm 2010; đồng thời nhu cầu được đào tạo nghề cũng
tăng từ 87.700 năm 2000 lên 200.000 vào năm 2005 và 250.000 người vào năm
2010; từ đó đòi hỏi giáo dục chuyên nghiệp Thanh Hoá phải có kế hoạch đào tạo
nguồn nhân lực phù hợp để đáp ứng sự nghiệp CNH và HĐH của tỉnh.
1.1.3.2 . Về xã hội
Thanh Hoá là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi phát tích của nhiều triều đại
phong kiến, đồng thời cũng là nơi sinh ra nhiều danh nhân với những đóng góp lớn
lao cho đất nước. Trong bài nói chuyện với đại biểu thân sỹ, trí thức ngày
20/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá ―Thanh Hoá có tiếng là văn vật‖,
―tỉnh Thanh Hoá vừa rạng rỡ đất văn vừa oai phong đất võ‖ [5, tr.7]. Suốt thời
phong kiến, từ khoa thi đầu tiên thời Lý (1075) đến khoa thi cuối cùng thời Nguyễn
(1919), Thanh Hoá có trên 200 vị đỗ tiến sỹ trong tổng số 2989 tiến sỹ của cả nước.

Chính điều này đã tạo nên những truyền thống văn hoá phong phú, đa dạng và đặc
sắc của Thanh Hoá. Những vị anh hùng dân tộc, những người con ưu tú của quê
hương như: Lê Hoàn, Lê Lợi, những điệu hò sông Mã, những điệu dân ca của các
dân tộc Kinh, Mường, Thái… những lễ hội, những tác phẩm bất hủ của các danh
nhân văn hoá như: ―Đại Việt sử ký‖ của Lê Văn Hưu, ―Song tinh bất dạ‖ của
Nguyễn Hữu Hào, ―Hổ trướng khu cơ‖ của Đào Duy Từ… trở thành những nét tiêu
biểu và là niềm tự hào của văn hoá xứ Thanh.
1.1.4. Truyền thống hiếu học của nhân dân Thanh Hoá
Có thể nói, Thanh Hoá là một trong những tỉnh có truyền thống hiếu học,
được hình thành sớm trong lịch sử và tiếp tục được lưu truyền đến ngày nay.
Ngay từ thế kỷ VIII, Khương Công Phụ người ở làng Cẩm Cầu (Hoa Cầu), xã
Sơn Ôi – Ái Châu (thôn Tường Văn – xã Định Thành - huyện Yên Định) là nhân sỹ
đầu tiên của nước ta thi đỗ đại khoa (Tiến sỹ) ở Trung Quốc đời Đường Đức Tông
(780 - 804) [95, tr.41].

14


Thời phong kiến độc lập, hầu như khoa thi nào Thanh Hoá cũng có người đỗ
đại khoa. Từ khoa thi đầu tiên năm Thái Ninh (Ất Mão - 1075) triều Lý đến khoa thi
nho học cuối cùng năm Khải Định (Kỷ Mùi - 1919), trải qua 188 kỳ thi Hội trong
tổng số Tiến sỹ của cả nước là 2989 vị, xứ Thanh có 200 vị. Trong đó, có 20 Tam
khôi (6 Trạng nguyên, 8 Bảng nhãn, 6 Thám hoa), 184 Tiến sỹ. Thanh Hoá cũng là
nơi sinh ra những học giả xuất sắc có các công trình, các tác phẩm nổi tiếng lưu lại
cho đời sau: Lê Văn Hưu một đại thủ bút thời Trần, nhà sử học nổi tiếng, tổ sư của
ngành Sử học Việt Nam với bộ ―Đại Việt sử ký‖ đầu tiên (1272); Lương Đắc Bằng
với 14 kế sách trị binh và là thầy của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm; Đào Duy Từ
vừa là Tử Phòng vừa được ví như Khổng Minh của chúa Nguyễn, đồng thời được
coi là nhà văn hoá toàn diện của đất Việt đầu thế kỷ XVIII; Hà Tông Huân từng một
thời ―Nhất đẳng văn chương‖, là thầy học của hiền nhân danh sỹ Phan Kính; Nhữ

Bá Sỹ là thầy học của Bảng nhãn Phạm Thanh, Thám hoa Mai Anh Tuấn, từng
được sỹ phu nhà Thanh (Trung Quốc) khâm phục ví như ―Cây si già toả rộng ngàn
nắng lửa‖.
Bên cạnh các hiền nhân nổi tiếng còn có các thầy giáo nổi tiếng không chỉ ở
địa phương mà còn trong cả nước. Cuối thế kỷ XIV đầu XV, thầy giáo Lê Văn Linh
quê Thọ Xuân, tuy không đỗ đạt gì nhưng đã mở trường dạy học, đào tạo nhiều
người giỏi sau này góp phần tích cực cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông được tôn
là thầy Mai Trai (đồng thời với Nguyễn Trãi là Ức Trai). Thầy giáo Nguyễn Sư Lộ
(Thám hoa năm 1554) là người có cách dạy rất độc đáo, ngồi trên phiến đá bên
đường dạy cho tất cả những ai đi qua (vì vậy mới gọi là Sư Lộ). Đầu thế kỷ XVIII,
thầy giáo Trần Ân Chiêm là người thầy lỗi lạc, đã mở trường Yên Định. Học trò của
ông sau này rất nhiều người đỗ đạt như: Bảng nhãn Hà Tông Huân, Thám hoa Đỗ
Huy Kỷ…
Đặc biệt, đầu thế kỷ XIX, thầy giáo Nhữ Bá Sỹ được xem là người thầy xuất
sắc nhất không chỉ ở Thanh Hoá mà còn của cả nước, có lẽ ông là người đầu tiên
mở trường và đưa ra những quy định, nội dung, thể thức dạy học đầu tiên.
Với tinh thần ―tôn sư trọng đạo‖, nhân dân Thanh Hóa đã bằng nhiều hình
thức ghi nhận công lao của họ như: lập đền thờ, khắc tên vào bia đá ở địa phương

15


để thờ phụng và lưu truyền hậu thế. Ngày nay, tại một số địa phương như: Thọ
Xuân, Đông Sơn, Hoằng Hoá…vẫn còn dấu tích của việc dựng Bia, lập Văn chỉ
nhằm lưu giữ lại thành tích học tập và kết quả khoa bảng của sỹ tử xưa. Đây là một
nét truyền thống tốt đẹp của xứ Thanh, nó thể hiện sự kính trọng của người dân đối
với những người có học.
Ngày nay, kế thừa những di sản vô giá đó, tại các địa phương trong tỉnh
Thanh luôn luôn có những ―trò hay thầy giỏi‖. Đất Thanh được coi là ―đất học‖ của
cả nước. Hiện tại, có hơn 300 Phó giáo sư, Tiến sỹ, hơn 200 Thạc sỹ và hàng ngàn

Kỹ sư, Bác sỹ, Cử nhân, hàng chục vạn cán bộ văn hoá, khoa học kỹ thuật hoạt
động trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Hơn 300 Giáo sư, Tiến sỹ, Phó
giáo sư là những người con của xứ Thanh đang đem tài năng, tâm huyết của mình
phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH trên khắp mọi miền đất nước.
Như vậy, nhìn một cách khái quát về truyền thống hiếu học của Thanh Hoá ta
thấy rằng: đây là cả một quá trình hun đúc lâu dài, bền bỉ, thể hiện tính cần cù chịu
khó học hỏi của người dân địa phương. Chúng ta càng tự hào hơn khi mang danh
con cháu xứ Thanh và càng quyết tâm hơn khi tiếp tục là những thế hệ tiếp nối cha
ông xây dựng nền giáo dục đào tạo của quê hương xứ Thanh cũng như của đất nước
ngày hôm nay.
Từ đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa nêu trên có thể
thấy: nhu cầu phát triển nguồn nhân lực đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh là rất cao. Sự phát triển kinh tế ngày càng cao cộng với thế mạnh truyền thống
hiếu học là một trong những điều kiện hết sức thuận lợi trong việc thực hiện chính
sách phát triển giáo dục của Đảng nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Tuy vậy, sự đa dạng về điều kiện tự nhiên dẫn đến sự chênh lệch trình độ phát triển
kinh tế của vùng miền; diện tích rộng, dân số đông, kinh tế kém phát triển nhu cầu
đầu tư cho giáo dục cao trong khi ngân sách được cấp không cao hơn các tỉnh khác.
Vì vậy, đây cũng là một khó khăn không nhỏ trong quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh
Hóa lãnh đạo thực hiện chính sách phát triển GDCN.

16


1.2 . Khái quát về tình hình giáo dục chuyên nghiệp Thanh Hóa trƣớc năm
1996.
Năm 1950, trong chương trình Cải cách Giáo dục, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa chính thức thiết lập Hệ thống Giáo dục chuyên nghiệp và Hệ thống
Giáo dục đại học. Năm 1951, Bộ Quốc gia Giáo dục lúc bấy giờ mới có Nghị định
về tổ chức các trường thuộc khối giáo dục chuyên nghiệp; đào tạo cán bộ chuyên

môn cho các ngành học. Nhìn chung đó là một hệ thống gồm 3 cấp: Sơ cấp (HS tốt
nghiệp cấp I – tốt nghiệp lớp 4); Trung cấp (học sinh học hết cấp II-tốt nghiệp lớp 7
học từ 2 đến 4 năm); Cao cấp – Đại học (học sinh hết cấp III). Thời gian học từ 1
đến 2 năm là chủ yếu. Bên cạnh hệ thống chính quy này vẫn tồn tại hệ thống không
chính quy, đào tạo cấp tốc.
Ở Thanh Hóa trước năm 1950 (năm 1949), Bộ Quốc gia Giáo dục đặt một lớp
Đại học văn khoa ở Quần Tín (Thọ Xuân) có 7 sinh viên chính thức, 4 sinh viên không
chính thức để giáo sư Đặng Thai Mai dạy. Lớp này học một số chuyên đề trong vòng
một vào tháng với thầy Đặng Thai Mai lại vào Diễn Châu (Nghệ An) học một số
chuyên đề với thầy giáo Cao Xuân Huy, và cũng chỉ tồn tại trong năm 1949. Năm
1950, Bộ Ngoại giao cũng mở và tuyển sinh ở Thanh Hóa trường trung cấp ngoại giao
(chỉ chưa đến 20 người). Cũng năm này, trường Sư phạm sơ cấp Liên khu IV (đào tạo
giáo viên cấp I) được thành lập ở tỉnh, tuyển sinh và khai giảng từ năm học 1950 –
1951. Các trường lớp này là trường của Trung ương và khu vực đặt tại Thanh Hóa.
Nghĩa là đến 1950, thực tế Thanh Hóa chưa xuất hiện hệ thống giáo dục chuyên nghiệp
của mình, ngoại trừ một số lớp sư phạm cấp tốc, một số lớp sư phạm thực hành, kỹ
nghệ thực nghiệm đã tổ chức và thi kiểm tra tốt nghiệp từ năm 1946 đến 1949.
Trường lớp chuyên nghiệp đầu tiên của tỉnh là Sư phạm cấp tốc miền núi Ngọc
Lặc (36 học viên). Hòa bình lập lại, từ 1958 trở đi tỉnh Thanh Hoá mới hình thành và
phát triển hệ thống giáo dục chuyên nghiệp mà đầu tiên là các trường sư phạm cấp I và
Sư phạm trung cấp. Hệ thống Giáo dục chuyên nghiệp phát triển mạnh mẽ nhất chính
là vào những năm tháng cả nước cũng như toàn tỉnh phải chiến đấu ác liệt với chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ xâm lược (1965 - 1975). Phát triển nhanh chóng về số
lượng đến mức Nghị quyết 278 ĐT/UBTH của Ủy ban hành chính tỉnh tháng 5 – 1970

17


phải nêu là một nhược điểm: ―Việc phát triển về số lượng quá nhanh vượt quá các điều
kiện khác để đảm bảo về chất lượng‖. (Tổng số trường lên đến 93, kể cả một số

trường văn hóa tập trung) [86, tr.50]
Năm học 1977 – 1978, ngành Giáo dục – Đào tạo Thanh Hóa bước vào năm
học đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV; Thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV; Thực hiện Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ
lần thứ IX. Trường Cao đẳng sư phạm được chính thức công nhận (QĐ 164 TTg của
Thủ tướng Chính phủ).
Ngày 11-1-1977, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết
14 về Cải cách giáo dục. Toàn ngành Giáo dục bắt đầu thực hiện Cải cách giáo dục lần
thứ 3. Nội dung mục tiêu cơ bản:
1. Coi giáo dục là một bộ phận quan trọng của cách mạng tư tưởng văn hoá, một
nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hoá và kỹ thuật. Giáo dục là nhân
tố có tính quyết định dối với vịêc đào tạo nhân tài. Đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ lao
động mới, có đạo đức, có kiến thức khoa học và kỹ thuật, có kỹ thuật, có kỹ năng, có
sức khoẻ.
2. Chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ tuổi thơ ấu đến tuổi trưởng thành. Phấn
đấu cho trẻ em từ 6 tuổi đến tuổi trưởng thành học hết PTTH. Thực hiện PCGDTH cho
công nhân, nông dân, mọi người lao động.
3. Thực hiện tốt nguyên lý giáo dục: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với
lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Lao động trong nhà trường phổ
thông có tính chất kỹ thuật tổng hợp. Trong nhà trường chuyên nghiệp và đại học, lao
động sản xuất gắn với đào tạo nghề, nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
4. Cải cách cả cơ cấu hệ thống giáo dục, cải cách nội dung giáo dục và cải cách
phương pháp giáo dục.[86, tr.53]
Theo nghị quyết ―Quy hoạch mạng lưới các trường chuyên nghiệp‖ hệ thống
các trường chuyên nghiệp của tỉnh trong những năm bảy mươi như sau:
1 - Trường trung học, sơ học chuyên nghiệp: 20 trường (trong đó khối sư
phạm 11 trường) bao gồm các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, kinh tế - tài chính, y
tế, thể dục thể thao, văn hóa nghệ thuật ở cả miền xuôi và miền núi. Phần lớn đào

18



×