Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Hạn chế của doanh nghiệp việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1021.99 KB, 72 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------------

NGUYỄN THU TRANG

HẠN CHẾ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC

Hà nội - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------------

NGUYỄN THU TRANG

HẠN CHẾ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế
Mã số: 60 31 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Khắc Nam



Hà nội - 2009


MỤC LỤC

MỤC LỤC ..................................................................................................... 1
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ................................................................... 2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................ 3
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................... 4
CHƢƠNG 1 QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ...................................................................... 8
1.1. Khái quát về Hội nhập kinh tế quốc tế ............................................. 8
1.2. Quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của doanh nghiệp
Việt Nam ................................................................................................ 9
1.3. Đánh giá chung ............................................................................. 15
CHƢƠNG 2 NHỮNG HẠN CHẾ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ .................................................. 19
2.1. Hạn chế từ phía doanh nghiệp ....................................................... 19
2.2. Hạn chế từ mơi trƣờng kinh doanh và chính sách nhà nƣớc. .......... 37
CHƢƠNG 3 GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC HẠN CHẾ CỦA DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC
TẾ 47
3.1. Doanh nghiệp ................................................................................ 47
3.2. Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nƣớc.................................. 59
KẾT LUẬN .................................................................................................. 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 66

1



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Số lƣợng doanh nghiệp Việt Nam qua các thời kỳ ........................ 10
Bảng 1.2 Tỉ lệ loại hình doanh nghiệp năm 2005.......................................... 12
Bảng 1.3: Số lƣợng doanh nghiệp phân bổ theo vùng 2005 .......................... 13
Bảng 1.4: So sánh về lao động và nguồn vốn tại Doanh nghiệp từ 2000- 2005
..................................................................................................................... 14
Bảng 1.5: Hiệu quả kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp ................... 15
Bảng 2.1: Tỉ trọng đầu tƣ của các TĐKT và các TCT .................................. 27
Bảng 2.2 Thực trạng giấy phép và điều kiện kinh doanh .............................. 45

Biểu 2.1: Tỉ lệ lao động đƣợc đào tạo ........................................................... 30
Biểu 2.2: Tƣơng quan về vốn giữa các loại hình doanh nghiệp (tỉ đồng) ...... 33
Biểu 2.3: Quy mô vốn của doanh nghiệp ...................................................... 33

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADB:

Asia Development Bank
Ngân hàng phát triển Châu Á

FDI:

Foreign Development Investment
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài


EU:

European Union
Liên minh Châu Âu

IMF:

International Money Fund
Quỹ Tiền tệ Quốc tế

WB:

World Bank
Ngân hàng thế giới

WTO:

World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới

3


LỜI NÓI ĐẦU

Bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lƣợng sản xuất và phân công
lao động quốc tế, Tồn cầu hố và Hội nhập kinh tế quốc tế đã thực sự trở
thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc
gia và quan hệ quốc tế.

Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần
giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã đƣợc mở rộng ra tất cả lĩnh
vực liên quan đến chính sách kinh tế thƣơng mại, nhằm mục đích mở cửa thị
trƣờng cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vơ hình đối
với trao đổi thƣơng mại. Đối với Việt Nam, vấn đề đặt ra khơng phải là có hội
nhập hay khơng mà là làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả,
đảm bảo đƣợc lợi ích dân tộc, nâng cao đƣợc sự cạnh tranh của nền kinh tế,
thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong q trình hội
nhập. Báo cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng, nhất là Nghị quyết 07- NQ/W
ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh
quan điểm: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngồi để phát triển
nhanh, có hiệu quả và bền vững, đảm bảo tính độc lập tự chủ và định hƣớng
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy
bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ mơi trƣờng sinh thái.” [10, tr.113]
Theo quan điểm này, hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện tồn cầu
hố kinh tế là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham
gia phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực
trong nƣớc và nƣớc ngồi, mở rộng khơng gian và mơi trƣờng để phát triển và
chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan hệ kinh tế quốc tế. Doanh nghiệp là
những đối tƣợng chính tham gia hội nhập về kinh tế, là yếu tố quyết định cho
sự thành công của hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh các yếu tố khác nhƣ sự
4


quản lý và chính sách vĩ mơ của nhà nƣớc. Và hội nhập kinh tế quốc tế chính
là vận hội lớn giúp cho doanh nghiệp mở rộng kinh doanh, thâm nhập thị
trƣờng thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị trƣờng ổn định, từ đó có điều kiện
thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế trong nƣớc,
thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội

2001 - 2010.
Tuy nhiên, Việt Nam chủ động và tích cực hội nhập khi đang còn là
một nền kinh tế tập trung, nhỏ và yếu, nên những khó khăn, hạn chế và thậm
chí là cả thất bại bƣớc đầu là tất yếu.
1.

Đề tài luận văn: Nhìn nhận đƣợc tính khách quan và bản chất của
vấn đề trong những hạn chế của doanh nghiệp Việt Nam, đề xuất ra
các phƣơng hƣớng giải quyết chúng, góp phần đƣa Việt Nam hội
nhập kinh tế quốc tế thành cơng, chính là mục đích cuối cùng của đề
tài. Xuất phát từ mục tiêu trên, em quyết định chọn đề tài: “Hạn chế
của Doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình Hội nhập kinh tế
quốc tế” cho luận văn thạc sĩ của mình, nhằm góp phần định dạng
những trở ngại của doanh nghiệp trong quá trình phát triển, hội nhập
và đề xuất một số giải pháp tƣơng đối khả thi để giải quyết vấn đề
trên.

2.

Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn là những hạn chế hay khó
khăn bất cập của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình Hội nhập
kinh tế quốc tế, từ đó đề ra các giải pháp khắc phục để doanh nghiệp
vƣợt qua các rào cản khách quan và chủ quan để hội nhập sâu và
rộng hơn. Phạm vi không gian nghiên cứu của luận văn là hoạt động
của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh Hội nhập kinh tế quốc tế.
Phạm vi thời gian của Luận văn là từ 2001 – 2007 (sau Đại hội Đảng
IX đến nay).

3.


Phƣơng pháp nghiên cứu: Vì đây là luận văn tốt nghiệp ngành
5


Quan hệ Quốc tế, nên tác giả luận văn đã vận dụng quan điểm của
Đảng và Nhà nƣớc về phát triển kinh tế để đƣa ra các nhận định và
giải quyết các vấn đề. Đồng thời, Hội nhập kinh tế cũng là một hiện
tƣợng trong Kinh tế Quốc tế nên để tìm hiểu các quy luật vận động
của chúng, tác giả luận văn cũng vận dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu trong Quan hệ Kinh tế Quốc tế.
Tài liệu tham khảo: Luận văn này đƣợc viết dựa trên nguồn tài liệu

4.

chính là các Văn kiện chính thức của các Đại hội Đảng, các văn bản
chính sách của Nhà nƣớc, các Bộ ngành liên quan về thúc đẩy Hội
nhập kinh tế Quốc tế, các tài liệu chính thức của các tổ chức Hiệp hội
doanh nghiệp nhƣ Phịng Thƣơng mại và Cơng nghiệp Việt Nam,
Hiệp hội Doanh nghiệp Hà Nội và các bài nghiên cứu sâu của các
học giả kinh tế trong và ngòai nƣớc.
Cấu trúc của Luận văn: Luận văn đƣợc viết theo cấu trúc gồm 3

5.

phần: Phần mở đầu, 3 chƣơng nội dung và phần kết luận. Phần nội
dung chính gồm 3 chƣơng:


Chƣơng 1 đƣa ra khái quát chung về Hội nhập kinh tế quốc tế, ý


nghĩa vai trị của nó trong q trình Hội nhập quốc tế là chủ trƣơng
chính sách phù hợp của nhà nƣớc Việt Nam nhằm thúc đẩy và tạo điều
kiện để doanh nghiệp Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế
thế giới. Nội dung Chƣơng 1 cũng đƣa ra khái quát chung về doanh
nghiệp Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2007.


Chƣơng 2 phân tích vào những hạn chế chủ quan và khách quan

của doanh nghiệp trong quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế. Hạn chế
chủ quan là những nhân tố yếu kém từ chính bên trong doanh nghiệp:
khả năng lãnh đạo, định hƣớng thị trƣờng, nguồn vốn và nhân lực…
Hạn chế khách quan là những khó khăn về môi trƣờng kinh doanh
trong nƣớc của doanh nghiệp, những cơ chế chính sách đặc thù dành
6


cho doanh nghiệp vẫn còn nhiều ràng buộc và chƣa thực sự tạo điều
kiện tối đa cho doanh nghiệp.


Chƣơng 3 đề xuất các giải pháp khắc phục những hạn chế và yếu

kém của doanh nghiêp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, từ việc nâng cao năng lực cạnh tranh (giá trị nội tại của doanh
nghiệp) đến việc cải thiện môi trƣờng kinh doanh trong nƣớc cũng nhƣ
điều chỉnh các chính sách vĩ mơ để doanh nghiệp tiếp cận thị trƣờng
quốc tế một cách dễ dàng hơn.

7



CHƢƠNG 1
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1.1. Khái quát về Hội nhập kinh tế quốc tế
Định nghĩa:
Hội nhập kinh tế quốc tế là trình độ cao của quan hệ hợp tác kinh tế
quốc tế. Hội nhập có nghĩa là gia nhập, tham gia vào một tổ chức chung, một
trào lƣu chung của quốc tế, mỗi quốc gia trở thành một bộ phận trong một
tổng thể. Hội nhập kinh tế thƣờng có nhiều mức độ từ nông đến sâu, từ một
vài lĩnh vực đến nhiều lĩnh vực, từ một vài nƣớc đến nhiều nƣớc. [4, tr.34]
-

Hội nhập theo mức độ liên kết:
+ Khu vực thƣơng mại tự do (Free Trade Area)
+ Liên hiệp thuế quan (Customs Union)
+ Thị trƣờng chung (Common Market)
+ Hội nhập kinh tế (Economic Intergration)
+ Hội nhập kinh tế toàn bộ (Total Economic Intergration)

-

Hội nhập theo địa lý: Hội nhập toàn cầu, hội nhập theo khu vực

-

Hội nhập theo lĩnh vực: thƣơng mại, dịch vụ, tài chính…
Khi hội nhập kinh tế, mỗi quốc gia vẫn tồn tại với tƣ cách là một quốc


gia độc lập tự chủ, tự nguyện lựa chọn các lĩnh vực và tổ chức thích hợp để
hội nhập. Tuy nhiên, khi đã gia nhập thì phải tuân theo đầy đủ các nguyên tắc
chung, phải thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của một thành viên, phải điều
chỉnh chính sách của mình sao cho phù hợp với luật chơi chung. [4, tr.34]
Tác động của Hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế là xu hƣớng toàn cầu nên tác động của nó lan toả đến
mọi khu vực, mọi quốc gia. Ngay cả những nƣớc chƣa tham gia vào quá trình
8


đó cũng bị ảnh hƣởng, tác động. Thực tế, trong thế giới ngày nay tuyệt đại bộ
phận các nƣớc đều mở cửa hội nhập nên tác động của hội nhập rất rộng lớn.
Kinh tế là nền tảng của một quốc gia nên hội nhập kinh tế sẽ tác động
toàn diện đến các mặt chính trị, văn hố xã hội của đất nƣớc. Bất kể nƣớc nào
đã hội nhập đều phải điều chỉnh luật lệ, chính sách để hội nhập thành công và
hiệu quả. Tuy nhiên hội nhập kinh tế là một quá trình, nên tuỳ theo mức độ
mà hội nhập trong từng giai đoạn mà tác động của nó có ảnh hƣởng đến các
mặt chính trị, kinh tế, văn hố và xã hội. Về phƣơng diện kinh tế thì hội nhập
kinh tế có những tác động chủ yếu sau:
(i)

Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các nƣớc phải mở cửa nền kinh tế, thực

hiện tự do hoá về thƣơng mại và đầu tƣ.
(ii) Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các nƣớc phải tiến hành cải cách, đổi
mới kinh tế trong nƣớc, nếu khơng sẽ nhanh chóng tụt hậu so với các nƣớc
khác.
(iii) Hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo ra áp lực cạnh tranh gay gắt hơn,
không chỉ trẻ thị trƣờng xuất khẩu mà ngay cả tại thị trƣờng nội địa.
(iv) Hội nhập kinh tế quốc tế buộc các nƣớc phải cơ cấu lại nền kinh tế, tham

gia tích cực vào q trình hợp tác và phân công lao động quốc tế để tập trung
vào những ngành sản xuất hiệu quả và có thế mạnh.
(v) Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh đến dịch vụ, bản quyền, sở
hữu trí tuệ, mơi trƣờng, sức khoẻ con ngƣời… những thứ còn mới mẻ so với
Việt Nam.[4, tr. 38-40]
1.2. Quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của doanh nghiệp
Việt Nam
Doanh nghiệp trong Luận văn này là một đơn vị kinh tế thực hiện hạch
tốn kinh tế độc lập, có đầy đủ tƣ cách pháp nhân, đƣợc thành lâp theo Luật
Doanh nghiệp Nhà nƣớc, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp, Luật Ðầu tƣ
trực tiếp của nƣớc ngoài hoặc theo Hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt
9


Nam với Chính phủ nƣớc ngồi. Cụ thể gồm các loại hình doanh nghiệp sau
đây:
(i)

Các Doanh nghiệp Nhà nƣớc do Trung ƣơng quản lý và do
Ðịa phƣơng quản lý (kể cả các doanh nghiệp kinh tế Ðảng,
đoàn thể do Nhà nƣớc cấp vốn);

(ii)

Các doanh nghiệp tập thể thành lập theo Luật Hợp tác xã;

(iii)

Các doanh nghiệp tƣ nhân.


(iv)

Các công ty hợp danh;

(v)

Các công ty trách nhiệm hữu hạn;

(vi)

Các công ty cổ phần (kể cả doanh nghiệp Nhà nƣớc cổ phần
hoá, cơng ty cổ phần có vốn góp của Nhà nƣớc);

(vii)

Các doanh nghiệp 100% vốn đầu tƣ trực tiếp của nƣớc ngoài,
doanh nghiệp liên doanh đƣợc thành lập theo Luật đầu tƣ trực
tiếp của nƣớc ngồi. [4, tr. 5-10]

Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận
chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nƣớc (GDP). Những năm gần đây, hoạt
động của doanh nghiệp đã có bƣớc phát triển đột biến, góp phần giải phóng
và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế
xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trƣởng kinh tế, tăng kim
ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các
vấn đề xã hội nhƣ: Tạo việc làm, xố đói, giảm nghèo...Sự phát triển của
doanh nghiệp nói chung là tiền đề vững chắc cho quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế mà hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đang từng bƣớc hƣớng tới.
Số lƣợng Doanh nghiệp tăng nhanh
Bảng 1.1: Số lượng doanh nghiệp Việt Nam qua các thời kỳ

Năm

2000

DN
nhà nƣớc
5.759

Số lƣợng DN
DN ngồi
nhà nƣớc
35.004
10

Tổng cộng
DN có vốn
nƣớc ngồi
1.525

42.288


2005
2010

4.086

105.569

3.697


113.352
500.000
(dự báo)

Nguồn:[34]
Nhìn bảng trên chúng ta thấy số doanh nghiệp ngày một tăng, nếu tính
đến cuối năm 2000 cả nƣớc có 42.288 doanh nghiệp đã và đang hoạt động
sản xuất kinh doanh, thì cũng vào thời điểm này năm 2005 là 113.352 doanh
nghiệp, bình quân mỗi năm trong 5 năm tăng trên 14 nghìn doanh nghiệp
thực tế có hoạt động. Nhƣ vậy để có thể có 500.000 doanh nghiệp vào cuối
năm 2010 địi hỏi phải có sự đầu tƣ nhiều hơn nữa của mọi thành phần kinh
tế để thành lập các doanh nghiệp mới, trên cơ sở 4 chữ T (Tri thức, Tiền,
Tâm, Thông tin) của các nhà đầu tƣ thuộc mọi thành phần kinh tế, cùng với
việc xây dựng và thực hiện các Luật liên quan và những cải cách của Nhà
nƣớc nhằm tạo thuận lợi cho việc thành lập cũng nhƣ hoạt động của các
doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nhìn bảng trên chúng ta cũng thấy, trong khi số doanh
nghiệp nhà nƣớc ngày một giảm thì số doanh nghiệp ngồi nhà nƣớc và
doanh nghiệp có vốn nƣớc ngồi lại ngày một tăng. Việc tăng số doanh
nghiệp nói chung, và có tăng có giảm số doanh nghiệp ở các thành phần
kinh tế khác nhau hoàn toàn phù hợp với đƣờng lối phát triển của Đảng và
Nhà nƣớc: với các doanh nghiệp nhà nƣớc theo chủ trƣơng sắp xếp và cổ
phần hoá doanh nghiệp, cho nên khơng ít đơn vị bị giải thể, doanh nghiệp
đƣợc ghép lại và doanh nghiệp cổ phần hố (năm 2000 có 305 cơng ty cổ
phần có vốn Nhà nƣớc, năm 2005 tăng lên 1096 doanh nghiệp); các doanh
nghiệp khác tăng nhanh bởi chủ trƣơng phát triển kinh tế nhiều thành phần
đã đƣợc Luật hoá từ văn bản Luật quan trọng nhất đó là Hiến pháp, bởi
chủ trƣơng đẩy nhanh hội nhập quốc tế,… chính vì những vấn đề cơ bản
trên cùng với Việt Nam đã ra biển khơi WTO, và kết quả thu hút vốn đầu

tƣ nƣớc ngoài ngày một nhiều hơn cùng những cải cách hành chính và
11


chống tham nhũng sẽ hứa hẹn số doanh nghiệp thuộc hai thành phần này sẽ
tăng nhanh hơn trong năm 2006-2010. [34]
Quy mô lao động và nguồn vốn và cơ cấu của doanh nghiệp cũng
có bƣớc tiến đáng kể
Số lƣợng doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau, nhƣng
lao động và nguồn vốn của các thành phần kinh tế khơng cùng theo một tỷ
lệ. Doanh nghiệp nhà nƣớc có số lao động và nguồn vốn tăng nhanh nhất,
sau đó là doanh nghiệp có vốn nƣớc ngồi, trong khi đó doanh nghiệp
ngoài nhà nƣớc lại giảm tƣơng đối, cụ thể mời xem bảng sau để biết tỉ lệ
từng loại hình doanh nghiệp trong tổng số doanh nghiệp nói chung trên cả
nƣớc trong năm 2005:
Bảng 1.2 Tỉ lệ loại hình doanh nghiệp năm 2005
Hạng mục
Số lƣợng
Số lao động
Nguồn vốn
Nguồn[34]

DN
Nhà nƣớc
3,81%
32,69%
54,06%

DN ngoài
nhà nƣớc

93,13%
47,46%
26,27%

DN có vốn
nƣớc ngồi
3,26%
19,55%
19,67%

Cơ cấu các doanh nghiệp phân theo ngành kinh tế cũng có chiều
hƣớng tích cực, nhằm đẩy nhanh hơn quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hƣớng công nghiệp và dịch vụ: số doanh nghiệp thuộc khu vực I chỉ
còn 2,14% (năm 2000: gần 8%), khu vực II: 36% (năm 2000:
35,2%),…Đặc biệt các doanh nghiệp một số ngành tăng rất nhanh, nhƣ:
công nghiệp khai thác dầu thơ, khí tự nhiên, sản xuất các sản phẩm từ cao
su và platstic, sản xuất các sản phẩm từ kim loại, sản xuất máy thu thanh,
thu hình và thiết bị truyền thơng, bƣu chính, viễn thơng, bảo hiểm.
Số doanh nghiệp ngày một trải ra các tỉnh, thành phố , nhất là các
vùng sâu, vùng xa (số doanh nghiệp năm 2005 so với năm 2000 cả nƣớc
tăng 2,68 lần, riêng Vùng Đông Bắc và Tây Bắc đều hơn 3,5 lần,…), điều
này khơng chỉ góp phần tăng trƣởng kinh tế cũng nhƣ thay đổi cơ cấu kinh
12


tế mà cịn góp phần thay đổi nhiều về đời sống xã hội ở các vùng, miền
khác nhau của đất nƣớc, tuy nhiên vẫn còn khoảng cách khá xa giữa các
vùng. Chi tiết đƣợc thể hiện trong bảng sau đây:
Bảng 1.3: Số lượng doanh nghiệp phân bổ theo vùng 2005
Khu vực


Số lƣợng
Doanh nghiệp

Đồng bằng sơng Hồng
Hà Nội
TP Hồ Chí Minh
Đơng Nam Bộ
Nguồn: [34]

30.510
18.214
31.292
41.193

% so với số doanh
nghiệp trong cả
nƣớc
26.9
16.1
27.6
36.3

% dân số so
với cả nƣớc
24.2
3.7
7.0
16.1


Quy mơ và tầm vóc của từng doanh nghiệp đƣợc tăng cƣờng
Không chỉ tăng nhanh về số lƣợng, quy mơ của doanh nghiệp cũng có
những bƣớc thay đổi đáng kể về lao động, vốn, quản lý, công nghệ…, góp
phần quan trọng để tăng nhanh hơn giá trị gia tăng cho toàn nền kinh tế quốc
dân. Tuy nhiên, với việc tăng nhanh nhất là số doanh nghiệp ngoài Nhà
nƣớc, cho nên bình quân một doanh nghiệp năm 2005 chỉ có 55 lao động và
23,7 tỷ đồng vốn (năm 2000: lần lƣợt hai chỉ tiêu trên là 74 lao động, và 23,6
Tỷ đồng - nếu tính theo giá so sánh thì nhiều hơn 2005), do vậy, theo tiêu
chí doanh nghiệp vừa và nhỏ là dƣới 500 lao động và vốn dƣới 10 tỷ đồng,
thì có tới 96,81% số doanh nghiệp nƣớc ta thuộc nhóm doanh nghiệp vừa và
nhỏ ( có tới 51,3% DN có dƣới 10 lao động, và 41,8% doanh nghiệp chỉ có
số vốn dƣới 11 tỷ đồng). Quy mơ bình qn một doanh nghiệp có sự khác
biệt rất lớn giữa các thành phần kinh tế:

13


Bảng 1.4: So sánh về lao động và nguồn vốn tại Doanh nghiệp từ 2000- 2005
Loại hình doanh
nghiệp
DN Nhà nƣớc
DN ngịai Nhà nƣớc
Doanh nghiệp có vốn
nƣớc ngịai
Nguồn [34]

Lao động (ngƣời)
2000
363
30

267

2005
499
32
330

Nguồn vốn
(tỷ đồng)
2000
2005
130
355
3
7
192
143

Tài sản và vốn của doanh nghiệp
Riêng về tài sản cố định và vốn đầu tƣ dài hạn - yếu tố gắn hơn tới
việc tăng năng suất lao động có nhiều sự khác biệt giữa các thành phần kinh
tế, các ngành và các vùng về quy mô tài sản cố định và vốn đầu tƣ dài hạn
tính cho một lao động:
Năm 2005, trang bị tài sản cố định và đầu tƣ dài hạn bình quân một lao
động của tất cả các doanh nghiệp là: 152,7 triệu đồng, riêng doanh nghiệp nhà
nƣớc: 238,7 triệu đồng (doanh nghiệp nhà nƣớc trung ƣơng: 380,9 triệu đồng;
doanh nghiệp ngoài nhà nƣớc: 65,9 triệu đồng (doanh nghiệp tập thể chỉ có:
9,6 triệu đồng; doanh nghiệp có vốn nƣớc ngồi: 220,9 triệu đồng; doanh
nghiệp liên doanh: 1178,8 triệu đồng).[34]
Kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

Một nét nổi bật là các doanh nghiệp có vốn nƣớc ngồi, sau đó là các
doanh nghiệp nhà nƣớc đã có những đóng góp quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân nói chung (thơng qua chỉ tiêu doanh thu thuần), đóng góp cho Nhà
nƣớc (thơng qua thuế và các khoản phải nộp) và đóng góp cho bản thân các
doanh nghiệp nhiều nhất (lợi nhuận) và ngày một tăng.

14


Bảng 1.5: Hiệu quả kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp
(đơn vị: %)
Loại hình doanh
nghiệp
DN Nhà nƣớc
DN ngồi Nhà nƣớc
DN có vốn nƣớc
ngồi
Tổng
Nguồn:[34]

Doanh thu
thuần
2002
2005
57,1
38,6
30,4
38,8
18,5
22,6

100%

Thuế và các
khoản phải nộp
2002
2005
52,5
40,8
10,8
18,9
36,7
40,3

100%

100%

100%

Lợi nhuận
2002
41,7
8,8
49,5

2005
41,2
8,8
50,04


100%

100%

Những con số ấn tƣợng trên cho chúng ta thấy, doanh nghiệp Việt
Nam từ năm 2000 đến nay đã đạt đƣợc những bƣớc phát triển đáng kể,
khẳng định đƣợc bản lĩnh của mình để tự tin tham gia vào quá trình Hội
nhập kinh tế quốc tế, điều mà trong khoảng thời gian trƣớc đó, chúng ta
chƣa đủ bản lĩnh để hội nhập. Tuy rằng, phát triển một cách cân bằng giữa
các loại hình doanh ngiệp, đặc biệt các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực xuất nhập khẩu (liên quan mật thiết đến các hoạt động hội nhập kinh tế
quốc tế) là một yêu cầu tất yếu phải đƣợc quan tâm và chú trọng hơn nữa.
Cho nên, phải tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc và doanh nghiệp khơng có vốn nhà nƣớc
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp để có thể thắng
ngay trên sân nhà và chủ động phát triển trên đấu trƣờng kinh doanh quốc
tế.
1.3. Đánh giá chung
Trƣớc thời kỳ đổi mới, các khái niệm doanh nghiệp, doanh nhân hầu
nhƣ không đƣợc sử dụng ở nƣớc ta. Trong thời kỳ đổi mới, nhất là khi đất
nƣớc thực hiện nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế, các khái niệm doanh nghiệp, doanh nhân ngày càng
đƣợc sử dụng phổ biến trong lĩnh vực khoa học, kinh tế… và trên các phƣơng
15


tiện thơng tin đại chúng.
Trong chƣơng trình đổi mới tồn diện đất nƣớc, Đảng và Nhà nƣớc ta
luôn chú trọng đến việc hình thành, phát triển các doanh nghiệp, doanh nhân
và coi đó là lực lƣợng chủ lực của phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập kinh

tế quốc tế. Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng khóa IX, lần đầu tiên đã đặt ra
yêu cầu xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam cùng với nhiệm vụ xây dựng
giai cấp cơng nhân, nơng dân và đội ngũ trí thức. Đại hội X của Đảng đã đƣa
ra chủ trƣơng cho phép đảng viên đƣợc làm kinh tế tƣ nhân và đặt ra yêu cầu
xây dựng chiến lƣợc quốc gia về phát triển doanh nghiệp, trong đó đƣa ra mục
tiêu phấn đấu đến năm 2010 cả nƣớc có 500.000 doanh nghiệp .
Từ một quốc gia có nền kinh tế tập trung bao cấp, khơng trọng dụng và
đề cao vai trị của doanh nghiệp trong đời sống xã hội (ngƣời kinh doanh bị
gọi là “con buôn”), cho đến năm 2008, Việt Nam đã có khoảng 350.000
Doanh nghiệp (trong đó 95% là doanh nghiệp vừa và nhỏ theo tiêu chí có vốn
dƣới 10 tỉ đồng và dƣới 300 lao động; 5% còn lại là các tổng cơng ty, tập
đồn kinh tế lớn của nhà nƣớc và các cơng ty có vốn đầu tƣ nƣớc ngồi) [21].
95% doanh nghiệp nói trên có tổng số vốn khoảng 85 tỉ USD, hằng năm đóng
góp khoảng 40%-50% việc làm mới cho thị trƣờng sử dụng lao động.[21]
Cùng với đƣờng lối đổi mới, các chính sách phát triển kinh tế, Luật
Đầu tƣ nƣớc ngoài. Luật Doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và
nhỏ… đi vào cuộc sống thực sự thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế ra đời và ngày càng phát triển nhanh về số lƣợng, rộng về quy
mô, phong phú về các loại hình và hoạt động ngày càng có hiệu quả.
Từ việc các doanh nghiệp Việt Nam chỉ gói gọn phạm vi hoạt động
trong lãnh thổ Việt Nam, đến nay, việc giao thƣơng quốc tế giữa doanh
nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp nƣớc ngồi đã trở thành chuyện bình
thƣờng trong bối cảnh Việt Nam ngày càng tích cực và chủ động trong hội
nhập kinh tế quốc tế. Đây là một yếu tố thực sự tích cực vì để hội nhập quốc
16


tế thành cơng, thì doanh nghiệp có vai trị nhƣ một đầu tàu dẫn dắt cả đồn tàu
đi tới đích đúng hƣớng và an toàn.
Sau đây là một số điểm mốc trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

của Việt Nam:
 Bình thƣờng hố quan hệ với các tổ chức tài chính-tiền tệ quốc tế: WB,
IMF, ADB.
 1/1995: Nộp đơn gia nhập WTO
 7/ 1995: Ký Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế với Liên minh Châu
Âu (EU).
 7/1995 Gia nhập ASEAN
 3/1996: tham gia sáng lập Diễn đàn á- Âu (ASEM) với 25 thành viên.
 11/1998 gia nhập Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu á-Thái Bình Dƣơng
(APEC): 21 thành viên.
 7/2000: Ký Hiệp định Thƣơng mại song phƣơng Việt Nam - Hoa Kỳ;
có hiệu lực thi hành từ 10/12/2001.
 7/11/2006: Việt Nam chính thức gia nhập WTO[20]
Nhƣ vậy, mặc dù mới ra đời và phát triển nhƣng các doanh nghiệp Việt
Nam đã thực hiện tính năng động, linh hoạt thích ứng với điều kiện hội nhập,
sự tự tin và ý chí kinh doanh cao… và kết quả hoạt động là tích cực rất đáng
khích lệ. Trong đó, một số doanh nghiệp đã khẳng định đƣợc uy tín, chất
lƣợng, hiệu quả và thƣơng hiệu của mình trên thị trƣờng trong nƣớc và quốc
tế. Hồn tồn có cơ sở khẳng định rằng, các doanh nghiệp Việt Nam đang và
sẽ trở thành đội quân chủ lực trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội và hội
nhập kinh tế quốc tế của đất nƣớc.
Tuy nhiên, trong bối cảnh của tồn cầu hóa, nhất là khi Việt Nam là
thành viên của Tổ chức Thƣơng mại thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam
phải đối mặt với các đối thủ mới (các cơng ty xun quốc gia, đa quốc gia có
tiềm lực tài chính, cơng nghệ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao), phải
17


cạnh tranh quyết liệt trong điều kiện mới (thị trƣờng toàn cầu với những
nguyên tắc nghiêm ngặt của định chế thƣơng mại và luật pháp quốc tế). Nói

cách khác, các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với những thách
thức thật sự to lớn.
Để vững vàng trên con đƣờng hội nhập, doanh nghiệp Việt Nam còn
cần phải vƣợt qua rất nhiêu khó khăn, thử thách, có những khó khăn đến từ
những hạn chế của chính doanh nghiệp, có những khó khăn do điều kiện
ngoại cảnh tác động. Điều quan trọng nhất là mỗi doanh nghiệp, để tồn tại và
phát triển trong thời đại tồn cầu hố, cần nhìn ra một cách thấu đáo những
hạn chế của chính mình, từ đó từng bƣớc hịan thiện năng lực cạnh tranh quốc
tế trong bối cảnh hội nhập là con đƣờng tất yếu.

18


CHƢƠNG 2
NHỮNG HẠN CHẾ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Trong q trình gia nhập vào các hoạt động kinh tế quốc tế, doanh
nghiệp Việt Nam gặp nhiều trở ngại: những trở ngại từ chính bản thân doanh
nghiệp và những trở ngại đến từ các yếu tố khách quan: môi trƣờng kinh
doanh trong nƣớc, độ trễ của các chính sách vĩ mơ…Một u cầu tất yếu là
doanh nghiệp phải tự đánh giá nhìn nhận đƣợc những hạn chế của doanh
nghiệp trong quá trình tiếp cận mơi trƣờng kinh doanh tồn cầu để có những
điều chỉnh phù hợp. Khả năng cạnh tranh là thuật ngữ đƣợc dùng để nói đến
các đặc tính cho phép một hãng cạnh tranh một cách có hiệu quả với các hãng
khác nhờ có chi phí thấp hoặc sự vƣợt trội về công nghệ và kỹ thuật trong so
sánh quốc tế. Các DNVVN của Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy
nhiên vẫn còn nhiều hạn chế và yếu kém:
2.1. Hạn chế từ phía doanh nghiệp
Chƣa tìm hiểu nghiên cứu thị trƣờng một cách bài bản
Về hoạt động nghiên cứu thị trƣờng của các doanh nghiệp, theo một

điều tra của tác giả Nguyễn Vĩnh Thanh đăng trênTạp chí Nghiên cứu kinh tế
[30] với 175 doanh nghiệp, có 16% số doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu thị
trƣờng một cách thƣờng xuyên, 84% số doanh nghiệp cịn lại cho rằng cơng
tác nghiên cứu thị trƣờng không nhất thiết phải làm thƣờng xuyên, họ chỉ tiến
hành nghiên cứu trƣớc khi có ý định xâm nhập thị trƣờng. Một số liệu của
Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy, chỉ chƣa đầy 10% số
doanh nghiệp là thƣờng xuyên thăm thị trƣờng nƣớc ngoài, chủ yếu là những
doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp Nhà nƣớc, 42% số doanh nghiệp thỉnh
thoảng mới có cuộc đì thăm thị trƣờng nƣớc ngồi, và khoảng 20% khơng
19


một lần đặt chân lên thị trƣờng ngoài nƣớc. Các doanh nghiệp nhỏ và các
doanh nghiệp tƣ nhân thì khả năng thâm nhập thị trƣờng nƣớc ngồi hầu nhƣ
khơng có.[30]
Hiệu quả của cơng tác nghiên cứu thị trƣờng cịn hạn chế và yếu kém,
nhiều thị trƣờng tiềm năng chƣa đƣợc khai thác, nhiều doanh nghiệp đã phải
chịu thua lỗ lớn và mất thị trƣờng do không đi sâu vào nghiên cứu thị trƣờng.
Nhiều doanh nghiệp đã nhận thức đƣợc tầm quan trọng của công tác nghiên
cứu thị trƣờng và đã tiến hành nghiên cứu, song "lực bất tòng tâm", vốn ít,
ngân sách dành cho việc nghiên cứu thị trƣờng rất hạn hẹp, khả năng thăm
quan, khảo sát thị trƣờng nƣớc ngồi rất hạn chế vì mỗi chuyến đi chi phí khá
tốn kém, hiệu quả khơng cao. Do khả năng tìm kiếm, khai thác và xử lý thông
tin của cán bộ cịn yếu, lợi ích đem lại khơng đủ bù chi phí.
Hoạt động nghiên cứu thị trƣờng của các doanh nghiệp chƣa đƣợc tổ
chức một cách khoa học, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của ngƣời nghiên
cứu là chính. Các doanh nghiệp còn rất hạn chế trong việc sử dụng cơng nghệ
thơng tin, cơng cụ tốn học, thống kê trong nghiên cứu thị trƣờng. Đa số các
doanh nghiệp trên cơ sở thông tin thu thập đƣợc họ tiến hành phân tích bằng
cảm tính rồi đƣa ra dự báo. Các thơng tin sơ cấp về thị trƣờng khơng có đủ chi

phí để thu thập, dẫn đến tình trạng đa số các doanh nghiệp kinh doanh thụ
động, không chắc chắn.
Về việc xác định thị trƣờng mục tiêu, các doanh nghiệp thƣờng lựa
chọn thị trƣờng mục tiêu theo cách phản ứng lại với thị trƣờng, thấy cơ hội
của đoạn thị trƣờng nào hấp dẫn thì tập trung vào đoạn thị trƣờng đó. Chẳng
hạn, khi hạn hán mất mùa ở Inđônêxia làm xuất hiện nhu cầu nhập khẩu gạo
thì họ tập trung vào đó. Cũng tƣơng tự nhƣ với thị trƣờng Irắc về đổi lƣơng
thực lấy dầu và trả nợ thì các doanh nghiệp lại tập trung vào đoạn thị trƣờng
này. Tình trạng phổ biến diễn ra là các doanh nghiệp không chủ động tiếp cận
với thị trƣờng để chọn ra cho mình một thị trƣờng mục tiêu, để từ đó có kế
20


hoạch thâm nhập, giữ vững hay mở rộng thị trƣờng.
Nhìn chung, công tác nghiên cứu thị trƣờng của các doanh nghiệp Việt
Nam còn yếu kém. Dịch vụ hỗ trợ hoạt động kinh doanh nhƣ nghiên cứu thị
trƣờng, thông tin kinh tế, ngân hàng dữ liệu... cịn hạn chế. Trình độ khai thác
và sử dụng thơng tin của cán bộ cịn thấp, sự quan tâm chƣa đúng mức của
lãnh đạo doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức khơng tƣơng ứng... Cịn có những mặt
hàng của doanh nghiệp Nhà nƣớc đang đƣợc bảo hộ tuyệt đối (ƣu đãi độc
quyền) hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (qua ƣu đãi tín dụng và
bù lỗ, miễn thuế...), thậm chí nhiều doanh nghiệp cố gắng luận chứng để Nhà
nƣớc tăng cƣờng các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc làm và thị
phần.
Rõ ràng, việc lựa chọn thị trƣờng và đối tác trong kinh doanh quốc tế
một cách bị động, chủ quan và khơng có tính thực tiễn khiến cho doanh
nghiệp không chủ động đƣợc cách thức, phƣơng thức hợp tác, cũng nhƣ đƣa
ra sản phẩm kinh doanh không phù hợp, khơng duy trì đƣợc dịch vụ lâu dài
với đối tác khi hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, việc quen dựa vào chế độ
ƣu đãi đặc biệt của nhà nƣớc khiến nội lực và sức cạnh tranh của doanh

nghiệp trở nên yếu thế khi hội nhập, tức là khi đó khơng cịn đƣợc hƣởng bất
kỳ một sự trợ cấp nào từ phía nhà nƣớc.
Chiến lƣợc kinh doanh của doanh nghiệp còn bất cập
Trƣớc yêu cầu của thị trƣờng ngày càng cao, các doanh nghiệp Việt
Nam đã quan tâm đến yếu tố chất lƣợng sản phẩm và xây dựng chiến lƣợc sản
phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và thị trƣờng. Tuy nhiên các sản
phẩm của doanh nghiệp Việt Nam có đặc điểm là: yếu tố tƣ bản vốn trong cấu
thành sản phẩm thấp, hàm lƣợng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không
cao, hoặc điều kiện tự nhiên, chất lƣợng sản phẩm chƣa thực sự có ƣu thế rõ
rệt trên thị trƣờng thế giới, năng suất lao động thấp. Tính độc đáo của sản
phẩm khơng cao, trừ số ít sản phẩm mang đậm bản sắc tự nhiên và văn hóa
21


đặc thù nhƣ hàng thủ công mỹ nghệ... các sản phẩm khác cịn lại hầu nhƣ ln
đi sau các nƣớc khác về kiểu dáng, tính năng. Thậm chí nhiều sản phẩm tiêu
dùng và công nghiệp lạc hậu so với thế giới nhiều thế hệ, giá trị gia tăng sản
phẩm trong tổng giá trị của sản phẩm nói chung cịn thấp hơn nhiều so với
mức trung bình của thế giới.[30]
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu phải nhập khẩu nguyên
vật liệu cho sản xuất. Ngay cả các sản phẩm xuất khẩu và các sản phẩm có sự
tăng trƣởng cao trong nhiều năm qua nhƣ: hàng dệt may, da giày, chế biến
thực phẩm và đồ uống, sản phẩm thép và kim loại màu, ô tô, xe máy, hàng
điện tử, sản phẩm nhựa... cũng phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, bán
thành phẩm nhập khẩu. Nhiều nhóm sản phẩm có tỷ trọng chi phí cho nguyên
vật liệu chiếm trên 60% giá thành sản phẩm nhƣ giấy in, giấy viết, phôi thép
và thép cán, lốp xe các loại... Việc nhập khẩu với số lƣợng lớn nguyên vật
liệu cũng sẽ gây tác động trực tiếp tới tính chủ động của các doanh nghiệp
Việt Nam trong việc lập kế hoạch kinh doanh và tới giá thành do phụ thuộc
vào biến động giá cả nguyên liệu nhập khẩu, biến động tỷ giá hối đối...

Ngồi ra, việc phải nhập khẩu các nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nƣớc
cũng sẽ làm phát sinh thêm nhiều khoản chi phí khác nhƣ, chi phí vận chuyển,
chi phí các thủ tục hải quan, chi phí cảng, chi phí bảo hiểm...
Những hạn chế trên rõ ràng làm cho giá thành sản phẩm của hang hoá
Việt Nam đội lên rất nhiều, trong khi không tận dụng đƣợc sức lao động và
nguồn nguyên liệu trong nƣớc. Nếu lựa chọn sản phẩm kinh doanh không dựa
trên thế mạnh của quốc gia và doanh nghiệp, doanh nghiệp Việt Nam sẽ đánh
mất nguồn lợi nhuận lớn từ việc „mua gốc bán ngọn” và đôi khi chỉ là “lấy
công làm lãi”.
Chiến lƣợc phân phối chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu phát triển
Do các doanh nghiệp Việt Nam có quy mơ vừa và nhỏ là chủ yếu đã
làm hạn chế tầm hoạt động và mạng lƣới phân phối. Nhiều doanh nghiệp vẫn
22


áp dụng hình thức các kênh phân phối qua các trung gian thƣơng mại nên
chƣa thiết lập đƣợc hệ thống phân phối hàng hóa đến đại lý hoặc ngƣời tiêu
dùng cuối dùng. Với phƣơng thức này, các doanh nghiệp Việt Nam khơng thể
kiểm sốt đƣợc q trình phân phối và tiêu thụ sản phẩm của họ và không thể
nắm bắt trực tiếp những thơng tin phản ánh tình hình thị trƣờng. Hiện nay, có
một số doanh nghiệp đã tận dụng đƣợc các đại lý để phân phối bán lẻ, mà
chƣa chú trọng đến việc nghiên cứu đặc điểm của thị trƣờng gồm đặc tính của
các tập khách hàng (cá nhân, tổ chức, khách hàng mục tiêu, tiềm năng, đối thủ
cạnh tranh…), đặc tính của sản phẩm (tính dễ hƣ hỏng, tính mùa vụ, đặc điểm
kỹ thuật của sản phẩm...), đặc điểm môi trƣờng (điều kiện kinh tế, khả năng
quản lý, quy định ràng buộc về pháp lý, điều kiện địa lý, giao thơng, vận
chuyển..). Xác lập hệ thống này cịn mang tính chất "phi vụ” chứ chƣa hình
thành đƣợc chiến lƣợc về kênh phân phối chuẩn.[29]
So với nhiều công cụ cạnh tranh khác, hệ thống kênh phân phối của hầu
hết các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chƣa đƣợc quan tâm đúng mức và còn

tồn tại nhiều hạn chế. Đối với các doanh nghiệp Nhà nƣớc, kênh phân phối
vẫn còn mang nhiều dấu ấn của thời kỳ bao cấp. Đối với những doanh nghiệp
ngồi quốc doanh, một bộ phận vẫn cịn tổ chức kênh phân phối theo kiểu trao
đổi đơn (bên mua và bên bán chỉ quan hệ với nhau một lần), một bộ phận
khác tổ chức kênh phân phối theo kiểu tự nhiên, khơng hề có tác động quản lý
điều khiển theo hƣớng có mục tiêu.
Khơng quản lý đƣợc các kênh phân phối, doanh nghiệp Việt Nam
dƣờng nhƣ không chủ động đƣợc việc sản phẩm và dịch vụ kinh doanh của
mình đến thẳng với khách hang để giảm thiểu chi phí, tăng tính cạnh tranh.
Đồng thời, việc này phát sinh nhiều phức tạp trong q trình giao vận khiến
khơng phải hợp đồng kinh doanh nào cũng sẽ suôn sẻ và việc hợp tác quốc tế
sẽ khơng mang tính bền vững.

23


×