Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Nhận thức và hành vi của cha mẹ về giáo dục sớm ở trẻ từ 0 đến 3 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

QUÁCH NGUYỄN THƢƠNG THƢƠNG

NHẬN THỨC VÀ HÀNH VI CỦA CHA MẸ
VỀ GIÁO DỤC SỚM Ở TRẺ TỪ 0-3 TUỔI

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Hà Nội - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

QUÁCH NGUYỄN THƢƠNG THƢƠNG

NHẬN THỨC VÀ HÀNH VI CỦA CHA MẸ
VỀ GIÁO DỤC SỚM Ở TRẺ TỪ 0-3 TUỔI

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tâm lý học
Mã số: 60 31 04 01

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Trần Thị Minh Đức

Hà Nội - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của GS.TS Trần Thị Minh Đức. Các số liệu, kết quả nêu trong luận
văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ một cơng trình
nào khác. Nếu những thơng tin tơi cung cấp khơng chính xác, tơi xin chịu hoàn
toàn trách nhiệm trước những cá nhân, tổ chức có thẩm quyền.
Hà Nội, ngày 09 tháng 09 năm 2018
Tác giả luận văn
Quách Nguyễn Thương Thương


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận văn này tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới các thầy
(cơ) trong Khoa Tâm lý học - Trường Đại Học Khoa học Xã hội và Nhân văn
- Đại Học Quốc Gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt
q trình học tập và thực hiện luận văn cao học.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS Trần Thị Minh Đức, người đã
tận tình dành nhiều thời gian quý báu để giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt
q trình tiến hành nghiên cứu và đóng góp những ý kiến quan trọng giúp đỡ
tơi hồn thành luận văn cao học này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến những người bạn và người thân trong gia đình
tơi, những người đã ủng hộ tôi về mặt tinh thần và tạo mọi điều kiện giúp tơi
có thể hồn thành luận văn của mình.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã rất cố gắng nhưng luận văn của tơi
vẫn cịn nhiều thiếu sót, tơi kính mong nhận được sự bổ sung, đóng góp ý
kiến q giá của các thầy (cơ) giáo, các bạn đồng nghiệp và độc giả để đề tài
của tơi được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 09 tháng 09năm 2018
Học viên

Quách Nguyễn Thương Thương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ................................ 6
1.1. Tổng quan một số nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về giáo dục sớm và
nhận thức, hành vi của cha mẹ về giáo dục sớm ở trẻ từ 0-3 tuổi............................ 6
1.1.1. Tổng quan một số nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về giáo dục
sớm .................................................................................................................... 6
1.1.2. Tổng quan một số nghiên cứu về nhận thức và hành vi của cha mẹ về
giáo dục sớm cho trẻ em ................................................................................. 15
1.2. Lý luận về giáo dục sớm và nhận thức, hành vi của cha mẹ về giáo dục sớm
ở trẻ từ 0-3 tuổi .................................................................................................................20
1.2.1. Lý luận về giáo dục sớm.........................................................................................20
1.2.1.1. Khái niệm giáo dục sớm......................................................................................20
1.2.1.2. Đặc điểm của giáo dục sớm ................................................................................25
1.2.1.3. Các nội dung của hoạt động giáo dục sớm ........................................................30
1.2.2. Nhận thức và hành vi của cha mẹ về giáo dục sớm ở trẻ từ 0-3 tuổi ............33
1.2.2.1. Nhận thức của cha mẹ về giáo dục sớm ở trẻ từ 0-3 tuổi.............................33
1.2.2.2. Hành vi của cha mẹ về giáo dục sớm ở trẻ từ 0-3 tuổi .................................35
1.3. Đặc điểm tâm lý trẻ từ 0-3 tuổi ............................................................................ 37
1.3.1.Đặc điểm tâm - sinh lý trẻ tuổi hài nhi ............................................................... 37
1.3.2. Đặc điểm tâm – sinh lý trẻ tuổi ấu nhi .............................................................. 39
1.4. Các yếu tố ảnh hƣởng đến nhận thức và hành vi của cha mẹ về giáo dục
sớm ở trẻ từ 0-3 tuổi ........................................................................................................42
1.4.1. Yếu tố khách quan...................................................................................................42
1.4.2. Yếu tố chủ quan.......................................................................................................43
Chƣơng 2. TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............................46
2.1. Tổ chức nghiên cứu..................................................................................................46

2.1.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu............................................................................46
2.1.2. Tiến trình nghiên cứu ..............................................................................................48
2.2. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................49
2.2.1. Nội dung nghiên cứu...............................................................................................49
2.2.2. Các phương pháp nghiên cứu ................................................................................52


2.2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu ........................................................................52
2.2.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏỉ..................................................................52
2.2.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu .............................................................. 56
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................................59
3.1. Thực trạng nhận thức và hành vi của cha mẹ về giáo dục sớm ở trẻ từ 0-3 tuổi59
3.1.1. Thực trạng chung nhận thức của cha mẹ về giáo dục sớm ở trẻtừ 0-3 tuổi.... 59
3.1.1.1. Hiểu biết của cha mẹ về mục tiêu của giáo dục sớm........................................61
3.1.1.2. Hiểu biết của cha mẹ về các nội dung của giáo dục sớm.................................63
3.1.1.3. Hiểu biết của cha mẹ về nguyên tắc của giáo dục sớm ....................................65
3.1.2. Thực trạng chung hành vi của cha mẹ về giáo dục sớm ở trẻ từ 0-3 tuổi....... 67
3.1.2.1. Thực trạng hành vi thực hành giáo dục sớm của cha mẹ .................................68
3.1.2.2.Thực trạng hành vi thực hiện các nguyên tắc của giáo dục sớm của cha mẹ..77
3.1.2.3. Thực trạng hành vi học tập và chia sẻ của cha mẹ về giáo dục sớm...............80
3.1.3. Mối tương quan giữa nhận thức và hành vi giáo dục sớm ở trẻ 0-3 tuổi của
cha mẹ............................................................................................................................ 81
3.1.4. Sự khác biệt về nhận thức và hành vi giáo dục sớm ở trẻ 0-3 tuổi giữa người
cha và người mẹ ............................................................................................................ 84
3.2 Một số yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức và hành vi của của cha mẹ về giáo dục
sớm ở trẻ từ 0-3 tuổi ..................................................................................................... 85
3.2.1 Các yếu tố chủ quan ảnh hướng đến nhận thức và hành vi của cha mẹ về giáo
dục sớm ở trẻ 0-3 tuổi................................................................................................... 86
3.2.2 Các yếu tố khách quan ảnh hướng đến nhận thức và hành vi của cha mẹ về
giáo dục sớm ở trẻ 0-3 tuổi........................................................................................... 88

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu .................................................... 47
Bảng 2.2: Độ tin cậy của các thang đo ............................................................... 50
Bảng 2.3: Mức đánh giá nhận thức và hành vi, các yếu tố ảnh hưởng ........... 55
Bảng 3.1: Thực trạng chung nhận thức về giáo dục sớm ở trẻ từ 0-3 tuổicủa
nhóm khách thể nghiên cứu ............................................................................ 60
Bảng 3.2: Hiểu biết về mục tiêu của giáo dục sớm ở trẻ 0-3 tuổicủa nhóm
khách thể nghiên cứu....................................................................................... 61
Bảng 3.3: Hiểu biết về nội dung của giáo dục sớm ở trẻ từ 0-3 tuổicủa nhóm
khách thể nghiên cứu....................................................................................... 63
Bảng 3.4: Hiểu biết về nguyên tắc giáo dục sớm ở trẻ từ 0-3 tuổicủa nhóm
khách thể nghiên cứu....................................................................................... 65
Bảng 3.5 : Thực trạng chung hành vi về giáo dục sớm ở trẻ 0-3 tuổiở nhóm
khách thể nghiên cứu....................................................................................... 67
Bảng 3.6 : Hành vi thực hành giáo dục sớmcho trẻ từ 0-3 tuổicủa nhóm khách
thể nghiên cứu ................................................................................................. 68
Bảng 3.7: Hoạt động rèn luyện giác quan ở trẻ 0-3 tuổicủa nhóm khách thể
nghiên cứu ....................................................................................................... 69
Bảng 3.8: Hoạt động phát triển khả năng vận động ở trẻ 0-3 tuổicủa nhóm
khách thể nghiên cứu....................................................................................... 71
Bảng 3.9: Hoạt động phát triển ngôn ngữ ở trẻ 0-3 tuổicủa nhóm khách thể
nghiên cứu ....................................................................................................... 73
Bảng 3.10: Hoạt động phát triển nhận thức ở trẻ 0-3 tuổicủa nhóm khách thể
nghiên cứu ....................................................................................................... 74
Bảng 3.11:Hoạt động phát triển kĩ năng sống ở trẻ 0-3 tuổicủa nhóm khách

thể nghiên cứu ................................................................................................. 76


Bảng 3.12: Hành vi thực hiện các nguyên tắc của giáo dục sớm ở trẻ 0-3 tuổi
của nhóm khách thể nghiên cứu ...................................................................... 77
Bảng 3.13: Hành vi học tập và chia sẻ về giáo dục sớm cho trẻ 0-3 tuổicủa
nhóm khách thể nghiên cứu ............................................................................ 80
Bảng 3.15: Sự khác biệt về nhận thức và hành vi giáo dục sớm cho trẻ 0-3
tuổi giữa người cha và người mẹ .................................................................... 84
Bảng 3.16: Yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến nhận thức và hành vigiáo dục
sớm của cha mẹ ............................................................................................... 86
Bảng 3.17: Yếu tố khách quan ảnh hưởng đến nhận thức và hành vigiáo dục
sớm của cha mẹ ............................................................................................... 88


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ

Viết tắt

Điểm trung bình

ĐTB

Độ lệch chuẩn

ĐLC

Trung bình


TB


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục trẻ em ln được gia đình và xã hội dành sự quan tâm đặc biệt
nhằm mang đến những điều kiện tốt nhất, để trẻ có thể phát triển một cách
tồn diện cả về thể chất và tâm lý. Trong những năm qua, dưới sự phát triển
vượt bậc về kinh tế- xã hội, Việt Nam được hội nhập và giao lưu văn hoá giáo dục. Những luồng văn hoá mới, những tư tưởng giáo dục tiến bộ của các
nước có cơ hội phổ biến vào nước ta. Cha mẹ Việt cũng từ đó quan tâm tới
những phương pháp giáo dục đa dạng và có nhiều kỳ vọng và sự đầu tư cho
con cái hơn. Trong đó, các phương pháp giáo dục sớm cho trẻ em ngay từ khi
ra đời đã được nghiên cứu và áp dụng thu hút sự chú ý của những người làm
cha mẹ.
Trên thế giới, vấn đề giáo dục sớm đang là vấn đề được nhiều quốc gia
quan tâm, đầu tư và trở thành một cuộc cách mạng nguồn nhân lực chất lượng
cao. Đặc biệt, tại các nước có nền kinh tế tri thức, cuộc cách mạng này đã trở
thành nền tảng cơ bản của ngành giáo dục. Riêng đối với những quốc gia
đang phát triển, giáo dục sớm chính là chiến lược định hướng, đồng thời cũng
là mục tiêu: Biến gánh nặng dân số thành nguồn tài nguyên trí tuệ vô hạn[22].
Trẻ em trong giai đoạn từ 0 đến 6 tuổi, đặc biệt là giai đoạn khởi đầu
từ 0-3 tuổi, được cho rằng có năng lực hấp thụ kiến thức mạnh mẽ nhất. Ở
giai đoạn này, khả năng tiếp nhận và hấp thụ là vô cùng lớn. Những kiến
thức được tiếp nhận sẽ được trẻ ghi nhớ, theo thời gian những kiến thức
này sẽ trở thành khả năng vận hành năng lực suy nghĩ, năng lực tư duy và
năng lực sáng tạo ở trình độ cao[17].Giáo dục sớm có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với sự trưởng thành của trẻ, đây là giai đoạn vàng để phát triển trí
tuệ, hình thành năng lực, tính cách và phẩm chất tốt đẹp của con người.
Chính vì vậy, phong trào tự dạy con từ rất nhỏ được rất nhiều cha mẹ
hưởng ứng, hình thành nên các nhóm dạy con, trao đổi kinh nghiệm về tâm lý

1


và giáo dục sớm trên các trang mạng xã hội thu hút hàng trăm ngàn người
tham gia.Điều này tạo nên cácdư luận xã hội trái chiều trong việc giáo dục
sớm cho trẻ. Một là, không cần phải giáo dục sớm vì trẻ cịn nhỏ, cứ để
phát triển theo tự nhiên. Hai là, cần phải giáo dục, kích hoạt và phát triển
tồn diện cho trẻ từ sớm, làm nền móng cho quá trình hình thành và phát
triển nhân cách sau này của trẻ.
Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng nhận thức và hành vi của cha mẹ về
giáo dục sớm cho trẻ có ý nghĩa quan trọng giúp chúng ta có thể định hướng
và đưa ra những kiến nghị cụ thể góp phần nâng cao nhận thức về giáo dục
sớm cho cha mẹ một cách khoa học hơn. Hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu
từ góc độ Tâm lý- Xã hội- Giáo dục về giáo dục sớm cho trẻ, đặc biệt là
những nghiên cứu về nhận thức, hành vi của cha mẹ về giáo dục sớm cho trẻ
từ 0-3 tuổi khá hiếm. Với tư cách là người công tác trong lĩnh vựctâm lý giáo
dục, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Nhận thức và hành vi của cha mẹ
về giáo dục sớm ở trẻ từ 0-3 tuổi” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt
nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng nhận thức và hành vi của cha mẹ về giáo dục sớm ở
trẻ từ 0-3 tuổi. Qua đó,đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức và
hành vi cho cha mẹ về giáo dục sớm cho trẻ.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng nhận thức và hành vi của cha mẹ về giáo dục sớm ở trẻ từ 0-3
tuổi và những yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức và hành vi của họ.
3.2. Khách thể nghiên cứu:
300 cha mẹ có con trong độ tuổi 0-3 tuổi, bao gồm 150 khách thể là người
cha và 150 khách thể là người mẹ.

2


4. Giả thuyết nghiên cứu
- Nhận thức của cha mẹ về giáo dục sớm ở mức độ khá cao và hành vi
giáo dục sớm của cha mẹ ở mức độ khá.
- Các yếu tố truyền thông và sự chủ động sắp xếp thời gian của cha mẹ là
yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất tới nhận thức và hành vi của cha mẹ về giáo dục
sớm ở trẻ từ 0-3 tuổi.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về nhận thức và hành vi của cha mẹ về giáo
dục sớm ở trẻ từ 0-3 tuổi và những yếu tố tác động đến nhận thức và hành vi
của cha mẹ về giáo dục sớm ở trẻ từ 0-3 tuổi.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn
Nghiên cứu thực trạng biểu hiện nhận thức và hành vi của cha mẹ về giáo
dục sớm ở trẻ từ 0-3 tuổi.
Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức và hành vi của cha mẹ
về giáo dục sớm ở trẻ từ 0-3 tuổi.
Đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức cho cha mẹ về giáo dục sớm
ở trẻ từ 0-3 tuổi.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về khách thể và địa bàn nghiên cứu
Trong điều kiện thời gian và kinh phí có hạn, đề tài chỉ tiến hành nghiên
cứu 300 phụ huynh sống trên địa bàn TP. Hà Nội. Những cha mẹ đang có con
trong độ tuổi từ 0-3 tuổi và họ đến tham dự khố đào tạo ni dạy con tại
Công ty Cổ phần Hotkids Việt Nam.
7. Các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng trong luận văn:
Phương pháp nghiên cứu tài liêụ
Phương pháp điề u tra bằ ng bảng hỏi

Phương pháp phỏng vấ n sâu
3


Phương pháp phân tić h số liê ̣u bằng thống kê tốn học
8. Đóng góp mới của đề tài
Giáo dục sớm là một vấn đề còn khá mới và được các cha mẹ đón nhận
theo nhiều hướng khác nhau. Những đề tài nghiên cứu về nhận thức và hành vi
của cha mẹ về giáo dục sớm theo nghiên cứu của chúng tơi hầu như chưa có.
Vì vậy, luận văn đã tổng quan được một số nghiên cứu trên thế giới và Việt
Nam về giáo dục sớm và khái quát hóa được lý luận về nhận thức và hành vi về
giáo dục sớm của cha mẹ ở trẻ từ 0-3 tuổi. Về nội dung thực tiễn, luận văn đã
chỉ ra được mối liên quan thuận giữa nhận thức và hành vi của cha mẹ về giáo
dục sớm cho trẻ. Cụ thể, giữa nhận thức và hành vi của cha mẹ về giáo dục
sớm ở trẻ 0-3 tuổi có tương quan tương quan thuận chặt chẽ với nhau, đồng
thời luận văn xác định được những yếu tố tác động đến nhận thức và hành vi
của cha mẹ về giáo dục sớm ở trẻ 0-3 tuổi.
Luận văn có thể được dùng như một tài liệu cho nhà giáo dục và người
nghiên cứu tham khảo từ góc độ nhận thức và hành vi của cha mẹ về giáo dục
sớm ở trẻ 0-3 tuổi.
9. Đạo đức nghiên cứu
- Nghiên cứu này được thực hiện với sự đồng ý trả lời phiếu hỏi của các
cha mẹ đến tham dự khố đào tạo “Cha mẹ thơng thái” tại Công ty Cổ phần
Hotkids Việt Nam.
- Các thông tin đều được đảm bảo an tồn và bí mật
- Các cha mẹ đều được giải thích cụ thể về mục tiêu khảo sát.
10. Hạn chế của đề tài
Giáo dục sớm vẫn cịn là vấn đề khá mới mẻ và có nhiều cách hiểu, nhiều ý
kiến trái chiều về quan niệm. Mặt khác, trong q trình tổng quan tài liệu
chúng tơi nhận thấy có nhiều phương pháp giáo dục sớm khác nhau. Trong đó

có nhiều phương pháp được thực hành ở Việt Nam nhưng chúng tơi khơng tìm
được những nghiên cứu cụ thể về hiệu quả giáo dục khi áp dụng các phương

4


pháp này. Do đó, việc đưa ra những khái niệm cơng cụ u cầu cần phải có
thêm những nghiên cứu có bằng chứng. Việc đặt vấn đề nghiên cứu khi còn tồn
tại các tranh cãi về quan điểm giáo dục như: Có nên giáo dục sớm cho trẻ từ 03 tuổi hay không? Giáo dục theo những phương pháp cụ thể nào là hiệu
quả?.vv.. Tất cả những điều này vừa mang lại những cơ hộinhưng cũng khiến
chúng tôi gặp không ít những khó khăn trong q trình nghiên cứu. Tuy nhiên,
việc chỉ ra nhận thức và hành vi của những cha mẹ có xu hướng muốn giáo dục
sớm cho trẻ từ 0-3 tuổi và phân tích các yếu tố ảnh hưởng sẽ giúp các nhà tâm
lý giáo dục nhận diện được thực trạng hiện nay các cha mẹ có quan điểm và
hành vi giáo dục trẻ như thế nào. Dù vậy, kết quả nghiên cứu có thể khơng
tránh khỏi những hạn chế. Do mẫu nghiên cứu cịn ít (300 người) và sự chủ
quan của người nghiên cứu khi lựa chọn một số phương pháp giáo dục sớm nào
đó để đưa vào nghiên cứu mà không chọn những phương pháp giáo dục sớm
khác (Dù sự lựa chọn này đã dựa theo kinh nghiệm giáo dục sớm của các bậc
cha mẹ của Công ty Cổ phần Hotkids Việt Nam).

5


Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan một số nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về giáo dục
sớm và nhận thức, hành vi của cha mẹ về giáo dục sớm ở trẻ từ 0-3 tuổi
1.1.1. Tổng quan một số nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về giáo
dục sớm
Trong phần này, chúng tơi sẽ trình bày một số nghiên cứu trên thế giới và

Việt Namvề giáo dục sớm. Do những nghiên cứu của Việt Nam về giáo dục
sớm từ 0-3 tuổi chưa nhiều và một số nghiên cứu của tác giả Việt Nam lại viết
nghiên cứu cùng tác giả nước ngoài nên chúng tơi khơng chia thành hai mục
của ngước ngồi và Việt Nam. Nhìn từ góc độ lịch sử, giáo dục sớm được ghi
nhận trong phương pháp giáo dục từ những triều đại cổ xưa ở các vương triều
châu Âu, châu Á. Các vương tôn, vương tử đều được “văn ôn, võ luyện” từ khi
còn rất nhỏ. Điều này giúp họ có thể phát triển tồn diện để nối nghiệp vua
cha.Trong cuốn sách “Bí mật người Do Thái dạy con làm giàu” có nhắc đến
Kinh Koran, việc giáo dục sớm ở dân tộc Do Thái đã được họ tiến hành từ
hàng nghìn năm nay, phương pháp giáo dục như những lời khuyên cho cha mẹ
trong thời kỳ nuôi dưỡng con còn nhỏ[18].
Phương phápgiáo dục sớm Karl Witte (1819) được coi như nền móng cho
những cơng trình sau này nghiên cứu về giáo dục sớm. Phương pháp này được
ghi chép lại trong cuốn The Education of Karl Witte (1914). Johann Heinrich
Friedrich Karl Witte (1800-1883), ông là một học giả người Đức, là sản phẩm
của phương pháp giáo dục mà cha ông đã từng bước áp dụng cho ơng từ khi
cịn rất nhỏ, trong đó đầu tiên là giáo dục về mặt ngôn ngữ. Với quan điểm,
giáo dục trẻ phải từ buổi bình minh của nhận thức, giáo dục là phải tạo được
hứng thú cho con. Kết quả là Karl Witte thông thạo 6 ngoại ngữ từ khi lên 9
tuổi [11].
Cha của Karl Witte lý giải phương pháp giáo dục của mình như sau: “Mọi
người nghĩ tôi giáo dục con theo phương châm đào tạo học giả, hơn nữa còn

6


cho rằng tối muốn con trở thành thần đồng, làm cả thế giới phải ngạc nhiên.
Sự thật không phải vậy. Tơi chỉ muốn con tơi phát triển tồn diện. Tơi đã hứa
sẽ giúp con phát huy mọi khả năng sẵn có và tơi nỗ lực để con tơi lớn lên hoạt
bát, khỏe mạnh, hạnh phúc”[Dẫn theo11, tr55]. Phương pháp giáo dục Karl

Witte nhấn mạnh đến yếu tố càng sớm càng tốt, sự tác động của người dạy
(cha mẹ) đến đứa trẻ phải từ sớm và không nhồi nhét hay tạo áp lực cho đứa
trẻ. Cha mẹ là người đầu tiên phải đặt niềm tin vào đứa trẻ của mình và luôn
luôn thực hành cùng trẻ, các hoạt động phải luôn lặp đi lặp lại.
Maria Montessori (1906) một nữ bác sỹ, nhà giáo dụccủa Ý, mở trường
học mang tính cách mạng sau nhiều năm nghiên cứu về trị liệu tâm tâm lý và
giáo dục trẻ.Quan điểm giáo dục của Maria Montessori cho rằng: “Trẻ nhỏ có
một loại sức mạnh bí ẩn, sức mạnh này có thể dẫn dắt chúng ta tiến vào một
tương lai tươi sáng. Nếu thật sự muốn đổi mới thế giới này, giáo dục phải coi
phát triển tiềm năng của trẻ là mục tiêu hàng đầu”[17, Tr5].
Phương pháp giáo dục Montessori dựa trên việc quan sát các trẻ em bị tổn
thương não bộ. Bà nhận ra rằng để có thể chữa lành những tổn thương não bộ
đó chỉ cịn cách là tạo ra được một mơi trường thuận lợi để não bộ phát triển.
Từ đó, những đứa trẻ bị tổn thương não bộ được học tập trong một mơi
trường giàu sự kích thích các giác quan với một hệ thống tài liệu và học cụ
phong phú, đa dạng. Các phương pháp mà bà áp dụng cho thấy rất hiệu quả,
khi nhóm trẻ tiếp thu rất nhanh các kiến thức về ngơn ngữ và những gì đang
diễn ra xung quanh và các em hồn tồn có thể theo học ở những ngơi trường
bình thường. Sau đó, bà đã đưa phương pháp của mình ra để áp dụng cho
những đứa trẻ bình thường, những nhà trẻ đầu tiên được giảng dạy theo
phương pháp Montessori được hình thành. Phương pháp Montessori đã được
áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới và đã được cải biến rất nhiều để phù hợp
với hiện tại.

7


Phương pháp Montessori được xây dựng theo phương châm giáo dục trẻ
là quá trình bồi dưỡng tiềm năng của trẻ (không phải chỉ đơn thuần truyền đạt
kiến thức) trong giai đoạn mấu chốt và quan trọng nhất từ 0-6 tuổi, trên cơ sở

trẻ được trải nghiệm và hoạt động độc lập, coi trọng sự phát triển tự nhiên của
trẻ, quan sát trẻ để dạy trẻ tốt hơn. Đây là một điều hoàn toàn khác so với các
phương pháp giáo dục trước đây, trong khi các phương pháp giáo dục luôn cố
nhào nặn trẻ trưởng thành theo mong muốn hay sự định hướng của cha mẹ,
điều này rất dễ dẫn sự khó chịu của trẻ và sinh ra hành động chống đối như
cáu kỉnh, khóc nhè, mè nheo ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ. Phương pháp
Montessori coi trọng sự “tự nhiên”, không gượng ép khiến trẻ cảm thấy thoải
mái và có hứng thú với những điều mình đang làm.
Trẻ từ 0-6 tuổi có năng lực nhận thức khác hồn tồn với người lớn,
chúng có thể tiếp nhận thơng tin từ mơi trường xung quanh rất nhanh. Tâm trí
tiếp nhận của trẻ trong 3 năm đầu đời gần như là vô thức, 3 năm tiếp theo là
tiếp nhận có ý thức. Tiếp nhận vô thức ở 3 năm đầu giống như chụp ảnh,
những hình ảnh được tiếp nhận sẽ khắc sâu trong não bộ và rất khó xố bỏ.Lý
luận về thời kì nhạy cảm của Maria Montessori chỉ ra rằng, giáo dục phải bắt
đầu từ 0 tuổi và phải bắt đầu từ gia đình, cha mẹ là người thầy đầu tiên là
người có trách nhiệm lớn nhất. Nếu như cha mẹ chỉ đáp ứng những nhu cầu
vật chất cho trẻ được đầy đủ mà không dành thời gian theo sát, hỗ trợ và trải
nghiệm cùng con thì cha mẹ chưa làm trịn bổn phận của mình. Trong phương
pháp giáo dục của mình, bà đặc biệt chú tâm đến mơi trường của trẻ (tại gia
đình và tại lớp học), sự sắp xếp, bài trí đồ vật, học liệu, giáo cụ… đều có
những quy định riêng sao cho thuận tiện và phù hợp nhất cho sự phát triển
tâm lý của trẻ, khả năng tìm tịi, tự lập và khả năng tự thực hiện của trẻ[15].
Tác giả Glenn Doman (1950) cùng một số cộng sự thành lập Viện Nghiên
cứu phát triển tiềm năng con người - gọi tắt là IAHP (Mỹ). Ông là người đi
tiên phong trong lĩnh vực phát triển trí tuệ cho trẻ em. Xuất phát từ việc quan

8


sát, trị liệu cho những trẻ bị tổn thương não bộ, ban đầu chương trình can

thiệp được soạn thảo cho từng trẻ, dựa trên tiến bộ mà mỗi trẻ đạt được, cha
mẹ khi về nhà cũng phải tuân thủ chương trình mới đều đặn hàng ngày trong
khoảng 6 tháng. Chương trình rèn luyện tại nhà cân bằng giữa mục tiêu vận
động và mục tiêu rèn luyện thể chất để đảm bảo các trẻ khoẻ mạnh hoàn thiện
chức năng, trong lúc đó là bổ sung thêm chương trình dạy đọc sớm. Kết quả
của những thực nghiệm cho thấy, mặc dù trẻ bị tổn thương não bộ nhưng
những trẻ này có thể đọc và hiểu được những gì đã đọc nhanh hơn so với
những trẻ bình thường cùng độ tuổi. Tác giả đưa ra giả thuyết rằng, nếu như
một môi trường đầy kích thích não bộ như thế có thể giúp những trẻ bị tổn
thương não bộ có thể nhận thức, đọc, hiểu, làm tốn… thì khơng lý gì lại
khơng mang lại lợi ích tương tự với những trẻ bình thường. Một chương trình
được thiết kế cơng phu, có chủ đích sẽ mang đến cho trẻ sơ sinh những điều
kiện khuyến khích phát triển tối đa[5].
Phương pháp Glenn Doman tập trung vào lứa tuổi sơ sinh, từ 0-1 tuổi.
Ông cho rằng, việc bấy lâu nay chúng ta tin rằng những mốc phát triển trong
quá trình phát triển của trẻ sẽ tự nhiên đến là khơng đúng. Bởi lẽ q trình
phát triển của trẻ là sản phẩm của tổng hợp các kích thích từ môi trường sống.
Bộ não lớn lên nhờ hoạt động và có thể đẩy nhanh q trình phát triển của não
bộ bằng cách tăng cường độ kích thích vào bất cứ giai đoạn nào trong đời,
nhưng sẽ hiệu quả nhất vào đúng thời điểm não bộ phát triển nhất là 6 năm
đầu đời, đặc biệt là năm đầu đời (0-1 tuổi)[4].
Điều quan trọng nhất mà phương pháp giáo dục sớm của Glenn Doman
mang lại đó chính là sự thay đổi nhận thức về khả năng của trẻ của các bậc
cha mẹ và những người làm giáo dục về giáo dục sớm.Glenn Doman chính là
người đặt nền móng đầu tiên cho xu hướng giáo dục con tại nhà, cha mẹ chính
là người thầy đầu tiên. Phương pháp này giúp trẻ phát triển tồn diện: Thể
chất, trí thơng minh, trí tuệ xúc cảm và năng lực vượt qua nghịch cảnh, những

9



hành trang vô cùng cần thiết cho sự thành công và hạnh phúc trong suốt cuộc
đời mỗi người [5].
Bên cạnh đó, những nghiên cứu và ứng dụng về giáo dục sớm của nhà
giáo dục Nhật BảnMakoto Shichida mang nhiều sự khác biệt. Ông thành lập
Viện Giáo Dục trẻ em Shichida vào năm 1978 (Nhật Bản) sau đổi tên thành
Viện Giáo Dục Shichida (Nhật Bản). Phương pháp Shichida nhấn mạnh đến
tầm quan trọng của mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái cũng như ảnh hưởng
của mối quan hệ đó đến sự phát triển não bộ. Tác giả Shichida cho rằng mọi
trẻ em đều được sinh ra với những năng lực tiềm ẩn đặc biệt. Một số năng lực
có thể dễ dàng kích hoạt cho trẻ từ 0-3 tuổi như: Khả năng đa ngôn ngữ; khả
năng trực giác và các giác quan của não phải ESP; các tài năng về âm nhạc và
nghệ thuật; cảm xúc và các nét tính cách tích cực; năng lực chụp hình. Ngày
nay, đã có hơn 400 cơ sở giáo dục của Shichida trên toàn nước Nhật Bản và
các nước khác như Singapore, Malaysia, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan,
Indonesia, Úc, Mỹ, Canada…. Những thành quả của ông đang giúp cho hàng
ngàn các cha mẹ và trẻ em phát triển nền tảng cho những thành cơng trong
tương lai[12].
Tác giả người Trung Quốc, Phùng Đức Tồn (2010) với nghiên cứu về
giáo dục sớm có tên là Phương Án 0 tuổi (Công trình giáo du ̣c ưu viê ̣t và
phương án thực thi cho trẻ từ 0-6 t̉ i). Nội dung chính của nghiên cứu nhằ m
đưa các giải pháp giáo dục nhằm khai thác triê ̣t để tiề m năng trí tuê ̣ của con
người. Phương án 0 tuổi chỉ ra rằng cần nhận thức lại tiềm năng của bào thai,
trẻ sơ sinh, trẻ mẫu giáo, đồng thời giới thiệu một hệ thống lý luận cơ bản và
phương pháp để khai mở những tiềm năng này. Phương án 0 tuổ i đưa ra
những hoạt động dạy trẻ từ khi còn là thai nhi (thai giáo) và tập trung vào giai
đoạn từ 0-6 tuổi, giáo dục vui chơi trong cuộc sống, giáo dục học đường trong
sự hoạt bát, giáo dục tình cảm khoa học. Điề u quan tro ̣ng nhấ t là niề m đam
mê hoa ̣t đơ ̣ng và tìm hiểu tri thức của trẻ và sự kế t hơ ̣p hài hòa giữa kiế n thức
10



với tình yêu thương . Giáo dục sớm theo quan điểm của tác giả Phùng Đức
Toàn là giáo dục tố chất, bồi dưỡng tiềm năng và nhân cách trẻ [22].
Phương pháp Reggio Emila (1940) là phương pháp giáo dục nhân văn, gần
gũi, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của giáo dục cộng đồng và sự tự tìm hiểu
khám phá của trẻ em. Ví dụ, khi trẻ trong lớp học tỏ ra thích thú với trị chơi
xây dựng thì giáo viên sẽ cung cấp thêm các thanh gỗ nhỏ với các màu sắc,
kiểu dáng khác nhau và các vật liệu khác nhằm giúp trẻ có vật liệu để phát triển
tiếp ý tưởng và sở thích sẵn có. Trong khi trẻ đang say sưa khám phá thì giáo
viên sẽ đưa thêm các cơ hội để học và làm quen với kỹ năng tính tốn, giải
quyết vấn đề và cả kỹ năng đọc viết trong dự án thực hành học tập; mơi trường
đóng một vai trị quan trọng. Mơi trường được xem là một yếu tố giáo dục thứ
ba, sau giáo viên và cha mẹ. Phần lớn các lớp học theo phương pháp này đều
có một xưởng chế tạo, nơi đó đầy ắp các vật liệu như đất sét, màu vẽ, dụng cụ
viết và thiết kế. Trẻ sẽ sử dụng những công cụ ấy để thể hiện ý tưởng của
chúng trong quá trình học tập thực tế; giáo viên -cha mẹ -trẻ đóng vai trị như
những người hợp tác trong q trình học. Thơng thường, các tác giả khác ít để
ý đến vai trị của cha mẹ trong q trình học của trẻ, nhưng phương pháp
Reggio Emila lại xem cha mẹ như là một yếu tố hết sức quan trọng cho việc
học của trẻ. Để xây dựng một cộng đồng học tập cho trẻ, các trường theo
phương pháp này thường xuyên tổ chức các sự kiện trong suốt năm học để kết
nối với phụ huynh của học sinh, chẳng hạn như các buổi thuyết giảng, hội thảo
chia sẻ về cách chăm sóc và ni dạy trẻ. Ví dụ, nhiều phụ huynh thường hay
than phiền về việc ngủ của con không được tốt, nhà trường tổ chức một hội
thảo mời chuyên gia về chia sẻ cách hướng dẫn cha mẹ tạo giấc ngủ tốt cho trẻ
tại nhà [2]. Như vậy, theo phương pháp Reggio Emila, trẻ em là người tự đề
xuất và tự khởi động việc tương tác với mơi trường xung quanh. Chính vì vậy,
mơi trường giáo dục phải hỗ trợ cho việc theo đuổi sở thích của chúng, nhưng
khơng phải là sao cũng được.


11


Cuối thế kỷ 20, đầu thể kỷ 21 đánh dấu sự phát triển bùng nổ các học liệu
giáo dục sớm của các cá nhân và công ty về lĩnh vực giáo dục. Nhà giáo dục
Robert C. Titzer (1997) người Mỹ đưa ra bộ đĩa “Bé yêu biết đọc” dựa trên
những nghiên cứu của ông về năng lực học của trẻ sơ sinh. Ông đã phát triển
một phương pháp học đọc đa giác quan sinh động để kích hoạt sự phát triển
não bộ cho trẻ. Bộ đĩa của ơng nhanh chóng được các cha mẹ khắp nơi trên
thế giới đón nhận và đã được dịch ra nhiề u thứ tiếng

, như tiế ng Pháp , tiếng

Tây Ban Nha, tiếng Nhật và tiếng Việt[3].
Công ty The Soul Learning tại Mỹ (2000) đã đưa ra bộ chương trình
Tweedlewink - Right Brain Kids. Bộ đĩa này được xây dựng dựa trên các lí
luận giáo dục của nhiều học giả khác nhau như Maria Montessori, Barbara
Meister Vitale, Colin Rose, Glenn Doman, Makoto Shichida. Mục tiêu của bộ
đĩa là phát triển những năng lực tiếp thu thông tin ồ ạt, tốc độ cao của trẻ một
cách dễ dàng và thích thú. Cơng ty Brillkids của Hồng Kông được thành lập
vào năm 2008 cũng đưa ra thị trường bộ học liệu dạy bé đọc, làm toán và học
âm nhạc. Bộ học liệu này được phát triển dựa trên nền tảng của khoa học
công nghệ thông tin. Các chương trình này được cài lên máy tính hoặc các
thiết bị điện tử để cho trẻ trực tiếp tương tác. Bộ học đọc và của Brillkids có
sự kết hợp của phương pháp Glenn Doman, phương pháp học đa giác quan
của Tizer và một phần của phương pháp truyền thống. Bộ học toán cũng được
phát triển dựa trên phương pháp học toán thẻ dot của Glenn Doman và
phương pháp toán của Shichida. Hiện tại Brillkids đã có mặt ở Việt Nam và
một số nước khác trên thế giới[4].

Sau nhiều năm nghiên cứu với hơn một nghìn trẻ em, nhà tâm lý học
người Mỹ, Bejamin Bloom đã đưa ra kết luận rằng: “Nếu đến năm 17 tuổi, trí
tuệ của một con người có thể phát triểm 100% thì vào năm 4 tuổi, trí tuệ của
trẻ đã đạt 50%, đến năm 8 tuổi phát triển tới 80%, năm 8 tuổi tới năm 17 tuổi
chỉ phát triển thêm tối đa 20%”. Makarenko, nhà tâm lý sư phạm nổi tiếng

12


của Liên Xô giai đoạn những năm 60-70 của thế kỉ trước cho rằng: “Nền
móng của giáo dục được xây dựng vững chắc từ trước 5 tuổi, nó chiếm 90%
cả quá trình giáo dục”. Giáo dục sớm thúc đẩy sự phát triển của đại não ngày
càng hồn thiện, nó được tiến hành trong thời kỳ lý tưởng nhất để phát triển
thể chất, trí tuệ, hình thành tính cách và phẩm chất tốt đẹp của con người. Đây
cũng chính là nền tảng cơ sở để nuôi dưỡng con người, là xuất phát điểm và
ưu thế cho việc phát triển ở giai đoạn sau của con người. Mục tiêu của giáo
dục sớm không phải để nhồi nhét tri thức mà giáo dục phải góp phần kích
hoạt được các năng lực thiên bẩm của trẻ, nhằm khai phá các tiềm năng và
khả năng phi thường trong những năm đầu đời của trẻ, nhằm hình thành các
nền tảng tốt đẹp cho cả đời người. Để có năng lực thiêm bẩm chúng ta phải
cung cấp cho trẻ môi trường phát triển tốt với các yếu tố kích thích cần thiết
cho sự phát triển. Ngày xưa, giáo dục tập trung vào việc nuôi dưỡng những
con người tốt để có thể đóng góp cho gia đình, cho xã hội. Ngày nay, giáo dục
mới chỉ là để vượt qua các kỳ thi và chỉ chú trọng khả năng học tập ở
trường[Dẫn theo, 22].
Tại Việt Nam, trong quá trình tổng hợp tài liệu, chúng tơi khơng tìm được
nhiều nghiên cứu về giáo dục sớm. Vì vậy, trong phần này chúng tơi chỉ trình
bàymột số nghiên cứu của tác giảmà chúng tơi tìm được như sau:
Tại Việt Nam, giáo dục cho trẻ trước tuổi đi học (6 tuổi) theo “Chương
trình Giáo dục mầm non” của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Mục tiêu của chương

trình giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em
vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý,
năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết, phù
hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền
tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời [1].

13


Chương trình giáo dục mầm non của Bộ Giáo dục và đào tạo chia thành
hai độ tuổi khác nhau trong quá trình phát triển của trẻ là:
Chương trình giáo dục nhà trẻ: Dành cho trẻ từ 3 tháng tuổi đến 3
tuổi,trong đó nhấn mạnh phát triển hài hồ về các mặt thể chất, nhận thức,
ngơn ngữ, tình cảm - xã hội và thẩm mĩ.
Chương trình giáo dục mầm non: Dành cho trẻ em từ 3 đến 6 tuổi, cũng là
để phát triển hài hoà về các mặt thể chất, nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm - xã
hội và thẩm mĩ và chuẩn bị cho trẻ vào học ở tiểu học. Chương trình giáo dục
mầm non của Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra những phương pháp, nội dung,
phương tiện và hình thức tổ chức dạy học, hình thức triển khai hoạt động cụ
thể với từng độ tuổi.
Tác giả Trần Văn Tính (2017) với nghiên cứu “Phương pháp giáo dục
sớm bằng hoạt động trải nghiệm thực tiễn đa trí tuệ (Phương pháp giáo dục
sớm Peami)”. Nghiên cứu đưa ra một phương pháp giáo dục sớm dành cho trẻ
từ 0 - 6 tuổimang tên Peami. Cơ sở của phương pháp này dựa trên những luận
điểm sau:
- Hoạt động là “yếu tố quyết định” giúp trẻ phát triển thể chất, trí tuệ và
nhân cách. Năng lực của trẻ được hình thành, phát triển, đánh giá bằng hoạt
động và thông qua hoạt động của chính trẻ.
- Hoạt động trải nghiệm phù hợp với độ tuổi giúp trẻ phát triển thể chất,

trí tuệ và nhân cách một cách tự nhiên, kích hoạt não trẻ phát triển tối ưu
trong giai đoạn phát triển vàng 0 – 6 tuổi của não bộ.
- Hoạt động trải nghiệm trong cuộc sống thực của trẻ được “định hướng
giáo dục” kích thích đa giác quan của trẻ, giúp trẻ phát triển đa trí tuệ (trí
thơng minh, trí sáng tạo, trí tuệ cảm xúc, phát triển kĩ năng xã hội và khả năng
vượt khó), hình thành các phẩm chất và năng lực thực tiễn.
- Hoạt động trải nghiệm thực tiễn với trẻ mầm non được tổ chức dưới hình
thức các “trị chơi học tập”, chú trọng đến cả quá trình hoạt động chứ không

14


chỉ đánh giá sản phẩm cuối cùng của trẻ.Các bài học được thiết kế thành các
trò chơi và các cuộc trải nghiệm đầy lý thú giúp trẻ tư duy, tiếp thu một cách
tích cực và tự nhiên nhất. Mỗi độ tuổi đều có giáo án chi tiết theo từng ngày,
từng tháng đảm bảo sự phát triển toàn diện của trẻ theo cấp độ từ thấp đến
cao. Đặc biệt là chương trình học có sự gắn kết, liên hệ chặt chẽ với phụ
huynh hàng ngày để theo dõi quá trình phát triển của bé[21].
Tác giả Huỳnh Văn Sơn (2012) trong nghiên cứu “Giáo dục thai nhi
dưới góc nhìn tâm lý học” đã chỉ ra rằng giáo dục sớm là một trong những
quan điểm giáo dục thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà khoa học
trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Giáo dục sớm có tác dụng dẫn dắt, bồi dưỡng,
phát triển tiềm năng thể lực và trí tuệ cho trẻ trong thời kì 0 tuổi (thai nhi) đến
6 tuổi, mang một ý nghĩa đặc biệt và có tác dụng phi thường đối với sự trưởng
thành của trẻ. Thực hiện tốt việc giáo dục sớm sẽ thúc đẩy sự phát triển trí
tuệ, hình thành tính cách và phẩm chất tốt đẹp của con người. Cơng việc này
khơng ai có thể thay thế được vai trò của người mẹ với sự hỗ trợ của người
cha cùng các thành viên trong gia đình[20].
1.1.2. Tổng quan một số nghiên cứu về nhận thức và hành vi của cha
mẹ về giáo dục sớm cho trẻ em

Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy cách chăm sóc ni dưỡng trẻ trong
giai đoạn đầu đời có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hạn chế và mở rộng tiềm
năng về học tập, xã hộivà thể chất trong suốt cuộc đời của trẻ. Các bằng
chứng khoa học cũng cho thấy sự tương tác tích cực và mối quan hệ hỗ trợ, ổn
định với cha mẹ và những người chăm sóc gần gũi khác là những yếu tố quan
trọng đối với trẻ để phát triển thành những người khoẻ mạnh về mặt thể chất,
tinh thần và xã hội. Ngược lại, nếu trẻ tiếp xúc với hoàn cảnh thời thơ ấu bất
lợi và độc hại, như bị bạo lực, nghèo đói, bị lạm dụng, bị những ảnh hưởng
tiêu cực kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của não bộ, có thể dẫn đến
những tổn thương nghiêm trọng cản trở sự thành công trong học tập và các

15


vấn đề khác về hành vi và sức khỏe tâm thần (Anda & Brown (2010), Hội
đồng khoa học Quốc gia vì trẻ em đang phát triển(2007), Zero to Three
(2009)[Dẫn theo, 31, tr32].
Các nghiên cứu tiêu biểu về nhận thức, thái độ trong nuôi dạy con cái của
các nhà nghiên cứu Mỹ được tổng kết trong cuốn: Các vấn đề về ni dạy con
cái và hỗ trợ cha mẹ có con từ 0-8 tuổi(2016). Nội dung của nghiên cứu rất
rộng, một trong số đó xoay quanh vấn đề xác định nhận thức, thái độ và hành
vi có liên quan đến tương tác tích cực giữa cha mẹ và sự phát triển lành mạnh
của trẻ em từ sơ sinh đến 8 tuổi. Đánh giá nhận thức, thái độ và việc thực
hành những hoạt động liên quan chặt chẽ nhất đến sự phát triển khỏe mạnh
của trẻ. Nghiên cứu chỉ ra rằng đặc trưng của gia đình là yếu tố chính quyết
địnhviệc ni dạy con cái. Kiến thức, thái độ và hành vi ni dạy con cái
được định hình bởi các yếu tố, bao gồm các đặc điểm của đứa trẻ (ví dụ: giới
tính); trình độ học vấn của cha mẹ và hồn cảnh hiện tại (mức thu nhập...); dư
luận xã hội cụ thể là kỳ vọng từ những người khác (gia đình, bạn bè, người
thân); mạng xã hội; các hệ thống văn hóa mà gia đình sinh sống. Liên quan cụ

thể đến nghiên cứu này, các yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ và thực
hành nuôi dạy con cái cũng bao gồm các hỗ trợ sẵn có trong cộng đồng được
cung cấp bởi các tổ chức, cũng như các chính sách ảnh hưởng đến tính hiệu
quả và thực tế của các dịch vụ hỗ trợ [28].
Đề tài nghiên cứu củaHolland Suzanne Kate (2012),Nhận thức của cha
mẹ về tầm quan trọng của họạt động chơi đối với trẻ 0-3 tuổi tại Đại học
Victoria Wellington, khách thể là 255 cha mẹ tại New Zealand, có con từ 0-3
tuổi, tham gia vào cuộc khảo sát trực tuyến ẩn danh đối với trò chơi có cấu
trúc (có tổ chức) và khơng có cấu trúc ( chơi tự do) cho trẻ em dưới ba tuổi.
Kết quả của nghiên cứu chỉ ra, phần lớn các bậc cha mẹ nhận thức chơi khơng
có cấu trúc sẽ hỗ trợ cho sự phát triển sớm nhất và do đó, cần cung cấp cho trẻ
em một lượng lớn thời gian hàng ngày để tham gia vào chơi tự do không có

16


×