Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Phát huy vai trò của giáo dục trung học chuyên nghiệp dạy nghề với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay qua khảo sát một số trường trung học chuyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 132 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN ĐỨC KHIÊM

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP DẠY NGHỀ VỚI SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY (QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG
TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP - DẠY NGHỀ Ở TỈNH VĨNH PHÚC)

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN ĐỨC KHIÊM

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP DẠY NGHỀ VỚI SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY (QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG
TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP - DẠY NGHỀ Ở TỈNH VĨNH PHÚC)

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số:
60 22 85


Người hướng dẫn khoa học học: PGS, TS. NGÔ NGỌC THẮNG

HÀ NỘI - 2009


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của PGS, TS. Ngô Ngọc Thắng.
Các số liệu, tài liệu nêu ra trong luận văn là trung thực,
đảm bảo tính khách quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 13 tháng 10 năm 2009.
Tác giả luận văn

Nguyễn Đức Khiêm


MỤC LỤC
Mở đầu................................................................................................................. 1
Chương 1. Giáo dục Trung học chuyên nghiệp - Dạy nghề và vai trị
của nó đối với sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta
hiện nay ....................................................................................................... 8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của giáo dục Trung học chuyên nghiệp - Dạy
nghề trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay ..................................... 8
1.2. Vai trò của giáo dục Trung học chuyên nghiệp - Dạy nghề với sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta hiện nay ............................. 39
Chương 2. Thực trạng phát huy vai trò của giáo dục Trung học chuyên
nghiệp - Dạy nghề ở tỉnh Vĩnh Phúc ...................................................... 53

2.1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc............................ 53
2.2. Thực trạng của giáo dục Trung học chuyên nghiệp - Dạy nghề ở Vĩnh
Phúc ............................................................................................................ 65
Chương 3. Quan điểm chỉ đạo và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò
của giáo dục Trung học chuyên nghiệp - Dạy ở ở tỉnh Vĩnh Phúc .............. 88
3.1. Quan điểm chỉ đạo nhằm phát huy vai trò của giáo dục Trung học
chuyên nghiệp - Dạy nghề ở tỉnh Vĩnh Phúc ............................................. 88
3.2. Giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của giáo dục Trung học chuyên
nghiệp - Dạy nghề ở tỉnh Vĩnh Phúc ............................................................... 202
Kết luận ........................................................................................................... 120
Danh mục tài liệu tham khảo ........................................................................ 123


BẢNG QUY ƯỚC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

DN:

Dạy nghề

DDI:

Đầu tư gián tiếp

CNH:

Cơng nghiệp hố

HĐH:

Hiện đại hố


KTTT:

Kinh tế thị trường

GDP:

Tổng sản phẩm quốc nội

OECD:

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới

ODA:

Vốn vay với lãi xuất ưu đãi

THCN:

Trung học chuyên nghiệp

THCN- DN: Trung học chuyên nghiệp - Day nghề
THCS:

Trung học cơ sở

THPT:

Trung học phổ thông


FDI:

Đầu tư trực tiếp

VNĐ:

Việt Nam đồng

USD:

Đô la Mỹ


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nâng cao chất lượng nguồn lực con người là một trong những vấn đề cốt lõi
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Ngày nay, dường như
bất cứ quốc gia nào cũng đều nhận thức rõ nguồn lực con người là nhân tố quyết
định sự phát triển kinh tế - xã hội của mình.
Các nhà kinh tế hiện nay đều khẳng định: đầu tư cho nguồn lực con người
thông qua hoạt động giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, được xem là hoạt
động đầu tư có hiệu quả và đóng vai trị quyết định tới khả năng tăng trưởng kinh tế
nhanh, bền vững của mỗi quốc gia. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đã có các
chính sách khác nhau để nâng cao chất lượng nguồn lực con người phục vụ sự
nghiệp phát triển con người và nguồn lực con người, phát triển kinh tế - xã hội mà
trọng tâm là chính sách giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo, trong đó có giáo
dục Trung học chuyên nghiệp - Dạy nghề (giáo dục nghề nghiệp) được coi là một
trong những chính sách quan trọng. Cùng với nền giáo dục quốc dân, giáo dục
Trung học chuyên nghiệp - Dạy nghề (THCN - DN) góp phần làm tăng giá trị tồn
diện của con người và những năng lực nghề nghiệp, giúp cho mỗi con người phát

triển và tự khẳng định mình trong cuộc sống.
Trong bối cảnh tồn cầu hố, sự phân cơng lao động xã hội trong khu vực và
quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, sự cạnh tranh giữa các quốc gia ngày càng quyết liệt
hơn, vũ khí có hiệu quả nhất trong cuộc cạnh tranh này là phát huy tối đa nguồn lực
con người, đặc biệt là nguồn nhân lực đã qua đào tạo. Bởi vậy, chỉ có nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực thông qua hoạt động giáo dục và đào tạo thì mới có thể tận
dụng được tối đa những cơ hội của tồn cầu hố để phát triển đất nước một cách
toàn diện. Hơn nữa, cuộc cách mạng khoa học, cơng nghệ đang phát triển nhanh
chóng trên thế giới, thúc đẩy sự hình thành một nền kinh tế mới - kinh tế tri thức.
Trong nền kinh tế đó, tri thức trở thành một nhân tố sản xuất quan trọng, là nguồn
nguyên liệu đầu vào của mọi quá trình sản xuất, đóng vai trị quan trọng vào sự tăng

1


trưởng và phát triển của mỗi quốc gia thì giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục
THCN - DN nói riêng ngày càng giữa vai trị đặc biệt quan trọng.
Ở nước ta hiện nay, vấn đề phát huy vai trò của giáo dục THCN - DN, đáp
ứng yêu cầu cung cấp nguồn lao động có tay nghề, có kỹ thuật phục vụ sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố (CNH, HĐH) đất nước đã và đang là vấn đề được
Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Trong Chiến lược phát triển giáo dục nói
chung, chiến lược phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cách mạng trong
tình hình mới nói riêng, nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực qua đào tạo được
Đảng và Nhà nước ta xác định là nguồn lực quan trọng nhất. Việt Nam sẽ cơ bản trở
thành một nước công nghiệp vào năm 2020 với nguồn lực con người là vốn quý
nhất, có vai trò quyết định trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước khi mà nguồn lực
tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp.
Trong Chiến lược phát triển con người và nguồn lực con người, Đảng và Nhà
nước ta hết sức quan tâm, chú trọng tới phát triển giáo dục và đào tạo, trong đó có
giáo dục THCN - DN, coi đó là một trong những nhân tố căn bản để phát triển

nhanh và bền vững, là biện pháp, là công cụ cơ bản trong sự phát triển xã hội, là
“quốc sách hàng đầu”. Giáo dục THCN - DN có ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Nó vừa là nơi cùng với giáo dục cao đẳng, đại học và
sau đại học đào tạo ra những con người có trình độ chun mơn cao, vững vàng,
đạo đức nghề nghiệp trong sáng, có lương tâm, có trách nhiệm với cơng việc. Đồng
thời, cũng là nơi đào tạo ra những kỹ thuật viên, công nhân lành nghề, bán lành
nghề đủ đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Bởi vậy, giáo dục THCN - DN có
tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là ở giai đoạn hiện nay,
khi khoa học, cơng nghệ đã có những tiến bộ vượt bậc, hội nhập kinh tế quốc tế sâu,
rộng, trở thành xu thế tất yếu. Hơn nữa, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) - Tổ chức kinh tế lớn nhất hành tinh, địi hỏi
người lao động phải có tay nghề cao với một nền tảng học vấn vững chắc thì mới
bắt kịp với nền kinh tế tri thức, kinh tế ứng dụng.

2


Giáo dục THCN - DN ở nước ta nói chung, ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng trong
thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, nhìn chung còn
nhiều yếu kém, bất cập chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao về chất lượng
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH của đất nước nói chung, của tỉnh nói
riêng và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Những biểu hiện cụ thể của sự yếu kém,
bất cập của giáo dục THCN - DN hiện nay như: Chất lượng đào tạo thấp, học chưa
gắn với hành, nhân lực được đào tạo yếu về năng lực, phẩm chất; Mục tiêu, nội
dung, phương pháp và tổ chức q trình đào tạo chậm đổi mới hoặc khơng đồng bộ;
Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý vừa thiếu lại vừa yếu; Thiếu nghiêm trọng đội
ngũ chuyên gia nghiên cứu và thiết kế chiến lược, chính sách cho giáo dục THCN DN; Mạng lưới các trường THCN - DN không chỉ bị tách rời với các viện nghiên
cứu, mà cịn tách biệt hẳn với các khu cơng nghiệp, khu chế xuất và nhà tuyển
dụng. Cơ chế, chính sách và năng lực thực hiện bất cập, thêm vào đó là tâm lý, thái
độ của xã hội đối với vấn đề giáo dục THCN - DN. Các bậc phụ huynh, nói rộng

hơn là tồn xã hội chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ về giáo dục THCN - DN cũng
như vai trị của nó trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chính vì vậy, Hội nghị lần thứ
Chín Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX chỉ rõ: “Tiếp tục triển khai trong
thực tiễn quan điểm phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu,... Tập trung chỉ đạo quyết liệt và nâng cao rõ rệt chất lượng giáo dục
và đào tạo nguồn nhân lực [16, tr.127]. Nghị quyết Đại hội Đảng X một lần nữa
nhấn mạnh: “Đa dạng hố các loại hình nghề nghiệp, phát triển nhanh hình thức đào
tạo nghề dài hạn theo hướng hiện đại. Tăng nhanh tỷ lệ lao động được qua đào tạo
nghề.
Mục tiêu đề ra là: trong 5 năm tới dạy nghề cho 7,5 đến 8 triệu lao động
(trong đó, 27% đến 30% dài hạn). Tăng số dạy nghề dài hạn 15%/ năm. Tỷ lệ lao
động đã qua đào tạo đạt 40% tổng lao động xã hội” [18, tr.151-152].
Từ ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn như đã nêu trên, tôi chọn vấn
đề: “Phát huy vai trò của giáo dục trung học chuyên nghiệp - dạy nghề đối với sự

3


nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta hiện nay” (Qua khảo sát một số
trường THCN - DN ở tỉnh Vĩnh Phúc) làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, vấn đề giáo dục và đào tạo và vai trị của nó đối
với việc phát triển kinh tế - xã hội đã thu hút được sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà
quản lý, giới lý luận trong và ngồi nước. Do đó, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
về vấn đề này được cơng bố, điển hình như: tác giả Phạm Quang Sáng với bài
“Chính sách đào tạo nguồn nhân lực có trình độ đại học của Việt Nam” đăng trên
Tạp chí Phát triển Giáo dục, số 5/ 2002; PGS.TS Trần Kiều với bài “Chiến lược
phát triển giáo dục và vấn đề phát triển nguồn nhân lực Việt Nam” (Tạp chí Thơng
tin khoa học giáo dục, số 93/2003); GS.TSKH Vũ Ngọc Hải với bài “Đào tạo và sử
dụng nguồn nhân lực để đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và xây dựng nền

kinh tế tri thức ở Việt Nam” (Tạp chí Giáo dục, số 6/ 2004); tác giả Võ Tòng Xuân
với bài viết “Vai trò của giáo dục Việt Nam trước hội nhập toàn cầu thay đổi cơ
bản và tồn diện”(Tạp chí Dạy và Học ngày nay, số 08/06/2003); tác giả Nguyễn
Thị Lan Hương với bài viết “Tác động của cuộc cách mạng trong công nghệ thông
tin đến lực lượng sản xuất - nhìn từ góc độ triết học”(Tạp chí Triết học, số 9/2006);
GS.VS Nguyễn Cảnh Tồn với bài“Làm sao để giáo dục Đại học Việt Nam phát
triển nhanh quy mô và vẫn đảm bảo chất lượng” (Tạp chí Dạy và Học ngày nay, số
12/2008); GS. Hồng Tuỵ với bài: “Cần một tư duy giáo dục mới” (Báo Tuổi trẻ, ra
ngày thứ 7 ngày 4/9/2004)...
Nhìn chung, tuy khai thác ở những khía cạnh, những mảng khác nhau song
các tác giả đều khẳng định: Giáo dục và đào tạo có vai trị đặc biệt quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội và khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng và
Nhà nước ta coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Mặc dù vậy, những bài
viết, những cơng trình nghiên cứu đó mới chủ yếu tập trung vào khai thác vai trò
của giáo dục và đào tạo ở bậc giáo dục đại học và cao đẳng, trong khi đó, việc phát

4


triển kinh tế - xã hội gắn giáo dục với sử dụng nguồn nhân lực không chỉ dừng lại ở
giáo dục đại học và cao đẳng, mà còn bao hàm cả giáo dục THCN - DN.
Vấn đề giáo dục THCN - DN cũng đã có một số bài viết, cơng trình nghiên
cứu được đăng tải trên các sách, báo và tạp chí khoa học khác nhau: PGS.TS Phạm
Đức với bài: “Một số suy nghĩ về vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc phát
triển nguồn nhân lực”(Tạp chí Triết học, số 6/2000); GS.TSKH Trần Văn Nhung
và TS.Trần Khánh Đức với bài:“Vấn đề phát triển nguồn nhân lực công nghệ thơng
tin” (Tạp chí Cộng sản, số 11/04/2002); tác giả Linh Đan với bài “Hướng ra cho
trường nghề” (Tạp chí Giáo dục và Thời đại, số 35/2007); ThS Vương Tiến Dũng
với bài viết“Mối liên hệ giữa công tác đào tạo của nhà trường với việc sử dụng
nguồn nhân lực ở cơ sở sản xuất kinh doanh” (Tạp chí Giáo dục, số 111/2005);

PGS, TS Nguyễn Viết Sự với bài: “Phát triển giáo dục học nghề nghiệp đáp ứng
quá trình đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố
nước ta” (Tạp chí Giáo dục, số 17/2001); Tác giả Nguyễn Quang Huỳnh với cuốn
sách“Cơ sở kinh tế - xã hội và một số vấn đề giáo dục đại học và chuyên nghiệp
của Việt Nam đầu thế kỷ XXI”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003; GS Phạm Thế
Trường với bài:“Mối quan hệ giữa hệ thống giáo dục quốc dân với phát triển thị
trường lao động Việt Nam” (Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội 2004); TS Hoàng Hoa Cương
với bài:“Cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và nhu cầu phát triển đội ngũ lao
động kỹ thuật ở Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hố nền kinh tế thế giới” (Đặc
san Đào tạo nghề, năm 2003); tác giả Lan Hương với bài:“Việt Nam đang thiếu
nhân lực có chất lượng cao” (Dân trí. Com.vn/7/2008); tác giả Đức Bình với
bài:“Vịng luẩn quẩn của đào tạo nghề” (Báo Lao động, ra thứ Hai, ngày 07/10/08,
số 231); GS.VS Nguyễn Cảnh Tồn với bài: “Giáo dục Việt Nam tầm nhìn 2020”
(Giáo dục và Thời đại, số 15, ra ngày 3/2/2009),... Những cơng trình, những bài viết
nêu trên chỉ đưa ra những nét khái quát về giáo dục THCN - DN như một phác thảo
chung, chưa đi sâu nghiên cứu cơ bản và có hệ thống về giáo dục THCN - DN, cũng
như vai trị của nó đối với sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta. Đặc biệt, chưa có một

5


bài viết hoặc một cơng trình nghiên cứu nào làm rõ vai trò của giáo dục THCN DN trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH,
HĐH trong phạm vi cụ thể của một tỉnh, thành hoặc một khu vực ở nước ta. Trong
khi đó, vấn đề này đang địi hỏi phải được giải đáp thoả đáng cả về phương diện lý
luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
+ Trên cơ sở làm rõ vai trò của giáo dục THCN - DN với sự nghiệp CNH,
HĐH ở nước ta, từ đó đề xuất một hệ thống các giải pháp nhằm phát huy có hiệu
quả vai trị của giáo dục THCN - DN trong giai đoạn hiện nay.
+ Làm rõ khái niệm và vai trò của giáo dục THCN - DN đối với việc phát

triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
+ Đánh giá thực trạng của giáo dục THCN - DN đối với sự nghiệp CNH,
HĐH ở tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Xây dựng hệ thống các giải pháp nhằm phát huy vai trò của giáo dục
THCN - DN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
+ Luận văn đi sâu nghiên cứu vai trò và thực trạng của giáo dục THCN - DN
đối với sự nghiệp CNH, HĐH của nước ta mà cụ thể là ở tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở
khảo sát một số trường THCN - DN ở tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Tác giả luận văn đi khảo sát tình hình thực tế giáo dục, điều tra, lấy số liệu
công tác giáo dục THCN - DN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc (từ năm 1997 đến tháng
6 năm 2008), đồng thời tham khảo số liệu của các Sở, Ban, Ngành có liên quan đến
vấn đề này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam về Giáo dục và Đào tạo, đồng thời tiếp thu kết quả của

6


các cơng trình nghiên cứu liên quan tới đề tài. Luận văn sử dụng một số phương
pháp như: Phân tích và tổng hợp, đối chiếu và so sánh, lơgíc và lịch sử, thống kê và
hệ thống hố.
6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn
+ Làm rõ vai trò của giáo dục THCN-DN với sự nghiệp CNH, HĐH ở nước
ta hiện nay nói chung, ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
+ Đề xuất được một hệ thống các giải pháp nhằm phát huy vai trò của giáo
dục THCN- DN với sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta và ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
+ Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu

và giảng dạy lý luận chính trị trong các nhà trường. Đồng thời, luận văn cũng có thể
làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác quản lý và những ai quan tâm
đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 6 tiết:
Chương 1: Giáo dục Trung học chuyên nghiệp - Dạy nghề và vai trị của nó
đối với sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
Chương 2: Thực trạng phát huy vai trò của giáo dục Trung học chuyên
nghiệp - Dạy nghề ở tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 2: Quan điểm chỉ đạo và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của
giáo dục Trung học chuyên nghiệp - Dạy ở ở tỉnh Vĩnh Phúc.

7


Chương 1
GIÁO DỤC TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP - DẠY NGHỀ
VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Khái niệm và đặc điểm của giáo dục Trung học chuyên nghiệp - Dạy
nghề trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay
* Khái niệm và đặc điểm của giáo dục Trung học chuyên nghiệp - Dạy
nghề trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay
- Khái niệm giáo dục Trung học chuyên nghiệp - Dạy nghề.
Phát triển nguồn nhân lực là mối quan tâm hàng đầu và là chiến lược ưu tiên
của mọi quốc gia trong tiến trình đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế - xã hội theo xu
hướng toàn cầu hố. Trong đó, nhân lực lao động kỹ thuật từ công nhân kỹ thuật, kỹ
thuật viên, trung cấp kỹ thuật đến cao đẳng, đại học được coi trọng phát triển cả về
quy mô và chất lượng. Đồng thời, xuất phát từ yêu cầu phát triển sản xuất - dịch vụ

trong từng giai đoạn nhất định để xác định cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ
cấu vùng miền một cách hợp lý nhằm tạo sự phù hợp tối ưu giữa đào tạo - việc làm
và sử dụng lao động kỹ thuật. Tỷ lệ lao động kỹ thuật có trình độ đại học/cao
đẳng/trung học chun nghiệp/cơng nhân kỹ thuật ln là ẩn số động, địi hỏi phải
có lời giải thoả đáng cho từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia
nói chung, của Việt Nam nói riêng. Muốn có lời giải thoả đáng cho bài tốn trên
phải xuất phát từ vị trí của các phân ngành giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc
dân với quan điểm liên thông và phân luồng theo mục tiêu “nâng cao dân trí, phát
triển nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”.
Theo quan điểm Mácxít, nghề là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử. Nghề
có q trình ra đời, phát triển và suy vong theo tiến trình lịch sử. Điểm xuất phát và
cơ sở để xác định nghề là lao động. Lao động là hoạt động có mục đích của con

8


người, sáng tạo ra con người và là cơ sở cho sự phát triển của xã hội loài người. Lao
động chính là tiền đề, là cơ sở đặt nền móng làm xuất hiện nghề trong xã hội lồi
người.
Trong q trình lao động xã hội, để tăng năng suất lao động và hiệu quả lao
động đã xuất hiện sự chuyên môn hố và sự định hình lâu dài của mỗi người. Điều
này đưa tới sự phát triển đa dạng, phong phú của nghề. Nghề xuất hiện trong xã hội
nhằm thoả mãn nhu cầu làm ăn, sinh sống của con người và đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội theo nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, nhiều khu vực lãnh thổ
và cộng đồng. Những yêu cầu về mặt số lượng, chất lượng sản phẩm của lao động
đòi hỏi người lao động phải có kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, thái độ lao
động. Do đó, buộc con người muốn hoạt động được trong nghề phải được đào tạo,
học hỏi. Tức là, người lao động trong nghề đã phát triển từ cái giản đơn đến cái
phức tạp, từ lao động cá nhân đến lao động mang tính tập thể, cộng đồng trong mối
quan hệ xã hội chặt chẽ với nhau. Các nghề xã hội ngày càng phong phú, đa dạng

như: nghề đan lát, nghề cắt tóc, gội đầu, nghề trang điểm,..thậm chí, trong xã hội
hiện đại, đi làm thuê, giúp việc cũng gọi là một nghề,... đến các nghề phức tạp như:
nghề sửa chữa ô tô, xe máy, nghề trồng hoa cây cảnh,... Trong xã hội có hàng ngàn,
hàng vạn nghề và loại nghề khác nhau ở mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội, đó là
các nghề của xã hội.
Theo từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ Trung học chuyên nghiệp có nghĩa là:
“Tổ chức giáo dục nghề nghiệp dành cho người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở
hoặc trung học phổ thông” [68, tr.1049]; Thuật ngữ dạy nghề có nghĩa là: “Truyền
lại tri thức hoặc kỹ năng một cách ít nhiều có hệ thống, có phương pháp” [68,
tr.244]. Điều 5, Luật Dạy nghề giải thích: “Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm
trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để
có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hồn thành khố học” [40,
tr.5].

9


Giáo dục THCN - DN gọi chung là giáo dục nghề nghiệp là một thành tố,
một bộ phận, một phân ngành trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta. Nó có
vị trí tiếp thu thành quả của giáo dục phổ thông, tạo nguồn đào tạo cho cao đẳng,
đại học và nguồn lao động trực tiếp cho xã hội.
Luật Giáo dục của nước ta năm 1998 tại Chương I, Điều 6, Hệ thống giáo
dục quốc dân, ở Khoản 3 quy định: Giáo dục nghề nghiệp gồm có trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề, Luật Giáo dục sửa đổi, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 diễn ra từ ngày 05 tháng 5 đến ngày 14
tháng 6 năm 2005 thông qua, tại Chương I, Điều 4, Hệ thống giáo dục quốc dân ở
Khoản 2, Mục c ghi rõ: Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy
nghề. Tại chương II: Hệ thống giáo dục quốc dân. Mục 3, Điều 32, Luật Giáo dục
sửa đổi năm 2005 quy định:
“Giáo dục nghề nghiệp gồm:

1. Trung cấp chuyên được thực hiện thực hiện từ ba đến bốn năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, từ một đến hai năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp trung học phổ thông;
2. Dạy nghề được thực hiện dưới một năm đối với đào tạo nghề trình độ sơ
cấp, từ một đến ba năm đối với đào tạo nghề trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng”.
Điều 33 của luật này quy định mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp:
“Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức,
kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp,
ý thức kỷ luật, tác phong cơng nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người
lao động có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học tập nâng cao
trình độ chun mơn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, củng
cố quốc phòng, an ninh.
Trung cấp chuyên nghiệp nhằm đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng
thực hành cơ bản của một nghề, có khả năng làm việc độc lập và có tính sáng tạo,
ứng dụng công nghệ vào công việc.

10


Dạy nghề nhằm đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có
năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo” [42, tr.25-26].
Vấn đề hết sức cấp thiết của chúng ta trong giai đoạn hiện nay là cần đánh
giá thực trạng của giáo dục THCN - DN, dự báo được xu thế phát triển của nó trong
5 - 10 năm tới và lâu hơn nữa, tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia có nền
giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới về vấn đề này. Trên cơ sở đó, đề
xuất được các giải pháp vừa ở tầm vĩ mơ về quan điểm, chính sách, chiến lược, vừa
ở tầm vi mơ để đổi mới q trình đào tạo THCN - DN, cũng như những điều kiện
để đảm bảo chất lượng đào tạo ở từng ngành, từng lĩnh vực, từng khu vực và từng
cơ sở đào tạo.
Sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đang có những bước chuyển biến

mạnh mẽ theo hướng CNH, HĐH với nhiều tác động như: xu thế tồn cầu hố, sự
phát triển như vũ bão của tiến bộ khoa học, công nghệ, chính sách rộng mở giao lưu
với các nước trong khu vực và trên thế giới trong lĩnh vực sản xuất - dịch vụ,... Sự
phát triển của kinh tế - xã hội, đòi hỏi phải đáp ứng một lực lượng lao động kỹ thuật
mới có năng lực cao, cơ cấu ngành nghề đa dạng và quy mô phát triển phù hợp về
ngành, nghề, vùng, miền theo yêu cầu mới của thị trường lao động trong và ngoài
nước.
Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo đã khẳng định: “Tạo bước chuyển
biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế
giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước; của từng vùng, từng địa phương; hướng tới một xã hội học tập.
Phấn đấu đưa nền giáo dục nước ta thốt khỏi tình trạng tụt hậu trên một số lĩnh vực
so với các nước phát triển trong khu vực. Ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân
lực, đặc biệt chú trọng đào tạo nhân lực khoa học - công nghệ trình độ cao, cán bộ
quản lý, kinh doanh giỏi và cơng nhân kỹ thuật lành nghề trực tiếp góp phần nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Trong Chiến lược, còn đặc biệt quan tâm đến
việc nâng cao chất lượng dạy nghề, gắn với nâng cao ý thức kỷ luật lao động và tác

11


phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng, với việc làm trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, đáp ứng nhu cầu của các khu
công nghiệp, khu chế xuất, các ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta hiện nay. Đi
liền với đó là hướng tới đào tạo nguồn lao động kỹ thuật, công nhân lành nghề để
xuất khẩu lao động. Mở rộng cả về số lượng và chất lượng đào tạo kỹ thuật viên,
nhân viên nghiệp vụ có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung cấp dựa
trền tảng của học vấn trung học cơ sở và trung học phổ thông.
Nhà nước ta đã coi phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ hàng đầu và là
khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Trong đó, hết sức coi trọng việc đào tạo công nhân kỹ thuật và kỹ thuật viên trung

học. Chiến lược phát triển Giáo dục đã chỉ rõ: “Thu hút học sinh trong độ tuổi vào
các trường trung học chuyên nghiệp đạt 15% vào năm 2010, và thu hút học sinh sau
trung học cơ sở vào các trường dạy nghề là 15% vào năm 2010. Dạy nghề bậc cao
thu hút học sinh sau trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp là 10% vào năm
2010” [58, tr.102-104]. Điều này một lần nữa được Đảng và Nhà nước ta tái khẳng
định trong Nghị quyết số 48/ 2002/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về quy
hoạch mạng lưới các trường THCN - DN giai đoạn 2002 - 2010.
Giáo dục THCN - DN có vai trị quan trọng trong hệ thống đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Cùng với các phân
hệ khác trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục THCN - DN trực tiếp góp phần
đào tạo nhân lực với tỷ trọng cao trong tháp nhân lực quốc gia. Bởi vậy, Hội nghị
lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định: “Người lao
động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến, gắn liền với một nền khoa học,
công nghệ hiện đại. Giáo dục phải làm tốt nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho đất
nước, đội ngũ lao động cho khoa học, công nghệ” [13, tr.9].
- Đặc điểm của giáo dục Trung học chuyên nghiệp - Dạy nghề trong hệ
thống giáo dục quốc dân.

12


Đặc điểm nổi bật của giáo dục THCN - DN là tập trung đào tạo người lao
động có kỹ năng, kỹ xảo hành nghề trên cơ sở nắm vững lý thuyết. Vì vậy, vấn đề
dạy thực hành, luyện tập kỹ năng là những hoạt động cốt lõi trong quá trình đào tạo
của các trường THCN - DN.
Trường THCN - DN là các cơ sở giáo dục nghề nghiệp được thực hiện từ 3
đến 4 năm đối với người có bằng trung học cơ sở, từ 1 đến 2 năm đối với người có
bằng tốt nghiệp trung học phổ thơng, dưới một năm đối với đào tạo nghề trình độ sơ
cấp, từ một đến ba năm đối với đào tạo nghề trung cấp, cao đẳng và thực hiện mục

tiêu: Đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ sơ cấp,
trung cấp hoặc cao đẳng. Người ra trường đạt trình độ sơ cấp có tên gọi cơng nhân
bán lành nghề, đạt trình độ trung cấp với tên gọi kỹ thuật viên (trung cấp) hoặc nhân
viên nghiệp vụ trung cấp. Họ là những người trực tiếp sản xuất - dịch vụ với cương
vị tổ trưởng tổ sản xuất, đội trưởng sản xuất hoặc nhóm trưởng sản xuất - dịch vụ
(trình độ trung học chuyên nghiệp trở lên), tức là họ vừa có nhiệm vụ trực tiếp hành
nghề, vừa có vai trị quản lý, tổ chức trong phạm vi quy định. Đồng thời, có mối
quan hệ với cơng nhân, nhân viên hoạt động nghề trực tiếp với các kỹ sư hoặc lãnh
đạo cấp cao hơn trong đơn vị như: quản đốc phân xưởng, trưởng, phó phịng hoặc
ban sản xuất dịch vụ...
Chính từ những yêu cầu và mục tiêu đào tạo của trường THCN - DN đã đặt
ra nội dung, đặc điểm giáo dục của nó khác biệt so với các loại hình giáo dục khác.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay đã làm nảy sinh nhiều đòi hỏi về ngành nghề, về
năng lực của người kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ. Những nét khác biệt này thể
hiện cho mọi loại hình giáo dục ở cấp trình độ xác định, có nét chung cho mọi quốc
gia và có đặc thù gắn với điều kiện đào tạo của Việt Nam.
Điều 34, Luật Giáo dục sửa đổi năm 2005 của nước ta đã nêu rõ yêu cầu về
nội dung đào tạo, phương pháp giáo dục nghề nghiệp: “Nội dung giáo dục nghề
nghiệp phải tập trung đào tạo năng lực thực hành nghề nghiệp, coi trọng giáo dục
đạo đức, rèn luyện sức khoẻ, rèn luyện kỹ năng theo yêu cầu đào tạo của từng nghề,

13


nâng cao trình độ học vấn theo yêu cầu đào tạo” [42, tr.26]. Chương trình, giáo
trình của giáo dục nghề nghiệp được quy định tại Điều 35 của luật này.
Với yêu cầu trên, có thể hiểu rằng học vấn phổ thông của học sinh sau khi tốt
nghiệp THCN là trung học phổ thông. Đây là nền tảng để họ tiếp thu kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp đảm bảo trình độ trung cấp khi ra hành nghề. Đồng thời, họ có
thể học tiếp liên thông lên cao đẳng, đại học.

Năng lực nghề nghiệp của học sinh THCN - DN sau khi ra trường gồm các
thành tố: kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp và thói quen làm việc tương ứng
với ngành được đào tạo.Trong đó, năng lực tổ chức, quản lý và tác phong hoạt động
nghề nghiệp linh hoạt, sáng tạo trong tập thể lao động được quan tâm hàng đầu.
Nếu như học sinh phổ thông từ Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ
thông rời khỏi mỗi lớp học, cấp học, bậc học sẽ lên tiếp các lớp liền sau hoặc
chuyển lên bậc học sau để hoàn thiện học vấn phổ thông, hoặc bước vào kho tàng
tri thức đồ sộ của nhân loại, khám phá, tìm hiểu một số lĩnh vực chuyên môn sâu,
rộng (vào cao đẳng, đại học), thì học sinh THCN - DN rời khỏi ghế nhà trường sẽ
bước vào đời sống xã hội, hành nghề và sinh sống với tư cách là một công dân thực
thụ của đất nước. Môi trường sống và làm việc của học sinh sau khi tốt nghiệp
trường THCN - DN địi hỏi các em khơng chỉ trưởng thành, vững vàng về mặt kiến
thức, tay nghề được đào tạo để đáp ứng với thực tiễn công việc, mà các em còn phải
thể hiện sự độc lập, sự trưởng thành trong lời nói, cử chỉ, hành vi của mình như một
cơng dân - thành viên trong đời sống xã hội. Do đó, trong thời gian học từ hai đến
ba năm trong trường THCN - DN có sự thay đổi rõ nét về sự phát triển tâm, sinh lý,
quan điểm, lý tưởng sống, nhân cách sống của người học sinh - công dân.
Đặc điểm tâm, sinh lý trên đã trực tiếp chi phối quá trình phát triển nhân cách
của người lao động kỹ thuật và đi theo suốt cuộc đời hành nghề ở môi trường làm
việc trong tương lai. Điều này được thể hiện đậm nét, trở thành dấu ấn sâu đậm
trong q trình hình thành lịng u nghề, động cơ học nghề, đạo đức, lối sống và
tác phong hoạt động trong nghề cũng như trong mọi hoạt động xã hội của các em.

14


Nhận thức sâu sắc đặc điểm về tâm, sinh lý của học sinh trong trường THCN
- DN, từ đó có thể xác định và đưa ra phương pháp tác động, phương pháp giáo dục
cho phù hợp nhằm phát huy cao nhất chất lượng của quá trình đào tạo, giáo dục.
Điều đó, cũng có nghĩa là tạo ra điều kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng giáo dục

nói riêng, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH của đất
nước nói chung. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần phải quan tâm tới xu
hướng gia tăng trí tuệ, sự phát triển nhanh về mọi mặt của thế hệ trẻ (tâm lý, sinh lý,
thể lực, khả năng nhận thức và thích ứng với cái mới,...) cũng như xu thế tăng tốc
về thông tin và sự rộng mở của thị trường lao động khu vực và thế giới.
Trên cơ sở phân tích các nét đặc điểm về nội dung đào tạo, đặc điểm về lao
động nghề nghiệp sau khi rời khỏi trường THCN - DN, cũng như đặc điểm về tâm
lý, sinh lý của các em ta có thể nhận thấy phương pháp giáo dục trong trường
THCN - DN là sự kết hợp song trùng giữa giáo dục phổ thông và giáo dục nghề
nghiệp, sự tích hợp biện chứng giữa dạy lý thuyết và dạy thực hành nhằm hướng tới
hình thành kỹ năng vận dụng lý thuyết vào thực tiễn và phát triển kỹ năng lao động
nghề nghiệp là đặc điểm nổi bật của giáo dục THCN - DN.
Điều 34, Luật Giáo dục sửa đổi 2005 xác định: “Phương pháp giáo dục nghề
nghiệp phải kết hợp rèn luyện kỹ năng thực hành với giảng dạy lý thuyết để giúp
người học có khả năng hành nghề và phát triển nghề nghiệp theo yêu cầu của từng
công việc” [42, tr.26].
Như vậy, giáo dục THCN - DN có các đặc điểm sau:
+ Gắn chặt với yêu cầu về năng lực, phẩm chất nghề nghiệp của thị trường
việc làm thông qua các lĩnh vực, ngành nghề và thuộc các vùng, các địa phương.
Những đòi hỏi cụ thể ấy phải được hệ thống giáo THCN - DN quán triệt để tiến
hành xây dựng mục tiêu, nội dung và phương pháp đào tạo nhằm đạt hiệu quả tối ưu
nhất, cung cấp cho thị trường lao động những “sản phẩm” tốt nhất, đáp ứng đúng,
đủ, kịp thời yêu cầu của người sử dụng và thị trường lao động.

15


+ Một mặt đáp ứng nhanh, nhạy về thời gian đào tạo ở các cấp trình độ khác
nhau theo yêu cầu của thị trường lao động. Mặt khác, vừa phải đảm bảo tính thiết
dụng, vừa phải đảm bảo tiềm năng phát triển trong nghề đào tạo. Đồng thời, tạo cơ

hội lao động và học tập suốt đời của người lao động.
+ Vừa đảm bảo tính liên thơng trong giáo dục và đào tạo, vừa mang tính kế
thừa, tiếp thu kết quả giáo dục của hệ thống giáo dục phổ thông và đảm bảo yêu cầu
của hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Bên cạnh đó, phải đáp ứng được yêu cầu phát
triển tiếp theo của hệ thống giáo dục đại học.
Những đặc điểm trên đây của phân hệ giáo dục này được thực hiện tốt, có
hiệu quả sẽ mang tính hữu dụng rất cao, mở đường phát triển cho người lao động
khi qua hệ thống giáo dục THCN - DN, đồng thời là con đường phát triển rút ngắn
và giảm chi phí cho đào tạo, mang lại lợi ích kinh tế cao cho tồn xã hội nói chung
và cho ngành giáo dục nói riêng.
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta
về giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục THCN - DN nói riêng
- Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về giáo dục và đào tạo.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội lồi người, giáo dục và đào
tạo ln chiếm một vị trí quan trọng. Giữa thế kỷ XIX, học thuyết Mác-Lênin, học
thuyết mang tính khoa học và cách mạng triệt để nhất trong lịch sử tư tưởng nhân
loại ra đời đã vạch ra những quy luật khách quan trong sự vận động, phát triển của
xã hội và sự hình thành nhân cách con người, mở ra nhiều khả năng thực tế cho việc
cải biến xã hội, cải biến thế giới.
Học thuyết Mác-Lênin với ba bộ phận hợp thành: Triết học Mác-Lênin, Kinh
tế chính trị học Mác-Lênin và Chủ nghĩa cộng sản khoa học đã đưa ra những luận
giải về hàng loạt các vấn đề của tự nhiên, xã hội và nhận thức của con người. Song
trùng với những kiến giải hết sức khoa học - thực tiễn ấy, C.Mác - Ph.Ăngghen
cũng luôn quan tâm tới vấn đề giáo dục và đào tạo, chỉ rõ vai trò của giáo dục và

16


đào tạo đối với việc phát triển kinh tế - xã hội và sự phát triển nhân cách của con
người.

C.Mác - Ph.Ăngghen và V.I.Lênin khi thừa nhận vai trò quyết định của nhân
tố kinh tế - xã hội trong việc hình thành con người và nhân cách con người đều
đồng thời khẳng định: con người là chủ thể của lịch sử, là lực lượng tự giác, tích
cực, sáng tạo ra lịch sử. Nghĩa là, con người là sản phẩm của lịch sử, của hồn cảnh
sống, nhưng chính bản thân con người lại làm thay đổi hồn cảnh, thay đổi mơi
trường sống. C.Mác - Ph.Ăngghen cho rằng: Bản thân xã hội tạo ra con người với
tính cách như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế ấy.
Trong Luận cương thứ III về Phoiơbắc, C.Mác viết: “Cái học thuyết duy vật
cho rằng con người là sản phẩm của những hồn cảnh và của giáo dục, rằng do đó
con người đã biến đổi là sản phẩm của những hoàn cảnh khác và của một nền giáo
dục đã thay đổi, cái học thuyết ấy quên rằng chính những con làm thay đổi hoàn
cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục,... Sự phù hợp giữa sự
thay đổi của hoàn cảnh với hoạt động của con người,chỉ có thể được quan niệm và
được hiểu một cách hợp lý khi coi đó là thực tiễn cách mạng” [44, tr.10].
Tư tưởng này cho thấy C.Mác không chỉ ủng hộ triệt để tư tưởng phát triển
toàn diện về nhân cách con người, mà đồng thời còn chứng minh một cách khoa học
tính tất yếu khách quan của nó và ơng cũng chính là một trong những người đầu
tiên nêu lên con đường thực hiện nó trong thực tiễn đời sống xã hội, gắn việc đào
tạo con người, phát triển hài hoà, toàn diện con người với việc xây dựng xã hội mới.
Luận giải các quy luật phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác-Ph.Ăngghen
đã khẳng định rằng, chính sự phân công lao động xã hội đã làm cho con người phát
triển tồn diện, làm nảy sinh việc phân cơng lao động trí óc và lao động chân tay
trong lịch sử xã hội loài người. Khi đưa ra dự báo về bức tranh của nền sản xuất
hiện đại trong tương lai, hai ơng cho rằng nó sẽ phát triển theo hai hướng:
Một là: Sự chun mơn hố ngày càng hẹp trong sản xuất sẽ làm cho tính
phiến diện trong lao động của mỗi con người ngày càng tăng lên;

17



Hai là: Do sự phân hoá hẹp như vậy, người ta sẽ tìm thấy những điểm giống
nhau giữa các lĩnh vực sản xuất hết sức khác nhau. Đó là nguyên tắc khoa học
chung tạo thành những cơ sở của các q trình và thao tác cơng nghệ máy móc thực
hiện. Nếu nắm được cơ sở chung này thì con người có khả năng nhanh chóng nắm
vững kỹ thuật mới.
Trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản” khi trả lời câu
hỏi thứ 20: “Xoá bỏ triệt để chế độ tư hữu thì sẽ đưa lại những kết quả gì?”,
Ph.Ăngghen trả lời: “...Giống như trong thế kỷ trước, người nông dân và người
công nhân công trường thủ công, sau khi được thu hút vào đại công nghiệp, đã thay
đổi toàn bộ lối sống của họ và bản thân họ đã trở thành những con người hoàn toàn
khác hẳn; hiện nay cũng vậy, việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của
toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do việc đó mang lại, sẽ cần đến
những con người hoàn toàn mới và sẽ tạo nên những con người mới đó. Những con
người như hiện nay thì khơng thể tiến hành nền sản xuất mang tính chất xã hội
được”.
Với quan niệm đó, Ph.Ăngghen đã đề xuất một chiến lược giáo dục: “Công
tác giáo dục sẽ làm cho những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững nhanh chóng
tồn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn, làm cho họ có thể lần lượt chuyển từ
ngành sản xuất này sang ngành sản xuất nọ tuỳ theo nhu cầu của xã hội hoặc tuỳ
theo sở thích của bản thân họ. Do đó, cơng tác giáo dục sẽ làm cho họ thốt khỏi
tình trạng một chiều mà sự phân công lao động hiện nay đang buộc mỗi một người
phải theo. Như vậy là một xã hội tổ chức theo nguyên tắc cộng sản chủ nghĩa, sẽ
làm cho những thành viên trong xã hội đó có khả năng sử dụng một cách toàn diện
năng lực phát triển toàn diện của mình” [45, tr.474-475]. Cơng tác giáo dục đó, theo
Ph.Ăngghen sẽ làm cho con người thốt khỏi tình trạng một chiều mà sự phân công
lao động hiện đang buộc mỗi người phải theo, một xã hội tổ chức theo nguyên tắc
cộng sản chủ nghĩa sẽ làm cho những thành viên trong xã hội có khả năng sử dụng
một cách tồn diện năng lực của mình để phát triển một cách hài hoà, toàn diện.

18



Đồng quan điểm với Ph.Ăngghen, C.Mác khẳng định: “Những người cơng dân tiên
tiến nhất cũng hồn tồn nhận thức được rằng tương lai của giai cấp họ, và do đó,
của cả loài người, hoàn toàn tuỳ thuộc vào việc giáo dục thế hệ cơng nhân đang lớn
lên” [46, tr.262].
C.Mác cịn khẳng định: “Nền giáo dục tương lai, nó sẽ kết hợp lao động sản
xuất với trí dục và thể dục đối với tất cả những trẻ em trên một lứa tuổi nào đấy, coi
đó khơng chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội mà còn là
một phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người phát triển toàn diện
nữa” [47, tr.688].
Như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập đến nội dung giáo dục một cách tồn
diện, bao gồm: giáo dục thể lực, trí lực, khoa học kỹ, thuật tổng hợp và giáo dục gắn
liền với lao động sản xuất, tức là nội dung giáo dục bao gồm các mặt: trí, đức, thể
mỹ và giáo dục nghề nghiệp. Đồng thời, đã chứng minh một cách khoa học rằng, sự
phát triển toàn diện, phát triển mọi khả năng tiềm tàng của con người nhờ giáo dục
và đào tạo là yếu tố quyết định sự phát triển xã hội: “Việc kết hợp giữa lao động sản
xuất được trả cơng, giáo dục trí lực, giáo dục thể lực và giáo dục kỹ thuật tổng hợp
sẽ nâng giai cấp công nhân lên cao hơn rất nhiều so với trình độ của giai cấp quý
tộc và tư sản” [46, tr.263].
- Quan điểm của V.I.Lênin về giáo dục và đào tạo
V.I.Lênin đã kế thừa, vận dụng và phát triển những tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen về giáo dục và đào tạo trong thực tiễn cách mạng nước Nga, trong bối
cảnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga vào những thập niên đầu của thế kỷ
XX. Tại Đại hội Tồn Nga về cơng tác giáo dục lần thứ nhất diễn ra vào ngày
28/8/1918, V.I.Lênin đã khẳng định vai trò to lớn của cơng tác giáo dục, coi đó là
một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin nói: “Sự nghiệp của nhà trường chúng ta cũng là đấu
tranh đánh đổ giai cấp tư sản; chúng ta tuyên bố cơng khai rằng: nói nhà trường
đứng ngồi cuộc sống, ngồi chính trị, là nối dối và lừa bịp”; “Những người lao


19


động khao khát có tri thức, vì tri thức cần cho họ để chiến thắng. Chín phần mười
quần chúng lao động đã hiểu rõ rằng tri thức là một vũ khí trong cuộc đấu tranh tự
giải phóng của họ, rằng sở dĩ họ thất bại là do thiếu học thức; rằng giờ đây việc làm
cho mọi người có thể thực sự được học hành, là do bản thân họ quyết định. Sự
nghiệp của chúng ta sẽ thắng vì bản thân quần chúng đã bắt tay xây dựng một nước
Nga mới, xã hội chủ nghĩa” [38, tr.92-93].
Một trong những điều kiện cơ bản, tiên quyết để nâng cao năng suất lao động
là phải nâng cao trình độ học vấn và văn hóa cho quần chúng nhân dân lao động.
Điều này, chỉ có thể thực hiện được và thực hiện đạt hiệu quả tối ưu nhất là thông
qua giáo dục và bằng giáo dục. Nhận thức một cách sâu sắc tầm quan trọng của
công tác giáo dục trong sự nghiệp chấn hưng đất nước nên trong Dự thảo cương
lĩnh của Đảng Cộng sản Nga tháng 2/1919 ở nội dung nói về nền giáo dục quốc
dân, V.I.Lênin viết: “Trong lĩnh vực giáo dục quốc dân, Đảng Cộng sản Nga tự đặt
cho mình nhiệm vụ phải hoàn thành sự nghiệp cách mạng tháng Mười 1917 đã bắt
đầu nhằm biến nhà trường từ một công cụ thống trị giai cấp của giai cấp tư sản
thành một cơng cụ để đập tan nền thống trị đó, cũng như để hồn tồn xố bỏ sự
phân chia xã hội thành giai cấp. Nhà trường phải trở thành một cơng cụ của chun
chính vơ sản, nghĩa là nhà trường không những phải truyền bá những nguyên lý của
chủ nghĩa cộng sản nói chung, mà cịn phải là một cơng cụ truyền bá ảnh hưởng về
tư tưởng, về tổ chức và giáo dục của giai cấp vô sản vào những tầng lớp nửa vô sản
và không phải vô sản trong quần chúng lao động, nhằm hoàn toàn đập tan sự kháng
cự của bọn bóc lột và thực hiện chế độ cộng sản... Kết hợp chặt chẽ công tác giáo
dục với lao động sản xuất” [39, tr.141-142].
V.I.Lênin cho rằng, khi cách cách mạng mới thành cơng, bước đầu củng cố
chính quyền thì nhiệm vụ của cơng tác giáo dục là tun truyền và giáo dục về tư
tưởng, chính trị là chủ yếu. Khi cách mạng bước sang giai đoạn hồ bình, xây dựng

đất nước thì nhiệm vụ của cơng tác giáo dục cũng phải có sự thay đổi theo cho phù
hợp. Sự thay đổi đó thể hiện ở chỗ: cơng tác giáo dục và đào tạo phải luôn gắn liền,

20


×