Tải bản đầy đủ (.pdf) (244 trang)

Phát triển văn hóa đọc cho học sinh trường tiểu học ban mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.23 MB, 244 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

LÊ THỊ THÔNG

NGHIÊN CỨU VĂN BIA HUYỆN SĨC SƠN, HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ HÁN NƠM

Hà Nội – 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

LÊ THỊ THÔNG

NGHIÊN CỨU VĂN BIA HUYỆN SĨC SƠN, HÀ NỘI
CHUN NGÀNH : HÁN NƠM
MÃ SỐ: 60 22 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ HÁN NÔM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thị Thuỳ Vinh

Hà Nội - 2010


MỤC LỤC


MỤC LỤC ..................................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................... 1
3. Đối tượng nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu 3
3.1Đối tượng nghiên cứu .................................................................. 3
3. 2 Phạm vi nghiên cứu................................................................... 3
3.3Phương pháp nghiên cứu ............................................................. 4
4. Đóng góp mới của luận văn .................................................................. 4
5. Bố cục luận văn .................................................................................. 5
6. Quy ước trình bày .............................................................................. 5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 LỊCH SỬ, ĐỊA LÝ, VĂN HỐ TRUYỀN THỐNG HUYỆN
SĨC SƠN……………………………………………………………………. 7
1.1 LỊCH SỬ ĐỊA LÝ ........................................................................... 7
1.1.1Lịch sử địa lý ............................................................................ 7
1.1.2Lịch sử chống ngoại xâm ........................................................... 8
1. 2. Văn hóa truyền thống ..................................................................... 11
1. 2.1 Văn hóa lịch sử ..................................................................... 11
1.2.2 Một số danh nhân tiêu biểu .................................................... 15
1.2.2.1 Khuông Việt đại sư ............................................................. 16
1.2.2.2 Đỗ Nhuận (1446 - ?) ........................................................... 16
1.2.2.3 Nguyễn Tôn Miệt (1441 - ?) ................................................ 16
1.2.2.4 Ngô Chi Lan ........................................................................ 17
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 19
CHƯƠNG 2 ĐẶC ĐIỂM VĂN BIA HUYỆN SÓC SƠN………………...20
2.1 Vài nét về văn bia ............................................................................. 20
2.2 Khảo sát văn bia huyện Sóc Sơn ...................................................... 21
2.2.1 Một số vấn đề về văn bản văn bia huyện Sóc Sơn .................... 21
2.2.2 Sự phân bố văn bia huyện Sóc Sơn.......................................... 23

2.2.2.1 Phân bố theo khơng gian...................................................... 23
2.2.2.2 Sự phân bố theo thời gian ..................................................... 35
2.3 Một số đặc điểm về văn bản ............................................................... 39
2.3.1Tác giả soạn văn bia ................................................................ 40
2.3.3 Đề tài trang trí trên văn bia .................................................... 53
2.3.4 Chữ viết trên văn bia huyện Sóc Sơn qua các triều đại ............ 61
2.3.5 Bố cục bài văn bia.................................................................. 63
2.4 Về hiện trạng bia đá của huyện Sóc Sơn ....................................... 63


Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 66
Chương 3 GIÁ TRỊ NỘI DUNG VĂN BIA HUYỆN SĨC SƠN…………65
3.1 Văn bia huyện Sóc Sơn góp phần nghiên cứu nhân vật lịch sử
truyền thuyết........................................................................................... 67
3.2 Văn bia huyện Sóc Sơn góp phần tìm hiểu phong tục tập quán, tín
ngưỡng địa phương. ............................................................................... 70
3.2.2 Văn bia ghi về việc gửi giỗ .................................................... 75
3.3 Văn bia góp phần tìm hiểu các hoạt động trong làng xã Sóc Sơn 75
3.3.1 Văn bia ghi về việc xây dựng các cơng trình phục vụ tín ngưỡng
của người dân................................................................................. 76
3.3.1.2 Xây dựng sửa chữa đình ....................................................... 79
3.3.1.3 Xây dựng, sửa chữa Đền……………………………………..78
3.3.1.4 Xây dựng trùng tu miếu………………………………...........80
3.3.2 Văn bia ghi về việc hát cửa đình. ............................................ 83
3.3.3 Văn bia huyện Sóc Sơn góp phần tìm hiểu tinh thần giáo dục và
truyền thống hiếu học địa phương. .................................................. 86
3.3.4 Văn bia Sóc Sơn phản ánh về gia phả các dịng họ. ................. 91
3.3.5 Văn bia ghi về việc xây dựng các cơng trình phục vụ đời sống
sản xuất của người dân Sóc Sơn: xây cầu, đào giếng. ..................... 93
3.3.6 Văn bia ghi về các hoạt động sinh hoạt làng xã: tranh chấp đất

đai, kiện tụng, bán đất. ................................................................... 95
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 96
KẾT LUẬN .................................................................................................. 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 98
PHỤ LỤC………………………………………………………………….131
PHỤ LỤC 1: Nguyên văn chữ Hán, phiêm âm, dịch nghĩa một số văn bia
huyện Sóc Sơn……………………………………………………………...132
PHỤ LỤC 2: Một số ảnh chụp văn bia huyện Sóc Sơn……………………224


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sóc Sơn là một huyện thuộc ngoại thành Hà Nội, là vùng đất có bề dầy
lịch sử văn hóa, nơi hội tụ giao thoa giữa hai nền văn hóa: văn hóa Kinh Bắc
và văn hóa Thăng Long. Sóc Sơn là vùng có nhiều di tích lịch sử. Đặc biệt
Sóc Sơn cịn lưu giữ được một số lượng văn bia khá lớn. Văn bia nơi đây
phản ánh rõ nét sự thay đổi về mặt địa lý, lịch sử cùng sự phát triển về đời
sống, văn hóa, sinh hoạt làng xã của người dân. Nghiên cứu giới thiệu về hình
thức văn bản cũng như nội dung của văn bia đang là nhu cầu của xã hội muốn
tìm hiểu về cội nguồn, về làng xã. Bởi bia đá – xét về vật thể hiện hữu, và văn
bia - xét về giá trị văn bản mà bia đá chuyển tải, xuất hiện khắp các làng quê
của cả nước trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. Bia đá bổ sung cho chính sử,
là cứ liệu khá chính xác để tìm hiểu về các làng Việt truyền thống trong quá
trình vận động và phát triển.Từ trước đến nay chưa có cơng trình nào nghiên
cứu về văn bia của huyện Sóc Sơn một cách cụ thể. Ngồi những cơng trình
như các bộ thư mục văn bia, bộ văn khắc Hán Nơm Việt Nam… có tính chất
thơng tin bước đầu, thì chỉ có một số tuyển dịch văn bia của một vài di tích.
Nghiên cứu văn bia dưới góc độ hệ thống các vấn đề được nêu theo địa danh
ở huyện Sóc Sơn hiện đang cịn là địa hạt bỏ ngỏ. Ở hầu hết các làng xã
huyện này đều có bia đá, mỗi bia lại gắn với một di tích cụ thể, với số lượng

bia hiện nay (ở thực địa cũng như thư viện Hán Nơm) có thể nói huyện Sóc
Sơn là một trong những đia danh có nhiều bia. Điều này đã có sức thu hút lớn
đối với những người làm cơng tác nghiên cứu. Vì thế chúng tơi chọn Nghiên
cứu văn bia huyện Sóc Sơn là đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử vấn đề

1


Văn bia có giá trị rất to lớn, vì vậy ngay từ rất sớm nó đã được các nhà
khoa học khai thác và nghiên cứu. Lê Quý Đôn (1725 - 1781) đã lập danh
mục văn bia bia thời Lý - Trần trong cuốn Đại Việt thơng sử. Bùi Huy Bích
(1744 - 1818) đã công bố nhiều bài văn khắc trên bia chng trong tác phẩm
Hồng Việt văn tuyển. Lê Cao Lãng(? - ?) đã chép 82 bài văn bia ở Văn Miếu
để biên soạn thành cuốn Lê triều lịch khoa tiến sĩ đề danh bi kí. Sang đầu thế
kỉ XX, Viện Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội đã tổ chức sưu tầm thác bản
văn khắc Hán Nôm ở hơn 40 tỉnh thành trong phạm vi cả nước. Kết quả đã
thu thập được 11.651 đơn vị văn khắc với 20.980 mặt thác bản. Từ nhưng
năm cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm đã và đang tổ chức tiến hành thu thập các văn khắc Hán Nơm hiện
có ở các địa phương trong cả nước, kết quả khối lượng văn khắc Hán Nôm đã
thu thập được khoảng hơn 30.000 mặt thác bản. Trong thế kỷ XX và những
năm đầu thế kỷ XXI đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về văn bia, đáng chú ý
như luận án Văn biaViệt Nam và giá trị của nó trong nghiên cứu văn học Việt
Nam thời trung đại của TS Trịnh Khắc Mạnh. Luận án Văn bia thời Lê xứ
Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt làng xã của TS. Phạm Thị Thùy Vinh.
Luận án Văn bia thời Mạc và đóng góp của nó trong nghiên cứu lịch sử Việt
Nam thế kỷ XVI của TS. Đinh Khắc Thuân. Luận án Văn bia khuyến học Việt
Nam của TS. Nguyễn Hữu Mùi. Các luận văn: Văn bia đình làng Bắc bộ thế
kỷ XVII của Ths. Trần Thu Hường; Nghiên cứu văn bia chợ của Ths. Đỗ Bích

Tuyển; Nghiên cứu văn bia chữ Nơm của Ths.Nguyễn Thị Hường; Nghiên
cứu văn bia huyện Đơng Sơn, Thanh Hóa của Ths. Ngô Thị Thanh Tâm,
Nghiên cứu bia chùa quận Ba Đình, Hà Nội của Ths. Đồn Trung Hữu, Luận
văn Nghiên cứu văn bia huyện Kiến Thụy, Hải Phòng của Th.s Nguyễn Thị

2


Kim Hoa, Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội của Th.s Phạm Minh
Đức…Ngồi ra cịn rất nhiều bài viết đề cập đến văn bia một cách sâu sắc.
Huyện Sóc Sơn có 274 văn bia văn bản có niên đại sớm nhất là năm Hồng
Phúc 1 (1572), muộn nhất vào năm Bảo Đại thứ 14 (1939). Số lượng bia
huyện Sóc Sơn khá lớn và có giá trị, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một
cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ về số lượng văn bia này.
Viết về văn bia huyện Sóc Sơn, cho đến nay đáng kể nhất phải kể đến cuốn
sách Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt làng xã của TS.
Phạm Thùy Vinh, trong đó huyện Sóc Sơn được đề cập đến là huyện Kim
Hoa thời Lê.
3. Đối tượng nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, hệ thống tất cả những thác bản văn bia trên địa bàn
huyện Sóc Sơn gồm 274 văn bia trên địa bàn 25 xã.
3. 2 Phạm vi nghiên cứu
Sóc Sơn là huyện có bề dầy lịch sử, văn hóa, trải qua những bước biến đổi
thăng trầm của lịch sử, huyện Sóc Sơn cũng có những thay đổi về mặt địa lý
hành chính. Văn bia huyện Sóc Sơn là di sản vô giá, văn bia chủ yếu tồn tại
dưới hai hình thức: hiện vật bia đá và thác bản văn bia. Văn bia nơi đây mang
nhiều giá trị, đặc trưng tiêu biểu của vùng đất thuộc xứ Kinh Bắc xưa. Văn
bia phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội: đời sống sinh hoạt, phong tục,
tập quán tín ngưỡng...Do thời gian có hạn nên trong luận văn này chúng tơi

chủ yếu tập trung khảo sát văn bia dưới dạng thác bản. Phạm vi nghiên cứu
của luận văn gồm 3 vấn đề:
- Tìm hiểu lịch sử địa lý và văn hóa huyện Sóc Sơn
- Khảo sát, nghiên cứu đặc điểm văn bia huyện Sóc Sơn

3


- Tìm hiểu nội dung văn bia của huyện Sóc Sơn
3.3 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp là vấn đề hết sức quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Để
hoàn thành luận văn, chúng tơi có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
3.3.1 Phương pháp văn bản học
Thông qua mơ tả văn bản về các mặt như kích cỡ bia, độ dài bài văn
bia, đặc điểm trang trí trên bia, đặc điểm chữ viết...chúng tôi đưa ra những
nhận định về đặc điểm văn bia của huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
3.3.2 Phương pháp thống kê định lượng
Tiến hành thống kê định lượng đối với 274 thác bản bia của huyện Sóc
Sơn theo các tiêu chí: Sự phân bố theo khơng gian, thời gian, tác giả biên
soạn, chữ viết....Thông qua các kết quả đó, chúng tơi đưa ra những nhận xét,
đánh giá tổng quát về đặc điểm phân bố văn bia nơi đây. Song song với thống
kê định lượng chúng tôi còn sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử.
3.3.3 Phương pháp tổng hợp
Chúng tôi dựa vào phương pháp này để đưa ra nhận định tổng quát về
những giá trị của văn huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
Ngồi ra chúng tơi tiến hành phương pháp điền dã để khảo sát thực về
văn bia huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Chúng tơi cũng sử dụng các biểu đồ, sơ đồ,
đồ thị nhằm biểu thị những nét khái quát của vấn đề.
4. Đóng góp mới của luận văn
- Khảo sát, thống kê toàn bộ số lượng thác bản văn bia của huyện Sóc Sơn,

Hà Nội hiện đang được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (274 thác bản
văn bia).
- Lần đầu tiên văn bia huyện Sóc Sơn, Hà Nội được nghiên cứu có hệ
thống về cả nội dung và hình thức. Hơn nữa đề tài đưa ra những thống kê, so

4


sánh đối chiếu mang tính tổng hợp, khái quát cao nhất về văn bia huyện Sóc
Sơn, Hà Nội từ trước đến nay.
- Chúng tôi cố gắng đưa ra những nhận xét đánh giá chung nhất, khách quan
nhất cùng những ưu điểm nổi bật về những giá trị về văn hóa, lịch sử, phong
tục tập quán của vùng đất này thông qua những văn bia nơi đây; góp phần làm
cơ sở cho các ngành nghiên cứu về vùng đất này.
- Đưa ra danh mục văn bia huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
- Phần phụ lục dịch một số tấm bia tiêu biểu, có nguyên văn chữ Hán, phiên âm,
dịch nghĩa.
5. Bố cục luận văn
- Luận văn gồm có 4 phần: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và
phần phụ lục.
- Phần nội dung được chia ra 3 chương:
+ Chương 1: Giới thiệu lịch sử địa lý, văn hóa truyền thống của huyện Gia
Lâm, Hà Nội.
+ Chương 2: Đặc điểm văn bia huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
+ Chương 3: Tìm hiểu giá trị nội dung văn bia huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
- Phần phụ lục bao gồm:
+ Nguyên văn một số bài văn bia của huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
+ Phiên âm, dịch nghĩa giới thiệu một số văn bia tiêu biểu.
6. Quy ước trình bày
- Các tài liệu trích dẫn để trong ngoặc vuông và đánh số theo thứ tự trong

danh mục Tài liệu tham khảo cùng số trang của tài liệu được trích dẫn. Ví dụ:
Đại Việt sử kí tồn thư [159, tr.133]. Các văn bia cũng có số thứ tự từ 1 đến
274 cũng đồng thời là những số thứ tự đầu của chúng tôi trong phần tài liệu
tham khảo. Ví dụ [1] tức là bia số 1, [2] là bia số 2...

5


- Những chữ trên văn bia bị mờ trong phần phụ lục cúng tôi thống nhất để
trong ngoặc [.].

6


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1

LỊCH SỬ ĐỊA LÝ, VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
HUYỆN SÓC SƠN
1.1 LỊCH SỬ ĐỊA LÝ

1.1.1 Lịch sử địa lý
Huyện Sóc Sơn hiện nay là một huyện ngoại thành của thủ đơ Hà Nội.
Huyện Sóc Sơn ngun là đất của hai huyện Đa Phúc và Kim Anh thuộc tỉnh
Vĩnh Phúc hợp nhất và lấy tên mới là huyện Sóc Sơn từ tháng 10 năm 1977.
Là vùng đất có lịch sử lâu đời trải qua hàng ngàn năm kiến tạo, cả hai huyện
Kim Anh – Đa Phúc đã nhiều lần thay đổi về tên gọi, địa giới hành chính,
thay đổi về châu tỉnh trực thuộc.
Huyện Đa Phúc thời Trần gọi là Tân Phúc, thời thuộc Minh vẫn gọi là Tân
Phúc, thuộc châu Bắc Giang. Đời Lê Hoằng Định (1600 - 1619) đổi là Thiên

Phúc rồi lại đổi là Tiên Phúc thuộc phủ Bắc Hà xứ Kinh Bắc. Đầu đời Nguyễn
đổi là Đa Phúc thuộc phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc. Năm 1822 thuộc trấn Bắc
Ninh, năm 1831 thuộc tỉnh Bắc Ninh, năm 1901 thuộc tỉnh Phúc Yên.
Huyện Kim Anh đổi thành Đại Hành, nằm trong trấn Cổ Pháp, đời Lý nằm
trong phủ Thiên Đức, đời Trần nằm trong huyện Đông Ngàn thuộc châu Vũ
Ninh, lộ Bắc Giang. Đời hậu Lê vẫn là một phần của huyện Đông Ngàn thuộc
phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc. Từ thời Lê Quang Thuận (Lê Thánh Tông 1461 –
1469) Kim Anh được gọi là huyện Kim Hoa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc.
Năm 1841 đổi tên huyện Kim Hoa thành huyện Kim Anh thuộc tỉnh Bắc
Ninh. Năm 1901 thuộc tỉnh Phù Lỗ, sau là tỉnh Phúc Yên (1).

1

Lịch sử cách mạng huyện Sóc Sơn (1930-1945),1991, tr.9-10

7


Huyện Sóc Sơn được thành lập theo Quyết định số 178 CP ngày 5 – 7
1977 của Hội đồng Chính phủ, trên cơ sở hợp nhất huyện Đa Phúc, huyện
Kim Anh và thị trấn Xuân Hoà của tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngày 29 – 12 – 1978 , Nghị quyết của Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ tư cắt
chuyển 18 xã và thị trấn Phúc Yên về huyện Mê Linh, Sóc Sơn còn 30 xã và
được nhập về thành phố Hà Nội.
Ngày 17 – 2 – 1979, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 49 CP cắt 4 xã
(NamViêm, Ngọc Thanh, Phúc Thắng, Cao Minh) và thị trấn Xuân Hoà về
huyện Mê Linh. Sóc Sơn cịn lại 25 xã. Đến ngày 2 – 3 - 1987, thị trấn Sóc
Sơn được thành lập theo Quyết định số 45 HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
Huyện Sóc Sơn hiện nay là vùng đất nằm ở phía Bắc thủ đơ Hà Nội, cách
trung tâm thành phố 35 km, với diện tích đất tự nhiên 306,51 km2 được giới

hạn như sau: Phía bắc giáp Thái Ngun với ranh giới tự nhiên là sơng Cầu,
có cầu Đa Phúc bắc ngang. Phía nam giáp với huyện Đơng Anh, ranh giới tự
nhiên là sơng Cà Lồ, có cầu Phù Lỗ bắc qua. Phía đơng giáp với hai tỉnh Bắc
Ninh và Bắc Giang, ranh giới tự nhiên là sông Cầu, sơng Cà Lồ, sơng Như
Nguyệt. Phía tây giáp huyện Mê Linh và thị xã Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc.
Huyện Sóc Sơn hiện nay có 26 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 1 thị trấn và
25 xã: Bắc Phú, Đơng Xn, Đức Hồ, Hiền Ninh, Kim Lũ, Phù Linh, Phù
Lỗ, Phú Cường, Phú Minh, Tân Hưng, Tân Minh, Tiên Dược, Trung Dã, Bắc
Sơn, Việt Long, Xuân Giang, Xuân Thu, Minh Trí, Nam Sơn, Mai Đình,
Quang Tiến, Hồng Kì, Thanh Xuân, Tân Dân.
1.1.2 Lịch sử chống ngoại xâm
Sóc Sơn là huyện có bề dày lịch sử và truyền thống văn hố. Nơi đây
có huyền thoại Thánh Gióng - một trong “Tứ bất tử” của thần điện Việt. Theo
truyền thuyết thời vua Hùng thứ 6, giặc Ân đem quân xâm lược nước ta. Đi
đến đâu chúng cũng cướp bóc của cải, tàn phá nhà cửa xóm làng, hãm hiếp

8


đánh giết người hết sức dã man. Vua Hùng phải hạ Chiếu chỉ đi khắp nơi để
cầu người tài giỏi ra đánh giặc cứu nước. Thời gian này ở làng Phù Đổng huyện Gia Lâm đã xuất hiện một tướng tài mà người xưa tơn là Thánh Gióng,
xin nhà vua đi đánh giặc Ân. Thánh Gióng tập hợp lực lượng rất giỏi, sau một
thời gian ngắn đã có một đội qn đơng, huấn luyện giỏi và rất mạnh. Thánh
Gióng đánh đến đâu, giặc Ân tan đến đó. Cuối cùng Thánh Gióng đã dồn giặc
Ân đến vùng Đa Phúc (huyện Sóc Sơn hiện nay). Một trận chiến đấu hết sức
ác liệt và quyết định đã diễn ra ở đây. Giặc chết như rạ, thua bỏ chạy tán
loạn. Những tên còn sống sót sợ khiếp đảm phải rút về nước. Vùng đất Phù
Linh có núi Sóc, nơi Thánh Gióng cởi áo giáp sắt treo lên cây trầm hương, từ
biệt vua Hùng, mẹ già, quê hương đất nước, cả người và ngựa bay về trời. Ghi
dấu công đức của người anh hùng cứu nước, nhà vua đã phong cho ông là Phù

Đổng Thiên Vương. Nhân dân Sóc Sơn đã lập đền thờ ơng ở núi Sóc và hàng
trăm địa danh khác trong huyện – nơi ghi dấu chân của người anh hùng làng
Gióng.
Năm 1076, dưới thời vua Lý Nhân Tơng trị vì đất nước, 30 vạn quân
Tống do chánh tướng Quách Quỳ và phó tướng Triệu Tiết chỉ huy đã ồ ạt
vượt biên giới tiến vào nước ta. Vùng đất Sóc Sơn – Mê Linh ngày nay là nơi
có phịng tuyến sơng Như Nguỵêt đã chứng kiến tài trí thao lược thuỷ bộ quân
của quân ta do Lý Thường Kiệt chỉ huy đánh bại cuộc tấn công của 30 vạn
quân Tống.
Dưới thời Trần Thái Tông ngày 12 tháng 12 năm 1257, tướng nhà
Nguyên là Ngột Lương Hợp Đài đem quân sang xâm lược nước ta; quân
Nguyên tiến vào nước ta theo hai đường, hội nhau ở Việt Trì và Bạch Hạc.
Quân ta giữ phịng tuyến phía nam sơng. Trước thế của giặc cịn mạnh quân ta
rút về phía nam lập trận tuyến chống giặc trên sông Cà Lồ, Phù Lỗ, dưới sự

9


chỉ huy trực tiếp của Vũ Trần Thái. Tại đây ngày 17 tháng 1 năm 1258 đã
diễn ra trận đánh quyết liệt của quân ta chống quân Nguyên Mông, bảo vệ
Thăng Long. Sau một trận chiến đấu ác liệt, quân ta theo mưu kế của tướng
Lê Tân (tức Lê Phúc Tân) đã rút lui về Phù Lỗ, vừa đánh vừa bảo vệ vua
Trần Thái Tông. Quân ta đã phá cầu Phù Lỗ và lập phịng tuyến mới ở bờ
nam sơng Cà Lồ để tiếp tục kìm hãm quân địch. Ở nước ta được 9 ngày, quân
Nguyên bị quân ta chống trả quyết liệt, lại khơng chịu được khí hậu ở đây,
nên đã phải rút về nước.
Thời kỳ thực dân Pháp bắt đầu sang xâm lược nước ta, cùng với các
trận chiến đấu của ơng cha ta dọc sơng Hồng, phía bắc Lập Thạch, vùng núi
Tam Đảo… mặt trận vùng Kim Anh – Đa Phúc cũng được mở rộng. Khi thực
dân Pháp đem quân ra đánh Bắc Kỳ lần thứ ba, trên đất Sóc Sơn, ngày 27 – 4

– 1884, nghĩa quân của Đốc Kết với 200 nghĩa sỹ dũng cảm tập kích vào đội
quân thám thính của giặc Pháp do tên thiếu úy Grivet chỉ huy, đóng ở đồn Đa
Phúc, tiêu diệt hàng trăm tên giặc thu nhiều vũ khí.
Sau đó dưới ngọn cờ Cần Vương, cịn có các cuộc kháng chiến chống
Pháp do các Thổ hào chỉ huy như các ơng: Trần Bốn, Đốc Huỳnh, Đốc Khốt,
Lãnh Giang…liên tiếp nổ ra khắp vùng Kim Anh, Đa Phúc.
Sang đầu thế kỷ thứ 20, qua hàng chục năm rịng, có những trận chiến
đấu quyết liệt của nghĩa quân Đề Thám diễn ra ở một số nơi thuộc huyện như:
Thắng Trí, Xuân Lai, Dược Thượng, chống bọn thực dân xâm lược Pháp.
Vào ngày 18 tháng 12 năm 1972 trên cánh đồng Chuôm của xã Phù Lỗ,
huyện Sóc Sơn, tiểu đồn 59, trung đồn 261 bộ đội tên lửa bảo vệ thủ đơ đã
bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay B52G của đế quốc Mỹ khi chúng xâm phạm
bầu trời Hà Nội. Tiêu diệt 4 giặc lái, bắt sống 2 tên, chiến công xuất sắc này
đã mở đầu cho chiến thắng Điện Biên Phủ trên không của quân dân Hà Nội

10


đánh bại cuộc tập kích đường khơng bằng B52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội
trong 12 ngày đêm cuối tháng 12 – 1972.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
Mỹ, nhân dân Sóc Sơn vừa trực tiếp, vừa gián tiếp góp sức người, sức của cho
Tổ quốc, góp phần làm nên bao chiến cơng oanh liệt. Chính vì vậy huyện Kim
Anh cũ, một phần của huyện Sóc Sơn ngày nay, huyện Sóc Sơn và 17 xã
trong huyện đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân.
1. 2. Văn hóa truyền thống
1. 2.1 Văn hóa lịch sử

Sóc Sơn là vùng đất văn hiến ghi dấu ấn của ơng cha từ thời xa xưa cịn rải

rác khắp huyện. Nơi đây có nhiều đình chùa, đền thờ trong huyện thờ các vị
thần thời vua Hùng, chứng tỏ mảnh đất này có lịch sử rất lâu đời, tồn tại hàng
ngàn năm. Sóc Sơn là mảnh đất cịn lưu dấu nhiều di tích lịch sử liên quan
đến buổi đầu dựng nước và giữ nước của dân tộc. Huyện Sóc Sơn có hệ thống
di tích liên quan đến Phù Đổng Thiên Vương và Tản Viên Sơn Thánh, với số
lượng di tích lịch sử văn hoá và một kho tàng văn hoá phi vật thể rất phong
phú, đa dạng, tiêu biểu cho một diện mạo văn hoá truyền thống và mang đậm
bản sắc văn hoá Thăng Long – Hà Nội ngàn năm văn hiến.
Sóc Sơn là nơi có nhiều di tích được mọi người biết đến như: Khu di tích
đền Sóc thờ Đức Thánh Gióng. Khu di tích bao gồm nhiều cơng trình kiến
trúc có liên quan mật thiết với nhau là đền Thượng, đền Hạ, đền Mẫu, nhà
Bia, chùa Đại Bi… mà trung tâm là dãy núi Sóc (Vệ Linh) – nơi ơng cởi áo
giáp sắt hố thân bay về trời. Đền Thượng được coi là tâm điểm quan trọng
nhất của khu di tích, được tạo dựng từ rất sớm, đến thế kỷ X, thời vua Lê Đại
Hành (980 - 1005) thì trùng tu. Đền Hạ được dựng vào thời Lê Đại Hành và

11


được tu bổ nhiều lần. Trong khu di tích cịn có đền Mẫu, chùa Đại Bi…Chùa
Đại Bi được dựng vào thế kỷ X, do Khuông Việt Ngô Chân Lưu trụ trì. Đặc
biệt, khu di tích ở trên núi Sóc Sơn đang xây dựng tượng đài Thánh Gióng.
Lễ hội chính của đền Sóc vào ngày mồng 6 tháng Giêng âm lịch - một lễ
hội lớn liên quan đến ba tỉnh: Thái Nguyên, Hà Nội, Vĩnh Phúc thu hút hàng
vạn người tham gia. Khu di tích đền Sóc ngồi giá trị lịch sử, văn hố cịn một
giá trị đặc biệt hiếm so với các di tích ở Hà Nội đó là cảnh quan mơi trường
kề núi, giáp rừng. Khu di tích nằm ở thung lũng chân núi Sóc, dãy núi Mã
cạnh rừng, có hồ nước với phong cảnh hùng vĩ, khơng khí trong lành, mát mẻ.
Nhờ cảnh quan và thiên nhiên môi trường, khách đến tham quan di tích khơng
chỉ cúng lễ, mà còn được thưởng ngoạn cảnh quan và thư giãn với khơng khí

trong lành. Tượng đài Thánh Gióng, chùa Non và Học viện Phật giáo - thuộc
quần thể Khu di tích Sóc Sơn, tạo cho nơi đây thành khu du lịch văn hoá, tâm
linh và sinh thái hấp dẫn ở phía bắc Thủ đơ.
Đền Thuỵ Hương, đền Hương Gia xã Phú Cường, đền Cả xã Đơng Xn,
đình Thạch Lỗi xã Thanh Xuân, đình Hạ Xuân Lai xã Xuân Thu, đình thơn
Trung xã Hồi Đức, đình Phú Tàng xã Bắc Phú thờ đức Thánh Tam Giang tức
Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng. (Anh em nhà Trương Hống đều là
những tướng tài giỏi, đã tham gia cuộc kháng chiến chống giặc Lương dưới
sự lãnh đạo của Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương) năm 549 – 571. Triệu
Việt Vương đã phong Trương Hống là thượng tướng quân, Trương Hát là tả
tướng quân, Trương Lừng là Hữu qn. Khi mất, các ơng được phịng làm
Thánh Tam Giang và được thờ ở nhiều nơi);
Đền Thuỵ Hương lưu giữ được 21 đạo sắc phong, trong đó đạo sắc phong
có niên đại sớm nhất là năm Phúc Thái thứ 5 (Lê Chân Tơng)(1647). Đền
Hương Giang cịn lưu giữ được 15 đạo sắc phong, sắc phong có niên đại sớm

12


nhất là năm Cảnh Hưng 1(1740). Ở hai ngôi đền này còn bảo lưu nhiều mảng
chạm khắc, di vật mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII, XVIII. Đền Cả
hiện còn lưu giữ được nhiều di vật quý như: ngai thờ, nhang án, giá văn, kiệu
rước, đặc biệt là 5 đạo sắc phong có niên đại trải dài từ niên hiệu Cảnh Hưng
thứ 44 (1783) đến niên hiệu Khải Định 9 (1924) và hai tấm bia hậu thần niên
hiệu Tự Đức (1852).
Đình Thạch Lỗi hiện nay cịn bảo lưu được một số đồ tế khí như long ngai
bài vị thế kỷ XIX –XX, bài vị thờ Thánh Tam Giang và bộ kiệu bát cống nghệ
thuật thế kỷ XIX – XX. Đình Hạ Xn Lai cịn lưu giữ nhiều di vật quý như:
kiệu rước, nhang án, bát bửu, long ngai được chạm khắc tỷ mỷ, sơn son thếp
vàng lộng lẫy. Đặc biệt trong đền còn lưu giữ cuốn thần phả và 8 đạo sắc

phong của các triều vua ban, cùng những tấm bia đá, hoành phi câu đối. Hàng
năm vào ngày sinh của Thần mùng 5 Giêng và ngày hoá mùng 10 tháng Tư là
các kỳ tế lễ lớn. Trong ngày hội đình Hạ Xn Lai cịn lưu giữ được tục đua
thuyền trên sông Cà Lồ để tưởng nhớ lại công tích của đức Thánh Tam Giang.
Đình thơn Trung cịn lưu giữ bộ sưu tập di vật khá đa dạng về chủng loại
gồm: hai cỗ ngai thờ, một cỗ kiệu bát cống, hương án, được chạm khắc công
phu đề tài tứ linh phong cách nghệ thuật thời Nguyễn, một tấm bia hậu thần
thời Nguyễn. Lễ hội đình thơn Trung được tổ chức vào ngày mùng 6 tháng 9
âm lịch hàng năm. Đình Phú Tàng trải qua thời gian với những biến cố
thăng trâm của lịch sử đã làm cho kiến trúc di tích bị hư hỏng, một số di
vật bị thất lạc. Tuy nhiên, đình Phú Tàng hiện nay vẫn cịn lưu giữ được
nhiều di vật như: 13 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến phong
cho các thần hoàng làng, 1 cuốn thần tích, bức cửa võng sơn son thếp
vàng, 1 ngai thờ kép dạng khám trang trí rồng chầu mặt nguyệt, sơn son
thếp vàng nghệ thuật thế kỷ XIX.

13


Trong các di tích lịch sử văn hố cịn bảo lưu được nhiều di vật quý có giá
trị lớn, như: 30 pho tượng tròn mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII ở
chùa Thuỵ Hương xã Phú Cường, chùa Đại Bi xã Xuân Thu có gạch thời Lê
thế kỷ XVI – XVII, một cột hương đá 4 mặt khắc chữ có niên đại Vĩnh Thịnh
13(1717). Đặc biệt là nhưng phát hiện khảo cổ học ở Sóc Sơn như: di tích
gốm – sành - sứ thơn Đồi, xã Phù Lỗ; vết tích gốm – sành - sứ ở Hương Gia
xã Phú Cường; vết tích gốm - sành - sứ ở Thắng Trí xã Minh Trí, theo giám
định cho biết những mảnh gốm – sành - sứ phát hiện được chúng có niên đại
thế kỷ XIII – XIV, mà phổ biến là thế kỷ XVII – XVIII.
Di tích Cự Thạch tại Hà Nội lần đầu tiên được phát hiện ở xã Minh Trí
huỵên Sóc Sơn. Lần đầu tiên phát hiện hai di tích Cự Thạch loại hình Trách

Thạch (dolmen) ở thơn Thái Lai và thơn Minh Tân, xã Minh Trí, dọc theo
suối Đồng Đị. Trách 1 (thơn Thái Lai) nằm gần gị Đồi Bông, toạ độ 21 độ
17’679’’ vĩ độ Bắc và 105 độ 47’543’’ kinh độ Đông. Trách thạch 2 (thôn
Minh Tân) hiện còn nằm trong long đập nước Đồng Đò, toạ độ 21 độ
18’501’’ vĩ độ Bắc và 105 độ 46’159’’ kinh độ Đơng. Nhưng di tích cự thạch
ở Sóc Sơn khơng nằm ngồi hệ thống Cự thạch miền Bắc Việt Nam. Những
di tích này có niên đại chủ yếu thuộc giai đoạn khảo cổ học lịch sử và những
chức năng của chúng liên quan chặt chẽ tới cấu trúc xã hội theo kiểu theo kiểu
thủ lĩnh khu vực. Cự thạch ở Sóc Sơn có lẽ có nhiều chức năng từ tâm linh
đến biểu tượng quyền lực.
Sóc Sơn là vùng đất lâu đời, ở đây còn lưu giữ được rất nhiều những lễ hội
truyền thống mang đậm đà bản sắc dân tộc. Trên địa bàn huyện Sóc Sơn hiện
nay có 87 lễ hội được tổ chức hàng năm, trong đó có những lễ hội được tổ
chức ở những di tích nổi tiếng như khu di tích đền Sóc, đình, đền Hoàng
Tổng. Ở xã Xuân Thu mở hội thi kéo co, đua thuyền nổi tiếng trong vùng,

14


ngồi ra những sinh hoạt văn hóa như: hát quan họ, hát trống qn, cị lả, hát
ví, múa lân, kéo co...là những hoạt động của quần chúng làng xã.
Sóc Sơn là cửa ngõ của thủ đô Hà Nội đi Tây Bắc - Việt Bắc, nơi có nhiều
đường giao thơng huyết mạch chạy qua, đường quốc lộ 2, đường quốc lộ 3,
đường quốc lộ 18, đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai, đường Hà Nội – Sân bay
Nội Bài, đường vành đai 4, đường quốc lộ liên tỉnh 16, 35. Đường thuỷ là
sơng Cầu đi ra biển Hải Phịng. Đặc biệt, huyện Sóc Sơn có sân bay quốc tế
Nội Bài và tuyến đường sắt Hà Nội – Thái Nguyên chạy qua, các nhà ga bến
xe, bến bãi kho tàng, hệ thống thông tin vô tuyến, hữu tuyến… ngày một phát
triển tạo thuận lợi cho việc giao dịch trong và ngoài nước. Là huyện thuộc
miền đất trung du, địa hình đa dạng, phong phú về tài nguyên, nền sản xuất

chủ yếu là nông nghiệp. Về nghề nông cùng với việc trồng lúa nước, nhân dân
cịn trồng mầu (ngơ, khoai, sắn), trồng cây thực phẩm (lạc, vừng, rau đậu …)
và một số cây công nghiệp (chè, cà phê, thuốc lá …), cây ăn quả, chăn nuôi
gia súc, gia cầm ngày một phát triển phong phú. Sóc Sơn cũng có những vùng
lúa gạo, rau ngon có tiếng, có nghề thủ cơng truyền thống mà nhân dân quanh
vùng đều biết đến qua câu ca dao:
“Gạo Cốc, rau Ngơ ngon có tiếng (1)
Giường tre Thu Thuỷ đệm rung rinh”(2)
Sóc Sơn có nhiều phong cảnh đẹp, nhiều di tích, danh thắng làm hài lịng
du khách thập phương. Sóc Sơn tự hào có những cơng trình kỳ vĩ, đó là khu di
tích đền Sóc với tượng đài Thánh Gióng cao 11,07m, với độ vươn ra là 16m
được đúc bằng đồng nặng 85 tấn. Cơng trình tượng đài Thánh được hoàn
thành vào Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
1.2.2 Một số danh nhân tiêu biểu

2

1.Cốc: là thôn Cốc Lương, Ngô: là thôn Ngô Đạo ( xã Tân Hưng ngày nay)
2. Thu Thủy: thuộcc xã Xuân Thuỷ nay

15


1.2.2.1 Khuông Việt đại sư
Pháp hiệu của Ngô Chân Lưu (933 - 1011), người làng Cát Lợi, huyện
Thường Lạc (nay là xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn). Ngơ Chân Lưu theo học
Nho, sau học đạo Phật và trụ trì ở chùa Khai Quốc. Ơng nổi tiếng tinh thơng
Thiền học, khắp nơi trong cả nước đều biết tiếng. Vua Đinh Tiên Hồng (970
- 979) phong ơng làm Tăng Thống và ban pháp hiệu Khuông Việt đại sư. Đời
vua Lê Đại Hành (980 - 1005), ông vẫn giữ chức như thời vua Đinh và được

tham dự vào những việc quan trọng của triều đình. Năm 986, Vua Lê Đại
Hành cử ơng và sư Pháp Thuận ra giao thiệp với sứ giả nhà Tống là Lý Giác.
Khi công việc kết thúc và sứ giả về nước, ơng có sang tác khúc ca Vương
lang quy rất hay để tặng.
Tác phẩm: Có bài Vương lang quy王 郎 歸 , Thuỷ chung始 終 , Nguyên
hoả 元 火 trong Thiền uyển tập anh 禪 苑 集 英 và Đại Việt sử ký toàn thư
大越史記全書…
1.2.2.2 Đỗ Nhuận (1446 - ?)
Người xã Kim Hoa huyện Kim Hoa (nay thuộc huyện Sóc Sơn), 21 tuổi đỗ
Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất niên hiệu Quang Thuận 7
(1466) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Thượng thư, Đơng các đại
học sĩ, được vời vào hồng cung dạy học cho vương tử. Lê Thánh Tông
phong cho ông làm Tao Đàn phó ngun sối, mời dự các buổi bình thơ của
vua. Sáng tác có các bài thơ họa thơ Lê Thánh Tông (Anh hoa hiếu trị, Quỳnh
uyển cửu ca), được tuyển trong Toàn Việt thi lục và là đồng biên soạn sách
Thiên Nam dư hạ tập 天 南 與 下 集 .
1.2.2.3

Nguyễn Tôn Miệt (1441 - ?)

16


Người làng Xuân Hy huyện Kim Hoa (nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội),
41 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu niên hiệu Hồng
Đức 12 (1481) đời Lê Thánh Tơng. Ơng là thành viên hội Tao đàn. Làm quan
đến chức Hàn lâm viện Thị thư. Tác phẩm hiện còn 8 bài thơ chữ Hán chép
trong Tồn Việt thi lục 全 越 詩 籙 .
1.2.2.4


Ngơ Chi Lan

Ngơ Chi Lan (吳芝蘭), cịn có tên là Nguyễn Hạ Huệ, tự là Quỳnh Hương,
không rõ năm sinh năm mất, là một nữ sĩ dưới triều vua Lê Thánh Tông. Ngô
Chi Lan, người làng Phù Lỗ (tục gọi làng Sọ), huyện Kim Hoa, trấn Kinh
Bắc(nay thuộc Sóc Sơn), bà nổi tiếng đẹp người, đẹp nết, giỏi thi ca, thông
hiểu âm nhạc và viết chữ đẹp. Chính vì vậy, mà bà đã được vua Lê Thánh
Tông ban hiệu là Kim Hoa nữ học sĩ, là Phù Gia nữ học sĩ; cho dự nhiều cuộc
xướng hoạ thơ văn, và cho bà đảm đương việc dạy lễ nghi và văn chương cho
các cung nhân. Chồng bà là Phù Thúc Hoành (?-?), người làng Phù Xá, tuy
không đỗ đạt, nhưng nhờ tài văn chương, ông được cử làm giáo thụ chuyên
giảng Kinh Dịch ở trường Quốc Tử Giám, sau chuyển sang Viện Hàn lâm, thụ
chức Đơng các Đại học sĩ. Hiện ơng cịn hai bài thơ chữ Hán được chép trong
Trích diễm thi tập của danh sĩ Hồng Đức Lương. Nữ sĩ Ngơ Chi Lan mất
năm nào khơng rõ. Để tỏ lịng tiếc thương và ngưỡng mộ bà, nhân dân xã Phù
Lỗ đã dựng đền thờ với tên đề “Kim Hoa nữ học sĩ”.
Tác phẩm:
- Mai trang tập 梅 莊 集 (thất truyền).
- Hiện thơ bà chỉ còn lại trên dưới mười bài in rải rác trong các sách
Truyền kỳ mạn lục, Lĩnh Nam chích quái, Kiến văn tiểu lục ….
Như vậy, huyện Sóc Sơn ngày nay từng là mảnh đất sản sinh ra nhiều văn
nhân đỗ đạt cao, có những đóng góp cụ thể cho xã hội, và đặc biệt có tới hai
người tham gia trong hội thơ Tao Đàn nhị thập bát tú do vua Lê Thánh Tông

17


làm chủ sối. Đây là một hình thức sinh hoạt văn học tiêu biểu của quốc gia
Đại Việt trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 15.


18


TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Chương 1 chúng tôi giới thiệu những nét chính về đặc điểm địa lý, lịch
sử, văn hóa truyền thống tiêu biểu của huyện. Chúng tôi cố gắng làm nổi bật
nên những giá trị về văn hóa, lịch sử của vùng đất thuộc xứ Kinh Bắc xưa
nay thuộc Thăng Long – Hà Nội. Giới thiệu những danh nhân đỗ đạt cùng
những địa danh di tích nổi tiếng để thấy được vai trò, tầm quan trọng trong
việc nghiên cứu văn bia nơi đây.
Từ cái nhìn tổng quát, chúng ta thấy một số đặc điểm về huyện Sóc Sơn:
Về địa lý tự nhiên: Sóc Sơn nằm ở vùng trung du, địa hình đa dạng,
phong phú có lợi thế phát triển nơng nghiệp. Có sơng Cà Lồ, sơng Cầu chảy qua.
Về địa lý hành chính: Huyện Sóc Sơn gồm có 25 xã và 1 Thị trấn, dân
số khá đông đúc.
Về lịch sử: Sóc Sơn là vùng đất giầu truyền thống chống ngoại xâm.
Nơi đây có nhiều anh hùng dân tộc, lập lên nhiều chiến công hiển hách làm
rạng rỡ cho dân tộc.
Về văn hóa - Xã hội: Sóc Sơn là vùng đất cổ, có nhiều di tích lịch sử
văn hóa. Nơi đây còn bảo lưu được nhiều phong tục tập quán, lễ hội...
Về giáo dục: Sóc Sơn là vùng đất khoa bảng, có nhiều danh nhân, nhiều
người đỗ đạt. Trong số đó có nhiều người giữ những trọng trách lớn lao trong
triều đình. Họ góp phần làm lên sự vẻ vang của đất nước.

19


CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM VĂN BIA HUYỆN SÓC SƠN
2.1 Vài nét về văn bia

Văn bia là sản phẩm văn hóa do con người sáng tạo ra, truyền thống tạo
văn bia bắt đầu từ Trung Quốc sau đó lan ra các nước Việt Nam, Triều Tiên,
Nhật Bản. Trong sử kí của Tư Mã Thiên, Tần Thủy Hồng bản kỷ có ghi việc
Tần Thủy Hoàng (221 - 207) khắc thạch lên 6 nơi: Châu Dịch, Thái Sơn,
Lang Nha, Chi Phù, Kiệt Thạch, Cối Kê. Đây có thể coi là những khắc thạch
đầu tiên. Ở Việt Nam do thiên tai địch họa, chiến tranh tàn phá, những văn bia
tìm thấy đến nay chỉ có thể kể từ thế kỷ thứ VII. Tấm bia có niên đại sớm nhất
ở nước ta hiện còn là tấm bia tìm thấy ở huyện Đơng Sơn, Thanh Hóa Đại
Tùy Bảo An quận đạo tràng bi văn 大隨寶安郡道場碑文có niên đại Đại
Nghiệp 14 (618). Tiếp đến là những cột kinh Phật Đỉnh Tơn Thắng Đà La Ni

佛鼎尊勝陀羅尼có niên đại năm 973 (thời Đinh) ở Hoa Lư (Ninh Bình).
Những văn bia cổ ở Việt Nam hiện cịn khơng nhiều (Lý, Trần), những văn
bia thời Lê, Nguyễn chiếm số lượng chủ yếu. Ở Việt Nam văn bia thường
được khắc bằng chữ Hán và chữ Nơm, văn bia có khắc chữ Nơm đầu tiên đến
nay xác định được là tấm bia Phụng thánh phu nhân Lê thị mộ chí

奉聖夫人黎氏墓誌 dựng ở chùa Diên Linh, xã Hương Nộn, huyện Tam
Nông, tỉnh Vĩnh Phúc, khắc vào đời Lý Anh Tông (1173). Văn bia là “những
bài văn đánh dấu những bước đi ban đầu của văn học thành văn ”. Văn bia có
nhiều thể loại khác nhau như: ghi về địa giới đất đai, các câu truyện thần linh,
những bài thơ, ghi gia phả dòng họ, hành trạng cơng tích nhân vật, cơng văn

20


hành chính, những vấn đề về sinh hoạt làng xã...,chúng ta sẽ thấy rõ điều này
hơn qua văn bia huyện Sóc Sơn.
Vài nét về văn bia Hà Nội
Hà Nội là nơi có nhiều di tích lịch sử, ở đây cịn lưu giữ được rất nhiều

bia đá, mà tiêu biểu là 82 bia Tiến sĩ ở Văn miếu - Quốc tử giám. Văn bia Hà
Nội phong phú về số lượng, đa dạng về thể loại. Có thể tìm thấy hầu hết các
loại hình văn bia trên địa bàn thành phố. Huyện Sóc Sơn cũng là một trong
những nơi lưu giữ nhiều văn bia của thành phố. Trong đợt sưu tầm của Viện
Viễn đông Bác cổ trên 9 quận, huyện của thành phố Hà Nội, có tổng cộng là
1971 văn bia. Giá trị của nguồn tư liệu văn bia này là rất lớn nó liên quan đến
tất cả các mặt của đời sống xã hội của Thăng Long xưa: Cung cấp những
thông tin về địa danh; phản ánh tính chân xác của sự kiện; phản ánh quá trình
xây dựng trùng tu các di tích, danh thắng; phản ánh về tình trạng ruộng đất
lập chợ, dựng cầu; ghi về lệ hát cửa đình…
2.2 Khảo sát văn bia huyện Sóc Sơn
Sóc Sơn là huyện nằm ở vùng trung du, địa hình đa dạng, phong phú
thuộc ngoại thành thủ đơ Hà Nội. Huyện Sóc Sơn hiện nay có 25 xã và 1 thị
trấn. Sóc Sơn là huyện có diện tích tương đối lớn với 30609 ha. Sóc Sơn là
vùng đất giầu truyền thống lịch sử văn hóa. Huyện Sóc Sơn có nhiều loại
hình: đình, chùa, miếu, điện, nhà thờ họ...trong số những di tích này, theo
điều tra của chúng tơi có 274 bia đá.
2.2.1 Một số vấn đề về văn bản văn bia huyện Sóc Sơn
Tồn bộ số văn bia mà chúng tơi thống kê được ở huyện Sóc Sơn là
281 bia. Số văn bia này hiện đang có thác bản ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Đây là những văn bia do người Pháp sưu tầm in dập vào những năm đầu thế

21


×