Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

Phong cách hài trong các tiểu phẩm báo chí hiện đại qua ba nhà báo lý sinh sự lê thị liên hoan thảo hảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 143 trang )

đại học quốc gia hà nội
Tr-ờng đại học khoa học xà hội và nhân văn
======

Trần Xuân Thân

Phong cách hài trong các tiểu phẩm
báo chí hiện đại qua ba nhà báo Lý Sinh Sự,
Lê Thị Liên Hoan, Thảo Hảo

Luận văn thạc s khoa học báo chí

Hà nội, 2006


đại học quốc gia hà nội
Tr-ờng đại học khoa học xà hội và nhân văn

Khoa báo chí
======

Trần Xuân Thân

Phong cách hài trong các tiểu phẩm
báo chí hiện đại qua ba nhà báo Lý Sinh Sự,
Lê Thị Liên Hoan, Thảo Hảo
( Khảo sát trên báo Lao động, An ninh thế giới cuối
tháng, thể thao &văn hoá, từ 2002 đến 2005)

Luận văn thạc sỹ khoa học báo chí
MÃ số: 60.32.01



Ng-ời h-ớng dẫn: PGS. TS. Nguyễn Thị Minh Thái

Hà nội, 2006


Lời cảm ơn
Em xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến các Thầy
giáo, Cô giáo khoa Báo chí - Tr-ờng Đại học Khoa học
XÃ hội và Nhân văn- Đại học Quốc gia Hà Nội về lòng
nhiệt tình truyền thụ tri thức của các Thầy, Cô cho em
trong những năm qua.
Đặc biệt, em xin trân trọng cảm ơn Phó Giáo s-,
Tiến Sĩ Nguyễn Thị Minh Thái đà tận tình h-ớng dẫn
giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thành Luận văn
này.
Xin cảm ơn ng-ời thân, bạn bè, đồng nghiệp đÃ
quan tâm góp ý và động viên tôi suốt quá trình học và
viết Luận văn này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2006
Trần Xuân Th©n


Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Báo chí từ khi ra đời và phát triển đến nay luôn vận động trong sự đổi
mới cả nội dung và hình thức thể hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin ngày
càng cao của công chúng. Điều đó làm hình thành một hệ thống thể loại với
nhiều thể loại khác nhau. Trong đó, mỗi thể loại có cách thức riêng, lợi thế
riêng trong việc phản ánh hiện thực khách quan. Đồng thời, nó cũng làm xuất

hiện những tác giả, nhà báo không ngừng sáng tạo trong việc sử dụng thể loại
báo chí với ngôn ngữ, giọng điệu mang đặc tr-ng riêng của mình để tạo ra
những tác phẩm báo chí luôn t-ơi mới cả về thông tin thời sự, cả về phong
cách thể hiện nhằm hấp dẫn công chúng. Sự nỗ lực của bản thân và thực tiễn
thành quả báo chí mang lại cho con ng-ời, cho cách mạng đà khiến Đảng, Nhà
n-ớc ta xác định:" Báo chí n-ớc Cộng hoà xà hội chủ nghĩa Việt Nam là
ph-ơng tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xà hội; là cơ quan
ngôn luận của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà n-ớc, tổ chức xà hội; là diễn
đàn của nhân dân"[52; 19]. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đà từng
nhấn mạnh vai trò quan trọng và tác động to lớn của báo chí đối với xà hội: Tờ
báo chỉ là giấy trắng mực đen mà thôi. Nh-ng với giấy trắng mực đen ấy,
ng-ời ta có thể viết những bức tèi hËu th-, ng-êi ta cã thĨ viÕt nh÷ng bøc thyêu đ-ơng Một tờ báo có ảnh h-ởng trong dân chúng rất mạnh, có thể giúp
chính phủ rất nhiều Đối với những ng-ời viết báo, cái bút là vũ khí sắc bén,
bài báo là tờ hịch cách mạng. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất n-ớc,
nền kinh tế thị tr-ờng cũng đặt ra cho báo chí nhiều cơ hội và thách thức. Đó
là bên cạnh những mặt tích cực thì cũng có không ít vấn đề tiêu cực đặt ra: tiền
tài, địa vị, quyền lực, danh, lợi, đang làm không ít ng-ời bị thoái hoá biến
chất, suy giảm đạo đức, xa rời lý t-ởng, chạy theo lối sống cơ hội, thực dụng
bất chấp luật pháp, luân th-ờng đạo lý. Víi thùc tÕ x· héi nh- vËy, b¸o chÝ tù

1


đặt ra câu hỏi phải làm gì, mỗi nhà báo phải lựa chọn con đ-ờng hoạt động
nh- thế nào để góp phần tuyên truyền, cổ động, tập hợp và tổ chức quần chúng
đấu tranh cách mạng, giáo dục nhận thức và h-ớng dẫn hành động cho quần
chúng một cách tích cực.
Chức năng cơ bản của báo chí là thông tin thêi sù cã ý nghÜa chÝnh trÞ x· héi nhÊt định. Nh-ng thông tin bằng cách nào, đ-a nh- thế nào để vừa đảm
bảo tính khách quan chân thật, vừa không ảnh h-ởng xấu đến d- luận xà hội
và lợi ích quốc gia là một vấn đề hết sức quan trọng. Những điều này đặt ra

hàng loạt các vấn đề đối với nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi nhà báo trong
việc biểu d-ơng, cổ vũ nhân tố mới, đồng thời phê phán các hiện t-ợng tiêu
cực. Và để làm đ-ợc điều đó, mỗi nhà báo cần thấm nhuần, ghi nhớ đạo đức
nghề nghiệp của mình thì mới đáp ứng đ-ợc yêu cầu của Đảng, Nhân dân, xÃ
hội giao phó: " Báo chí của ta thì cần phải phục vụ nhân dân lao động, phục
vụ chủ nghĩa xà hội, phục vụ cho đấu tranh thực sự thống nhất n-ớc nhà, cho
hoà bình thế giới. Chí vì thế, cho nên tất cả những ng-ời làm báo (ng-ời viết,
ng-ời in, ng-ời sửa bài, ng-ời phát hành)phải có lập tr-ờng chính trị vững
chắc. Chính trị phải làm chủ. Đ-ờng lối chính trị đúng thì cái khác mới đúng
đ-ợc"[21; 169].
Bên cạnh đó, cùng với báo chí, sự thay đổi trong nhận thức của công
chúng, qua những đòi hỏi về một nền báo chí với những sản phẩm báo chí tiến
đến vừa đáp ứng nhu cầu thông tin thời sự t-ơi mới, vừa góp phần làm thgiÃn, giải trí cho công chúng. Và hơn hết, cả thông tin, cả th- giÃn đều nhằm
mục đích đạt hiệu quả tác động đến công chúng làm cho họ thay đổi trong
nhận thức và hành vi góp phần cải tạo xà hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Chính những yêu cầu cấp thiết đó, trong quá trình hoạt động sáng tạo
tác phẩm báo chí của mình, các nhà báo đà cho ra đời nhiều sản phẩm báo chí
không những cho công chúng thoả mÃn thông tin, cung cấp bức tranh vÒ x· héi

2


đ-ơng thời mà còn có cách thể hiện sinh động để qua đó công chúng thấy
thoải mái, trong đó có sử dụng ph-ơng tiện tiếng c-ời. Chúng không phải là
c-ời cho xong chuyện hay c-ời chỉ để c-ời giải trí đơn thuần mà sau những
tiếng c-ời ấy, những công chúng tÝch cùc cđa x· héi l¹i cã thĨ "bËt khãc" cho
những sự rối ren, những điều tiêu cực làm cản trë sù ph¸t triĨn x· héi. Trong
sè rÊt nhiỊu t¸c giả đà và đang làm đ-ợc điều đó, chúng ta phải kể đến Lý Sinh
Sự, Lê Thị Liên Hoan, Thảo Hảo là những cây bút viết tiểu phẩm báo chí hiện
đại rất quen thuộc và để lại nhiều ấn t-ợng tốt đẹp trong lòng công chúng bằng

những bài viết đậm chất hài h-ớc trên các báo Lao Động, An ninh thế giới
cuối tháng, Thể thao & Văn hoá.
Thực tiễn hoạt động báo chí cho thấy họ đà có những thành công, sáng
tạo đặc biệt trong hình thức thể hiện thông tin báo chí. Thực tiễn đó đà tạo ra
cho các tác giả này những phong cách mà công chúng nhận thấy sự độc đáo,
hấp dẫn. Vì thế thể cho rng họ đ to cho mình một thương hiệu trong lng
báo. Vậy thực chất cái th-ơng hiệu ấy đ-ợc tạo nên bởi những yếu tố nào, hiệu
quả của nó và dự kiến xu h-ớng phát triển của thể loại đó trong báo giới sẽ ra
sao? Góp phần trả lời câu hỏi nghề nghiệp này, trong khuôn khổ luận văn thạc
sỹ, tôi chọn đề tài nghiên cứu:
phong cách hài trong các tiểu phẩm báo chí hiện đại
qua Ba nhà báo Lý Sinh Sự, Lê Thị Liên Hoan và Thảo Hảo

(Khảo sát trên báo Lao Động, An ninh thế giới cuối tháng,
Thể Thao & Văn hoá từ năm 2002 đến năm 2005)
2. Lịch sử nghiên cứu:
ĐÃ có khá nhiều những lá th- của công chúng gửi đến các tác giả Lý
Sinh Sự, Lê Thị Liên Hoan, Thảo Hảo bày tỏ sự đồng tình, lời cảm ơn, sự động
viên về những đóng góp của họ cho sự phát triển lành mạnh của xà hội. Nh-ng
ch-a có các công trình khoa học báo chí học nghiên cứu về họ một cách

3


chuyên sâu mà chỉ có một số bài báo nói về các tác giả này nh- những hiện
t-ợng đặc biệt của nền báo chí đ-ơng đại, đồng thời chỉ có một số khoá luận
cử nhân báo chí nghiên cứu gợi më vỊ mét trong sè hä, chđ u lµ vỊ Lý Sinh
Sù nh- c¸c kho¸ luËn "Phong c¸ch b¸o chÝ Lý Sinh Sự" của Nghiêm Thị Thu
Hà; và "Chuyên mục Nói hay đừng trên báo Lao Động" của Đào Thái T-, sinh
viên khoa báo chí tr-ờng Đại học KHXH& Nhân văn Hà Nội. Còn ch-a thấy

học viên cao học hoặc nghiên cứu sinh báo chí nào nghiên cứu về các tác
phẩm của họ, đặc biệt là các tác giả Lê Thị Liên Hoan và Thảo Hảo thì chỉ
đ-ợc đề cập ở cấp độ các bài báo.
3. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu:
Mục đích của Luận văn là chỉ nhằm tìm hiểu và nghiên cứu những nét
riêng trọng tâm về phong cách hài của ba nhà báo: Lý Sinh Sự, Lê Thị Liên
Hoan và Thảo Hảo thể hiện trong các tiểu phẩm hài h-ớc trên các tờ báo đó,
khảo sát và phân tích những điểm đà làm đ-ợc và những điểm ch-a làm đ-ợc
của các cây bút đó. Thông qua đó, luận văn có thể tổng kết, rút ra bài học cho
hoạt động viết thể loại tiểu phẩm báo chí hài h-ớc và chỉ ra xu h-ớng vận
động, phát triển của phong cách đặc biệt này.
Luận văn cũng hy vọng tìm hiểu và đánh giá hiệu quả thực tiễn của ba
phong cách báo chí độc đáo này nhằm góp phần làm thúc đẩy hơn nữa quá
trình gia tăng sáng tạo trong hoạt động báo chí để thông tin hiệu quả hơn.
Đồng thời, luận văn cũng hy vọng làm tài liệu cho những ai quan tâm nghiên
cứu và tìm hiểu, học hỏi phong cách báo chí hài h-ớc của các nhà báo này.
4. Ph-ơng pháp nghiên cứu:
Thực tế hiện nay những công trình nghiên cứu về lý luận báo chí nói
chung còn khiêm tốn, đặc biệt là những công trình nghiên cứu về các tác giả,

4


các cây bút nổi tiếng hiện nay, đặc biệt là ba nhà báo: Lý Sinh Sự, Lê Thị Liên
Hoan, Thảo Hảo là rất hiếm (nh- đà trình bày). Cho nên, nguồn t- liệu phục vụ
cho việc triển khai đề tài mang tính kế thừa là hạn chế.
Vì thế, Luận văn đi từ ph-ơng pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin,
t- t-ởng Hồ Chí Minh, đ-ờng lối chính sách của Đảng và Nhà n-ớc về báo chí
để định h-ớng ph-ơng pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích tổng hợp, so sánh.
Từ những luận điểm chung về phong cách, về sự sáng tạo phong cách linh hoạt

trong quá trình tác nghiệp của các nhà báo, những lý luận về thể loại báo chí,
về tiểu phẩm báo chí, sẽ soi rọi vào các tác phẩm cụ thể của ba nhà báo trên,
phân tích, so sánh tổng hợp nhằm đ-a ra những kết luận mang tính khái quát.
5. Phạm vi nghiên cứu:
Nhằm thể hiện đ-ợc sự sinh động, khác biệt của ba nhà báo khác nhau
trong việc dùng cùng một loại bài tiểu phẩm hài h-ớc mà thông tin thời sự có ý
nghĩa chính trị xà hội nóng hổi, tác giả tập trung khảo sát đề tài trên ba tờ báo:
Lao Động, An ninh thế giới cuối tháng, Thể thao & Văn hoá - những tờ báo
mà các cây bút này xuất hiện th-ờng xuyên nhất.
Các tác phẩm sử dụng trong việc triển khai đề tài là trên ba tờ báo đó
trong thêi gian tõ 2002 ®Õn 2005.
5. KÕt cÊu cđa Ln văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm có 3 ch-ơng chính:
Ch-ơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về phong cách và tiểu phẩm báo chí
Ch-ơng 2: Nội dung phản ánh và phong cách viết tiểu phẩm báo chí hài h-ớc
của Lý Sinh Sự, Lê Thị Liên Hoan, Thảo Hảo
Ch-ơng 3: Hiệu quả thông tin từ ba phong cách hài của ba nhà báo: Lý Sinh
Sự, Lê Thị Liên Hoan, Thảo Hảo.

5


Ch-ơng I:

một số vấn đề lý luận chung về
phong cách và tiểu phẩm báo chí

1.1. Khái niệm về phong cách ngôn ngữ và phong cách ngôn ngữ báo chí
1.1.1. Phong cách v phong cách ngôn ngữ:

a, Phong cách:
Theo Từ điển tiếng Việt 2000: "Phong cách" là:
"- Những lối, những cung cách sinh hoạt, làm việc, hoạt động, xử sự tạo
nên cái riêng của một ng-ời hay của một loại ng-ời nào đó (nói tổng quát)(Ví
dụ: Phong cách lao động mới, phong cách lÃnh đạo. Phong cách quân nhân,
phong cách sống giản dị).
- Phong cách là những đặc điểm có tính chÊt hƯ thèng vỊ t- t-ëng vµ
nghƯ tht, biĨu hiƯn trong s¸ng t¸c cđa mét nghƯ sÜ hay trong c¸c sáng tác nói
chung thuộc cùng một thể loại (nói tổng quát)(Ví dụ: Phong cách của một nhà
văn. Phong cách văn học nghệ thuật).
- Phong cách là dạng của ngôn ngữ sử dụng trong những yêu cầu chức
năng điển hình nào đó, khác với những dạng khác về đặc điểm từ vựng, ngữ
pháp, ngữ âm (Ví dụ: Phong cách ngôn ngữ khoa học. Phong cách chính luận.
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật)".
Theo GS. Hà Minh Đức: "Vấn đề lý luận về phong cách th-ờng đ-ợc
vận dụng quen thuộc trong phạm vi sáng tác nghệ thuật hơn là báo chí vì ở
đây dấu ấn sáng tạo của ng-ời viết in đậm nét. Và ở mức độ rõ rệt hơn là tính
nhất quán của một bản sắc đ-ợc thể hiện trong một cấu trúc, một hệ thống
những yếu tố về nội dung và hình thức nghệ thuật"[25; 102].
Bên cạnh đó, TS Hữu Đạt trong sách Phong cách học và các phong
cách chức năng tiếng Việt của TS Hữu Đạt: Khái niệm Phong cách đ-ợc
dùng ở nhiều địa hạt nghiên cứu khác nhau và cả trong giao tiếp đời th-ờng.

6


Chẳng hạn, phong cách đ-ợc dùng trong lý luận văn học (dùng để chỉ đặc
điểm sáng tác của nhà văn, của một tác phẩm hay một trào l-u văn họcPhong
cách bao hàm cả một số vấn đề về thi pháp, trong đó có thế giới quan sáng tác,
cá tính sáng tạo nghệ thuật của nhà văn hoặc của nhiều nhà văn thuộc cùng

một trào l-u); trong nghiên cứu văn hoá (dùng để chỉ những đặc điểm văn hoá
mang tính dân tộc, thời đại); điêu khắc, hội hoạ (dùng để biểu thị một cách
thức, tr-ờng phái sáng tác);
Nh- vậy, thuật ngữ "phong cách" là một khái niệm chung của nhiều
địa hạt khác nhau. Nó chỉ những đặc điểm riêng của con ng-ời trong cách
hành động sống. Hay nó chỉ về hình thức và nội dung của từng sản phẩm
trong từng lĩnh vực hoạt động sáng tạo khác nhau mà ở đó dấu ấn cá nhân
tác giả thể hiện đậm nét.
b, Phong cách ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là ph-ơng tiện giao tiếp cơ bản của xà hội loài ng-ời. Nó luôn
đi kèm với con ng-ời và không ngừng thay đổi, hoàn thiện dần. Cùng một
ngôn ngữ nh-ng việc sử dụng nó khác nhau trong những điều kiện giao tiếp
khác nhau sẽ đem lại những hiệu quả khác nhau nhất định. Sự khác nhau ấy
chính là cách thức sử dụng ngôn ngữ giúp cho nó thực hiện những chức năng
khác nhau mà khoa học ngôn ngữ học th-ờng gọi là phong cách chức năng
ngôn ngữ.
Phong cách ngôn ngữ là khái niệm để chỉ về hình thức sử dụng ngôn
ngữ ứng với từng loại hình lao động sáng tạo khác nhau. Trong cuộc sống, con
ng-ời sử dụng ngôn ngữ nh- một ph-ơng tiện phục vụ quá trình giao tiếp. ứng
với những tình huống giao tiếp khác nhau mà ngôn ngữ đảm nhiệm những
chức năng khác nhau nhằm mục đích chuyển tải đ-ợc ý nghĩa của thông tin
mà chủ thể định truyền tải tới khách thể tiếp nhận thông tin trong quá trình

7


giao tiếp. Cho nên, nói đến phong cách ngôn ngữ là ta phải gắn liền ngôn ngữ
với những chức năng nhất định của nó.
Tiếp cận phong cách ngôn ngữ ở khía cạnh ngôn ngữ học, việc phân loại
và miêu tả các phong cách chức năng ngôn ngữ là rất cần thiết. Bởi nó phục vụ

đắc lực cho quá trình giao tiếp của con ng-ời trong xà hội. Ngôn ngữ đóng vai
trò là trung gian cầu nối giữa các thành viên trong xà hội thực hiện quá trình
thông tin giao tiếp vì mục đích sống. Tuy nhiên, trong khoa học ngôn ngữ học,
có những quan điểm phân loại phong cách ngôn ngữ ch-a thật sự thống nhất cả
về số l-ợng các phong cách và cả về thuật ngữ. Có thể khảo sát qua hai quan
điểm về cách phân loại qua hai bộ giáo trình "Phong cách học và đặc điểm tu
từ tiếng Việt" của GS. Cù Đình Tú và "Phong cách học tiếng Việt" của GS.
Đinh Trọng Lạc (chủ biên).
Theo GS. Cù Đình Tú phân loại dựa trên sự đối lập giữa phong cách
khẩu ngữ tự nhiên và phong cách ngôn ngữ gọt giũa. Sau đó, trên cơ sở chức
năng giao tiếp của xà hội, chia tiếp phong cách ngôn ngữ gọt giũa thành:
Phong cách khoa học, phong cách chính luận, phong cách hành chính. Phong
cách ngôn ngữ văn ch-ơng đ-ợc khảo sát riêng không nằm trong phong cách
ngôn ngữ gọt giũa.
GS. Đinh Trọng Lạc phân loại phong cách chức năng tiếng Việt với 5
loại: Phong cách hành chính công vơ, Phong c¸ch khoa häc – kü tht,
phong c¸ch b¸o chí công luận, phong cách chính luận và phong cách sinh
hoạt hằng ngày. Theo ông, lời nói nghệ thuật không tạo ra phong cách chức
năng riêng mà chỉ là một kiểu chức năng của ngôn ngữ.
So sánh hai cách phân loại trên thì thấy: Cách thứ nhất phân loại còn
thiếu một phong cách chức năng ngôn ngữ đang tồn tại thực tế hiện nay trong
tiếng Việt, đó là phong cách báo chí. Cách thứ hai lại không có phong c¸ch

8


ngôn ngữ văn ch-ơng trong hệ thống phong cách chức năng ngôn ngữ tiếng
Việt. Điều này không đảm bảo tính hệ thống của phong cách chức năng ngôn
ngữ tiếng Việt và không đảm bảo tính hợp thời thực tiễn trong việc sử dụng
ngôn ngữ trong điều kiện xà hội hiện nay- một xà hội mà cả báo chí và văn

học đều đang rất phát triển và trở thành những bộ phận không thể tách rời đời
sống xà hội loài ng-ời.
TS Hữu Đạt - nhà nghiên cứu ngôn ngữ học- cho rằng: "Trong lý luận
văn học, thuật ngữ phong cách đ-ợc đùng để chỉ đặc điểm sáng tác của một
nhà văn, một tác phẩm hay một trào l-u văn học. Phong cách bao hàm cả một
số vấn đề về thi pháp, trong đó có thế giới quan sáng tác, cá tính sáng tạo của
một nhà văn hoặc của nhiều nhà văn thuộc cùng một trào l-u" [14; 22 ]
Trên cở sở những cách phân chia đó, xét thấy trong tình hình ứng dụng
ngôn ngữ vào hoạt động sống của con ng-ời trong thời hiện đại ngày nay với
sự bổ trợ của rất nhiều công cụ, ph-ơng tiện hiện đại khác nhau, và đặc biệt là
với những mối quan hệ xà hội, với những môi tr-ờng giao tiếp, hoàn cảnh giao
tiếp đặc thù phân biệt nhau khá rõ, nên tôi cho rằng, có thể phân chia phong
cách chức năng của ngôn ngữ ra thành 6 phong cách với tên gọi: Phong cách
khẩu ngữ tự nhiên, phong cách khoa học, phong cách hành chính, phong
cách chính luận, phong cách văn ch-ơng, phong cách báo chí.
Với 6 phong cách ngôn ngữ này, nó thực hiện đầy đủ, có hiệu quả chức
năng ngôn ngữ là công cụ giao tiếp trong mọi hoạt động sống của con ng-ời ở
mọi lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, để phục vụ trực tiếp cho việc nghiên cứu
của luận văn này nên ở đây tác giả luận văn chỉ tập trung bàn kỹ đến một
phong cách đặc biệt gắn liền với hoạt động truyền thông đại chúng - phong
cách ngôn ngữ báo chí.

9


1.1.2. Phong cách ngôn ngữ báo chí:
1.1.2.1. Khái niệm:
Bản thân báo chí hết sức đa dạng về loại hình (báo in, phát thanh, truyền
hình, báo trực tuyến) và phong phú về hình thức thể hiện thông qua hệ thống
các thể loại. Chính điều này đà đặt ra yêu cầu cho báo chí khi sử dụng các

phong cách ngôn ngữ phải huy động tối đa khả năng khai thác ngôn ngữ ứng
với mỗi loại thông tin, tình huống, môi tr-ờng giao tiếp truyền thông khác
nhau mà sử dụng phong cách khác nhau, thậm chí sử dụng đan xen các phong
cách để bổ trợ nhau trong quá trình thông tin giao tiếp.
Thêm nữa, chính báo chí có khả năng thâm nhập khai thác và thông tin
về mọi mặt trong đời sống xà hội với những tình huống, hoàn cảnh giao tiếp
khác nhau. Báo chí phải tuân thủ nguyên tắc tái hiện sinh động, chân thực về
sự kiện, hiện t-ợng, con ng-ời, mà nó phản ánh. Điều này đòi hỏi báo chí
không chỉ đứng trung gian khách quan quan sát, bình luận, kết luận về vấn đề
mà còn phải thể hiện sao cho "báo chí là hơi thở của cuộc sống đ-ơng đại".
Chính tính đặc thù của loại hình ph-ơng tiện truyền thông đại chúng này đÃ
đặt ra yêu cầu cho báo chí một cách sử dụng ngôn ngữ rất riêng mang đậm
chất báo chí. Và thực tế đó cho thấy trong phong cách ngôn ngữ báo chí có sự
hiện diện đủ tất cả các loại phong cách nh-: khẩu ngữ tự nhiên, khoa học, hành
chính, chính luận, văn ch-ơng. Do vậy, có thể quan niệm về phong cách ngôn
ngữ báo chí nh- sau:
Phong cách ngôn ngữ báo chí là phong cách ngôn ngữ đặc thù (bao
hàm nhiều phong cách chức năng ngôn ngữ) mà báo chí sử dụng trong
hoạt động thông tin về các vấn đề thời sự chính trị - xà hội nhằm truyền tải
thông tin bằng các thông điệp báo chí đến với đại chúng một cách nhanh,
chính xác, dễ hiểu, đảm bảo vừa thông tin vừa giữ gìn và ph¸t huy sù trong
s¸ng cđa tiÕng ViƯt.

10


Theo GS. Hà Minh Đức: Với hoạt động báo chí thì phong cách là một
khâu quan trọng để nghiên cứu về khuôn mặt của báo chí trong từng thời kỳ và
có thể nói đến phong cách của từng tờ báo, từng nhà báo. Với báo chí, dấu ấn
của cá nhân không rõ rệt bằng văn học nh-ng tác động và ảnh h-ởng của xÃ

hội lại rõ rệt hơn. Mỗi thời kỳ lịch sử th-ờng có những tờ báo nổi lên trong dluận theo h-ớng này hoặc h-ớng khác" [25; 105]
Rõ ràng, phong cách ngôn ngữ báo chí rất quan trọng đối với việc xác
định diện mạo, góp phần tạo nên bản sắc của mỗi cơ quan báo chí, mỗi nhà
báo. Vì vậy, việc xác định phong cách ngôn ngữ báo chí với những đặc điểm
về chức năng, đặc tr-ng của nó là hết sức quan trọng và cần thiết để định
h-ớng lao động sáng tạo báo chí cũng nh- đánh giá hiệu quả thông tin của báo
chí. Với một sự tổng hợp các phong cách ngôn ngữ đó, có thể nhận thấy ở
phong cách ngôn ngữ báo chí những chức năng và đặc tr-ng sau:
Về chức năng: Phong cách ngôn ngữ báo chí có hai chức năng chính là
thông báo và tác động.
Báo chí ra đời tr-ớc hết là do nhu cầu thông tin giao tiếp của con
ng-ời trong xà hội loài ng-ời. Nhờ sức mạnh v-ợt trội trong các loại hình
ph-ơng tiện truyền thông đại chúng, báo chí giúp ng-ời ta tiếp cận đ-ợc nhanh
chóng các vấn đề mà mình quan tâm. Do đó, phong cách ngôn ngữ báo chí
tr-ớc tiên phải đáp ứng đ-ợc chức năng thông báo này.
Bên cạnh đó, báo chí còn đảm nhận một nhiệm vụ to lớn khác là tác
động đến d- luận xà hội làm cho công chúng của báo chí (ng-ời đọc, nghe,
xem) hiểu đ-ợc bản chất của sự thật để phân biệt cái đúng cái sai, cái thật cái
giả, cái nên ngợi ca, cái đáng phê phán.
Về đặc tr-ng: Phong cách ngôn ngữ báo chí có 3 đặc tr-ng:
+Tính thời sự: Thông tin phải truyền đạt kịp thời, nhanh chóng. Chỉ có
những thông tin mới mẻ, cần thiết mới hấp dẫn công chúng. XÃ hội ngày càng

11


phát triển, nhu cầu trao đổi và tiếp nhận thông tin của con ng-ời ngày càng
lớn. Báo chí thoả mÃn nhu cầu thông tin đó của con ng-ời kịp thời, nóng hổi,
hữu ích.
+Tính chiến đấu: Báo chí đ-ợc xác định là một trong các công cụ đấu

tranh chính trị của một nhà n-ớc, một đảng phái, một tổ chức. Tất cả công việc
thu thập và đ-a tin đều phải phục vụ cho nhiệm vụ chính trị đó. Tính chiến đấu
là một yếu tố không thể thiếu đ-ợc trong quá trình tạo nên sự ổn định và phát
triển của xà hội trên mặt trận chính trị t- t-ởng. Đó chính là các cuộc đấu
tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa cái tích cực
và cái tiêu cực.
+Tính hấp dẫn: Tin tức báo chí cần phải đ-ợc thể hiện hấp dẫn để khêu
gợi hứng thú của công chúng. Tính hấp dẫn đ-ợc coi nh- là một trong những
yếu tố quyết định sự sinh tồn của cơ quan báo chí. Điều này đòi hỏi ở hai mặt:
- Về nội dung: Thông tin phải mới, đa dạng, chính xác và phong phú.
- Về hình thức: Ngôn ngữ phải có sức thu hút, lôi cuốn công chúng.
1.1.2.2. Đặc điểm:
a, Ngữ âm: Với các Đài Phát thanh và Đài Truyền hình trung -ơng đòi
hỏi phải phát âm chuẩn mực khi đ-a tin. Với các Đài Phát thanh và Truyền
hình địa ph-ơng hoặc khu vực, có thể sử dụng một cách có chừng mực một số
biến thể phát âm thuộc một ph-ơng ngôn nào đó, nơi mà đài phủ sóng.
b, Từ vựng:
b1- Sử dụng lớp từ toàn dân, có tính thông dụng cao. Vì báo chí là
ph-ơng tiện thông tin đại chúng phục vụ công chúng là đông đảo nhân dân
thuộc đủ mội tầng lớp, trình độ văn hoá, học vấn, vùng miền,khác nhau. Tuy
nhiên, ở mỗi thể loại có sự thể hiện khác nhau phù hợp với loại thông tin (vấn
đề mà nó đề cập) và đặc tr-ng hình thức thể hiện ngôn ngữ của từng thể loại.

12


Chẳng hạn: Viết tin thì ngôn ngữ th-ờng đơn giản, ngắn gọn, thông báo trực
tiếp về sự kiện. Còn viết tiểu phẩm thì th-ờng uyển chuyển, linh hoạt và có
tính luận lý, giàu chất văn học hơn.
Bên cạnh các từ vựng toàn dân thì tuỳ từng lĩnh vực, môi tr-ờng giao

tiếp truyền thông (đối nội hay đối ngoại, nghi thức quốc gia hay địa ph-ơng,
hoạt động chính trị - xà hội hay cuộc sống th-ờng nhật của nhân dân) mà có
những khuôn mẫu, những từ vựng đ-ợc sử dụng khác nhau: Trang trọng, lễ lạt,
thuật ngữ khoa học chuyên biệt, khuôn mẫu thông tấn,
b2- Từ dùng th-ờng có màu sắc biểu cảm. Tức là báo chí tôn trọng sự
sáng tạo trong sử dụng ngôn ngữ tìm cái mới trong ý nghĩa của từ. Điều này
bộc lộ những khả năng tìm tòi, phát hiện những năng lực tiềm ẩn trong từ hoặc
trong các kết hợp mới mẻ có tính năng động dễ đi vào lòng ng-ời. Nó có thể
tạo ra những chệch chuẩn về ngôn ngữ nh-ng nhằm tác động cao, hiểu sâu, ấn
t-ợng về sự kiện, hiện t-ợng đ-ợc phản ánh.
1.2.2.3. Cú pháp:
a, Cấu trúc cú pháp th-ờng lặp đi lặp lại ở một số kiểu nhất định.
Trong đó, bài đ-a tin th-ờng sử dụng nhiều câu ghép hoặc câu đơn có kết cấu
phức tạp; bài phỏng vấn, phóng sự, tiểu phẩm tuỳ lĩnh vực nó đi sâu mà cấu
trúc cú pháp có thể đơn giản hay phức tạp, nh-ng th-ờng sử dụng nhiều câu
ghép và câu phức tạp; quảng cáo th-ờng sử dụng câu đơn.
b, Th-ờng theo những khuôn mẫu văn bản và công thức hành văn
nhất định. Đ-a tin có khuôn mẫu và công thức hành văn riêng; quảng cáo,
phỏng vấn, phóng sự,tuy khuôn mẫu hành văn có khác nhau nh-ng cũng đều
có những quy định chuẩn về những ph-ơng diện đó.

13


Từ những đặc điểm cơ bản trên, ngôn ngữ báo chí là một phần quan
trọng, không thể thiếu trong việc thể hiện, chuyển tải thông tin, đồng thời
chính nhờ cách sử dụng ngôn ngữ có phần khác nhau với trình độ, môi tr-ờng
hoạt động thông tin khác nhau mà mỗi ng-ời trong quá trình hoạt động báo chí
đà hình thành nên cho mình một lối đi có phần riêng biệt với ng-ời khác để tạo
nên dấu ấn, phong cách riêng trong sử dụng ngôn ngữ để thể hiện t- t-ởng của

mình gửi trong tác phẩm và truyền đến công chúng. Nó làm hình thành nên
phong cách riêng của các tác giả.
Theo GS. Hà Minh Đức:" Không phải ng-ời viết nào cũng có phong
cách. Có ng-ời theo đuổi nghề văn suốt đời cũng không dễ tạo đ-ợc phong
cách nếu những sáng tác của họ không có bản sắc riêng và rơi vào sự chung
chung mờ nhạt. Có tác giả trẻ mà những sáng tác đầu tay ch-a định hình mà
cần chờ sự bồi đắp của thời gian. Phong cách nghệ thuật của một tác giả thể
hiện ở những đặc điểm của ng-ời viết khá ổn định trong phát triển những yếu
tố về nội dung và hình thức sáng tạo nghệ thuật [25; 103].
Mặc dù nhận xét này của GS. Hà Minh Đức thiên về nhà văn nh-ng
nhìn từ góc độ sử dụng ngôn ngữ thì nó cũng phù hợp đối với hoạt động báo
chí. Bởi bản thân văn học và báo chí đều dùng ngôn ngữ làm chất liệu, ph-ơng
tiện để thể hiện thông tin, t- t-ởng. Cả hai cùng phản ánh nhằm vào hiện thực
và sẽ vì sự phát triển của hiện thực xà hội mà sáng tạo. Có điều, văn học sáng
tạo nghệ thuật trên cơ sở xây dựng hình t-ợng nghệ thuật, khắc hoạ những điển
hình của cuộc sống về mọi ph-ơng diện. Còn báo chí phản ánh hiƯn thùc cc
sèng h»ng ngµy mang tÝnh thêi sù, chÝnh xác. Nh-ng một điều không thể phủ
nhận rằng, cả văn học và báo chí dù phản ánh hiện thực nh- thế nào thì tác giả
của những tác phẩm đó (tác phẩm văn học hay tác phẩm báo chí) cũng đều

14


phấn đấu hình thành nên những nét riêng khẳng định mình tồn tại không sao
chép lại của ng-ời khác mà có chăng chỉ là, nên là sự kế thừa có sáng tạo.
Và do vậy, phong cách của nhà báo bộc lộ ra ở nhiều ph-ơng diện khác
nhau mà ở mỗi ph-ơng diện đều có những điểm riêng biệt dễ nhận thấy. Chính
những điểm này giúp cho tác giả phân biệt đ-ợc nhà báo này với nhà báo khác
kể cả trong tr-ờng hợp họ là những nhà báo có chung sở tr-ờng về một loại đề
tài nào đó hoặc một thể loại báo chí nào đó. Thậm chí những điểm ấy còn là

cái nhÃn để độc giả biết cái danh của nhà báo.
Từ những điểm xuất phát khác nhau, thâm niên nghề nghiệp khác nhau,
sở tr-ờng và ý thích khác nhau, mỗi nhà báo có một lối riêng trong cách khai
thác ngôn ngữ. Và những lối riêng đó th-ờng đi liền với đặc điểm của thể loại.
Chính sự t-ơng tác này giữa ngôn ngữ và thể loại của tác giả đà bộc lộ những
nét mà chúng ta quen gọi là phong cách tác giả.
Do vậy, mỗi nhà báo đến độ phát triển nào đó của tài năng thì cũng bộc
lộ rõ phong c¸ch viÕt. Cã phong c¸ch b¸o chÝ lín nh- Nguyễn ái Quốc- Hồ
Chí Minh. Đó là phong cách của một nhà báo chiến sỹ suốt cuộc đời đấu tranh
cho độc lập tự do của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân, luôn luận chiến
chống lại kẻ thù bằng sức mạnh của chính nghĩa và lý lẽ sắc bén. Đó là phong
cách báo chí của nhà báo lớn có trình độ hiểu biết sâu rộng, am hiểu vốn văn
hoá kim cổ, Đông, Tây. Đó cũng là cây bút đa năng, viết luận sắc sảo, châm
biếm thâm thuý, kể chuyện, miêu tả sinh động, chi tiết và rất uyển chuyển linh
hoạt qua cách viết gợi cảm, gây ấn t-ợng.
Gần đây, Hữu Thọ cũng nổi lên là một phong cách riêng qua những tiểu
phẩm báo chí. Tuy nhiên, nổi bật hơn cả là cây bút của ông đà để lại ấn t-ợng
trong lòng công chúng và tạo nên một "th-ơng hiệu" cho mình qua các tập
"Ng-ời hay cÃi", "99 chuyện đời", "Bản lĩnh Việt Nam",... giới thiệu gần 300
tiểu phẩm báo chí. Và GS Hà Minh Đức nhận xét tiểu phẩm cđa H÷u Thä:

15


"Đúng là những tác phẩm nhỏ nh-ng từ chuyện vặt, đời th-ờng biết tìm ra ý
nghĩa về chính trị xà hội, đạo lý nhân sinh để góp phần vào xây dựng cuộc
sống mới. Viết tiểu phẩm đòi hỏi Hữu Thọ phải có ý thức th-ờng xuyên quan
tâm đến cuộc sống, nhạy cảm phát hiện vấn đề và nêu lên thành hiện t-ợng
trên báo chí. Phần luận cũng phải linh hoạt chắc tay, đàm luận theo lẽ th-ờng
nh-ng lại có định h-ớng để nói về những nguyên tắc"[25; 117].

Nhận xét về Thép Mới, Xuân Trường cho rng: Đặc sắc của các bài
báo của Thép Mới là tính chân thực của thông tin b¸o chÝ pha t bót phãng
kho¸ng, bay bỉng cđa t- duy văn học. Tính thống nhất giữa văn ch-ơng nghệ
thuật và báo chí rất rõ nét ở những bài viết của anh, tạo nên cho anh một
phong cách độc đáo trong văn học, có thể nói phong cách Thép Mới[25;115].
Do đó, có thể khẳng định vai trò không thể thiếu của việc các cây bút
lÃo luyện, có nghề thì phong cách, dấu ấn riêng đó thực sự có ích không chỉ
cho bản thân quá trình hành nghề của tác giả mà còn có lợi cho "quốc kế dân
sinh". Điều rõ rệt là ở mỗi nhà báo, tuy khác nhau về phong cách nh-ng đều
phải có chung những phẩm chất quan trọng. Tất cả đều có bản lĩnh vững vàng
về chính trị, có lòng yêu nghề tha thiết, có trình độ văn hoá cao và năng lực sở
tr-ờng về nghề nghiệp. Và dĩ nhiên, mỗi phẩm chất trên lại đ-ợc biểu hiện
theo hình thức t- duy và năng lực tinh thần riêng để hình thành phong cách
độc đáo đậm chất cá nhân trong từng thể loại nhất định.
Cũng bàn về vấn đề phong cách ngôn ngữ và phong cách tác giả trong
các tác phẩm báo chí, gần đây, PGS. TS Vũ Quang Hào cho rằng: "Ngôn ngữ
báo chí tr-ớc hết và chủ yếu là lĩnh vực của ngôn ngữ học - xà hội. Vấn đề sử
dụng ngôn ngữ báo chí có tác dụng trực tiếp và quyết định nhất tới hiệu quả
của thông tin báo chí, do vậy ngôn ngữ báo chí tr-ớc hết phải là một thứ ngôn
ngữ văn hoá chuẩn mực" [31; 18]. Theo ông, "tính chuẩn mực này không loại
trừ mà thậm chí còn cho phép những sự sáng tạo của cá nhân nhà báo với t-

16


cách là một hiện t-ợng đi chệch ra khỏi chuẩn mực"[31; 18]. Tác giả cũng giải
thích rất rõ rằng chuẩn ngôn ngữ chính là cái đúng và cái thích hợp. Cái
đúng hay còn gọi là sự tiêu chuẩn "đúng phép tắc" đ-ợc cộng đồng ngôn ngữ
hiểu và chấp nhận, là một trong những điều kiện để thừa nhận tính chuẩn mực
của ngôn ngữ. Từ nhiều phân tích khác nhau, tác giả khẳng định: một hiện

t-ợng ngôn ngữ đ-ợc coi là đúng phải thoả mÃn đ-ợc những đòi hỏi của cấu
trúc nội tại của ngôn ngữ và phải phù hợp với truyền thống ngôn ngữ, đ-ợc
mọi thành viên trong cùng một cộng đồng (trong những điều kiện t-ơng đối
thống nhất) hiểu đúng nh- nhau. Cái đúng là yêu cầu bắt buộc trong việc sử
dụng ngôn ngữ ở tất cả các cấp độ và ở mỗi cấp độ ấy lại có những yêu cầu,
những tiêu chuẩn riêng. Nh- vậy, trong chuẩn mực ngôn ngữ thì cái đúng là
nhân tố quan trọng bậc nhất bảo đảm quá trình giao tiếp [31; 25]. Tuy nhiên,
cái đúng mới chỉ là một mặt của chuẩn mực. Bên cạnh đó, thông tin đúng mà
không thích hợp thì hiệu qủa thông tin kém. Cái thích hợp chính là dùng ngôn
ngữ phù hợp với môi tr-ờng giao tiếp, phù hợp với đối t-ợng tiếp nhận. Và
"cái thích hợp đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao giá trị thẩm mỹ
của ngôn từ" [ 31; 26].
Bên cạnh đó, vì ngôn ngữ luôn luôn vận động theo sự vận động khách
quan của đời sống, nên chuẩn ngôn ngữ cũng không nhất thành bất biến, mà
nó còn có những biến thể chệch chuẩn. "Chệch chuẩn không phải là cái sai mà
là một sự sáng tạo nghệ thuật đ-ợc công chúng chấp nhận và đón nhận một
cách thú vị"[31; 28].
Và, từ đó có thể khẳng định, phong cách riêng độc đáo của mỗi nhà báo
chính là việc sử dụng trong sự sáng tạo ngôn từ đi theo h-ớng tạo ra những
chệch chuẩn để tái hiện những cái chuẩn của đời sống xà héi mét c¸ch
rÊt...chuÈn.

17


Hay nói cách khác, phong cách ngôn ngữ báo chí của mỗi nhà báo
chính là sự thể hiện những thủ pháp nghệ thuật ngôn từ khác nhau một
cách độc đáo riêng biệt trên cơ sở sáng tạo tác phẩm theo một thể loại báo
chí nhất định để thể hiện nội dung thông tin báo chí.
1.2. Quan niệm về tiểu phẩm và tiểu phẩm trên báo chí

1.2.1. Quan niệm về tiểu phẩm
Trong lịch sử báo chí thế giới, ng-ời ta ghi nhận tiểu phẩm đà xuất hiện
từ hơn 200 năm trong thời gian diễn ra cuộc cách mạng dân chủ t- sản Pháp
lần thứ nhất- cuối thế kỷ XVIII. Tiểu phẩm lúc bấy giờ là những bài văn ngắn,
có tính chất châm biếm, đăng trên những tờ phụ của số báo hoặc bên d-ới
dòng kẻ đậm ở cuối các tờ báo.
Cũng nh- các thể loại báo chí khác, tiểu phẩm ra đời do yêu cầu khách
quan của xà hội. Giai cấp t- sản tìm thấy ở tiểu phẩm một thứ vũ khí sắc bén
để chống lại các thế lực phong kiến, quý tộc bảo thủ, phản động cùng chế độ
phong kiến lỗi thời lạc hậu đà mục ruỗng từ bên trong. Là con đẻ của cuộc
cách mạng dân chủ t- sản, tiểu phẩm ngay từ đầu đà mang tính chiến đấu cao.
Nó là tiếng nói của giai cấp cách mạng, của khuynh h-ớng vận động tích cực
hợp quy luật lịch sử chống lại giai cấp phản động, những thế lực cản trở bánh
xe lịch sử. Và không ai có thể phủ nhận vị trí, giá trị của nó đối với đời sống
tinh thần của con ng-ời, với sự phát triển xà hội loài ng-ời.
Tuy nhiên đến nay, tình hình nghiên cứu về tiểu phẩm nằm trong tình
trạng chung là ch-a phát triển. Ch-a có một công trình nào nghiên cứu và đánh
giá một cách đầy đủ về tiểu phẩm. Các ý kiến về tiểu phẩm nằm rải rác trong
một số bài báo, chuyên luận của các nhà nghiên cứu văn học, các nhà nghiên
cứu báo chí hoặc trong những phát biểu của các nhà báo có kinh nghiệm đăng

18


tải trên các tờ báo, tạp chí. Nói chung, đánh giá đà nhìn nhận một số đặc tr-ng
khá cơ bản của thể loại này, song còn phiến diện hoặc ch-a rõ ràng, đầy đủ.
Theo Từ điển Tiếng Việt 2000: Tiểu phẩm là bài báo ngắn về một vấn
đề thời sự, có tính chất châm biếm. Hay nó là một màn kịch ngắn có tính chất
hài h-ớc, châm biếm hoặc đả kích".
Với định nghĩa này, các nhà khoa học ngôn ngữ học đà gắn liền ngay

khái niệm "tiểu phẩm" với các "bài báo" hay "màn kịch". Chứng tỏ họ đà tách
bạch ra có cả tiểu phẩm văn học và tiểu phẩm báo chí. Điều này khá thống
nhất với một số nhà nghiên cứu khác về tiểu phẩm. Chẳng hạn nh- TS Đoàn
H-ơng viết: Ký và tiểu phẩm là hai thể tài khó viết trong nghề báo, vì hai thể
tài này yêu cầu ở ng-ời viết nhiều điều: Sự từng trải, sự nhạy bén trực giác về
đời sống chính trị, xà hội, văn hoá, về bút pháp...[70; 3]. ở đây tác giả đÃ
khẳng định tiểu phẩm cũng là một thể tài của báo chí.
Còn PGS. TS D-ơng Xuân Sơn cho rằng: " Tiểu phẩm là một thể loại
báo chí ở nhóm chính luận - nghệ thuật, mang tính văn học, đ-ợc diễn đạt
bằng ngôn ngữ châm biếm, đả kích hoặc hài h-ớc vỊ mét sù kiƯn, sù viƯc, hiƯn
t-ỵng cã thùc, cơ thể hoặc khái quát, qua đó tác giả thể hiện quan điểm của
mình về sự kiện, hiện t-ợng đó"[67; 125]. Với quan điểm này, PGS. TS D-ơng
Xuân Sơn đà xếp tiểu phẩm đứng độc lập trong hệ thống thể loại báo chí. Và
chỉ ra đ-ợc một số đặc điểm của thể loại này: mang tính văn học, đ-ợc diễn
đạt bằng ngôn ngữ châm biếm, đả kích hoặc hài h-ớc, cái tôi tác giả thể hiện
rõ nét trong tiểu phẩm.
Một kết luận khá thuyết phục về "tiểu phẩm" là của PGS. TS Tạ Ngọc
Tấn trong bài "Nhận diện thể loại tác phẩm trong di sản báo chí của Ngô Tất
Tố". Sau khi đ-a ra sự so sánh, phân tích quan điểm của một số nhà nghiên
cứu khác về tiểu phẩm nói chung và tiểu phẩm của Ngô Tất Tố nói riêng, ông
đà kết luận: "Từ quan niệm đó, có thể phân định tiểu phẩm nói chung và tiểu

19


phẩm Ngô Tất Tố là những tác phẩm báo chí thông qua sự phản ánh các sự
kiện thời sự và ph-ơng pháp biện luận trào lộng để châm biếm, phê phán cái
xấu, cái tiêu cực cũng nh- những mặt hạn chế trong xà hội [113].
Quan điểm này của PGS. TS Tạ Ngọc Tấn đà thêm một lần cùng các nhà
nghiên cứu "gọi tên" đúng hơn, thuyết phục hơn về một thể loại báo chí đà và

đang phát huy sức mạnh của mình đóng góp vào việc tạo nên sức mạnh chung
của báo chí. Đến đây, Tạ Ngọc Tấn đà chỉ ra đ-ợc khá cụ thể về mục đích của
thể loại này thực hiện nhiệm vụ chung của báo chí là đấu tranh làm lành mạnh
hoá xà hội. Trong cuộc đấu tranh ấy, mỗi thể loại có cách thức, hình thức thể
hiện và sức mạnh riêng. Và với tiểu phẩm thì "châm biếm, phê phán cái xấu,
cái tiêu cực cũng nh- những mặt hạn chế trong xà hội" là mục tiêu h-ớng tới
trên cơ sở sử dụng "ph-ơng pháp biện luận trào lộng".
Qua nhà nghiên cứu viết về tiểu phẩm, đến giai đoạn hiện nay đà chứng
tỏ, thực tế, đa số họ không bàn nhiều đến việc phân chia ranh giới giữa tiểu
phẩm văn học và tiểu phẩm báo chí nh- một số ng-ời đà làm, mà hầu hết đều
xuất phát điểm từ tác phẩm đăng tải trên báo chí để nghiên cứu.
Xích Điểu, với kinh nghiệm của một nhà báo viết tiểu phẩm báo chí
đ-ợc đông đảo ng-ời đọc biết ®Õn ®· nhËn xÐt vỊ tiĨu phÈm nh­ sau: “ Là thể
loại vừa cho phép phát triển tính chất điển hình của văn học, vừa mang tính
chất chân thật, khoa học và kịp thời của báo chí, tiểu phẩm vốn mang một tính
chiến đấu cao, có khả năng vạch bản chất tàn bạo của kẻ thù một cách trực
tiếp sâu cay và châm biếm làm cho ng-ời đọc vừa căm thï võa khinh ghÐt c-êi
vµo mịi chóng”[65; 289]. Khi nãi đến tc phẩm Bản án chế độ Thực dân
Pháp của Hå ChÝ Minh, t²c gi° viÕt: “Cã thÓ nãi cuèn Bản án chế độ thực
dân Pháp xuất bn tại Paris năm 1925 l một thiên tiểu phẩm di[65; 290].
Nh- vậy, theo Xích Điểu, cả về nội dung và ph-ơng pháp thể hiện, tiểu
phẩm đều mang tính chất đặc tr-ng của t¸c phÈm b¸o chÝ. Nh-ng tiĨu phÈm

20


cũng cho phép phát triển ph-ơng pháp điển hình trong sáng tạo văn học. Tính
chất điển hình hoá của tiểu phẩm không đ-ợc tạo nên do h- cấu mà nó đ-ợc
hình thành theo quy luật sáng tạo của nhà báo, nghĩa là qua sự chọn lọc, phân
tích khách quan những sù kiƯn, vÊn ®Ị cã thùc trong cc sèng ®Ĩ phản ánh

trong tác phẩm trên cơ sở -u tiên nội dung chính trị, t- t-ởng. Khả năng, mục
đích của tiểu phẩm là phê phán, châm biếm kẻ thù. Nếu coi tiểu phẩm báo chí
có những đặc điểm trên thì việc xếp Bản án chế độ thực dân Pháp vo thể
loại tiểu phẩm là hợp lý. Tuy nhiên, trong nhận định của Xích Điểu về tiểu
phẩm thì ông tập trung nhấn mạnh vào đối t-ợng tác động của Tiểu phẩm là kẻ
thù của dân tộc, đó là giặc ngoại xâm, là bọn tay sai bán n-ớc với "bản chất
tàn bạo" của chúng để ng-ời đọc "vừa căm thù vừa khinh ghét c-ời vào mũi
chúng". Chính việc chỉ ra cụ thể đối t-ợng tác động, mục đích chĩa mũi nhọn
của tiểu phẩm vào kẻ thù đà làm cho nhận định của ông chỉ hợp với thời điểm
lịch sử khi đó. Cho đến nay, tình hình thời sự xà hội, môi tr-ờng xà hội của
n-ớc ta đà khác. Do đó, tiểu phẩm không thể chỉ giới hạn trong việc tấn công
vào kẻ thù nh- tr-ớc. Mà nó phải làm nhiệm vụ của thời bình. Tức là đối t-ợng
tiểu phẩm h-ớng tới để phản ánh đà khác. Nó có cả kẻ thù ngoại quốc đang âm
m-u chống phá n-ớc nhà, nh-ng quan trọng và trực tiếp hơn phải chính là
những thói h- tật xấu ở đời, những phần tử phản tiến bộ trong xà hội hiện nay
đang thực hiện những hành vi sai trái, đi ng-ợc luật pháp, trái với thuần phong
mỹ tục, trái chuẩn mực đạo đức xà hội đ-ơng thời. Đó cũng là những yếu tố
cản trở sự phát triển xà hội cần đ-ợc "mổ xẻ", lên án nhằm tiêu diệt chúng.
Một vấn đề đặt ra là có hay không ranh giới giữa tiểu phẩm báo chí và
tiểu phẩm văn học. Nh- đà nhắc đến ở trên, không riêng gì tiểu phẩm mà
nguồn gốc việc dùng các thể loại báo chí khác nhau và sự phong phú ngày
càng lớn trong các thể loại là dựa trên cơ sở nhu cầu xà hội nhiều mặt, căn cứ
vào khả năng mỗi ngày một lớn hơn và căn cứ trên các nhiệm vụ nhiều mặt

21


đ-ợc giao phó cho báo chí. Tất nhiên, mỗi thể loại báo chí ra đời đều tiếp thu
những yếu tố tích cực, có lợi trong nền văn hoá để làm tăng khả năng thông tin
hiệu quả của nó. Trong quá trình hình thành, tiểu phẩm báo chí cũng tiếp thu

các yếu tố, thủ pháp châm biếm, giễu cợt của văn học và văn hoá dân tộc. Điều
đó không có nghĩa là tr-ớc khi tiểu phẩm báo chí ra đời đà có tiểu phẩm văn
học mà thực tế chỉ có những yếu tố mầm mống của tiểu phẩm báo chí.
Mặt khác, với t- cách là một thể loại, lịch sử ra đời, phát triển của tiểu
phẩm gắn liền với báo chí, nằm trong sự vận động của báo chí. Tiểu phẩm ra
đời do yêu cầu xà hội và do yêu cầu mà những nhiệm vụ của báo chí đặt ra.
Quy luật sáng tạo của tiểu phẩm nằm trong quy luật chung của báo chí: Phản
ánh khách quan, trung thực các sự kiƯn, vÊn ®Ị cđa ®êi sèng x· héi hiƯn thêi,
-u tiên nội dung chính trị, t- t-ởng, thời sự. Tiểu phẩm phản ánh không thông
qua h- cấu văn học- nghệ thuật. Hơn nữa, dù nhà văn hay nhà báo đều viết tiểu
phẩm theo yêu cầu đơn đặt hng của bo chí. Hiếm có tiểu phẩm nào không
đ-ợc bắt đầu số phận của mình bằng sự có mặt trên báo, tạp chí.
Nh- vậy, rõ ràng là không có lý do tồn ti ranh giới giữa tiểu phẩm báo
chí v tiểu phẩm văn học, m chỉ có một thể loại đ-ợc gọi với những tên
khác nhau: Tiểu phẩm, Tiểu phẩm báo chí, Tiểu phẩm văn học. Cho
nên, căn cứ vào nội dung và hình thức thể hiện của các tiểu phẩm, căn cứ vào
thực tế tiểu phẩm đ-ợc công bố trên báo chÝ, ng-êi viÕt cho r»ng nªn thèng
nhÊt gäi nã b»ng cái tên "tiểu phẩm báo chí" là hợp lý nhất (ở đây không có ý
chia ra tiểu phẩm báo chí và tiểu phẩm văn học, nh- đà trình bày, mà mục
đích là nhận diện một thể loại đÃ, đang và sẽ song hành cùng các thể loại báo
chí khác thực hiện chức năng chung của báo chí. Nó xứng đáng đ-ợc đứng vào
hàng ngũ một trong các thể loại xung kích của báo chí). Và mỗi tiểu phẩm có
tính chất, mức độ, khả năng biểu hiện khác nhau nên yếu tố giàu chất văn học,
đậm tính thông tin thời sự báo chí đan xen, hoà quyện nhau với liều l-ợng

22


×