Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH SUY THOÁI KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2007-2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.68 KB, 52 trang )

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGỒI TẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH SUY THỐI
KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2007-2009

2.1. Quá trình hình thành và phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam trước năm 2007
Căn cứ vào mức độ phát triển của dòng vốn, chính sách FDI qua từng thời
kỳ, hoạt động FDI vào Việt Nam trước năm 2007 có thể được chia thành bốn
giai đoạn bắt đầu bằng sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
(1987) gắn với quá trình phát triển của FDI vào Việt Nam trong tiến trình đổi
mới tư duy chiến lược về thu hút FDI (Biểu đồ 1).

2.1.1. Giai đoạn 1987-1990
Đánh dấu giai đoạn này là việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm
1987 thể hiện quan điểm đổi mới và mở cửa trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại của


Việt Nam. Luật Đầu tư nước ngoài 1987 đã được các doanh nghiệp FDI đón
nhận và đánh giá là một đạo luật thơng thống, có sức hấp dẫn.
Kết quả, tính đến cuối năm 1990, có 33 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư
vào Việt Nam với 219 dự án với tổng số vốn đăng ký là 1,6 tỷ USD. Quy mơ
bình qn một dự án là 7,7 triệu USD, chủ yếu là dự án có quy mơ nhỏ. 1 Hoạt
động FDI trong giai đoạn này nhìn chung cịn nhiều hạn chế. Vốn thực tế giải
ngân tăng nhưng tỷ lệ thấp chỉ đạt 21,9% tổng số vốn đăng ký, một phần do đây
là giai đoạn đầu, một phần do tỷ lệ vốn đăng ký cao hơn. Nguyên nhân xuất
phát từ việc các nhà đầu tư chưa có đầy đủ thơng tin về khả năng và cơ hội đầu
tư; quyền lợi của họ chưa được đảm bảo chắc chắn do những thay đổi và sự
thiếu hồn thiện trong chính sách, pháp luật Việt Nam; chế độ quan liêu, bao
cấp tồn tại từ trước cùng với chính sách cấm vận của Mỹ và các nước phương
Tây với Việt Nam khiến các nhà ĐTNN còn băn khoăn khi đầu tư vào nước ta.
Trong giai đoạn này, do mới thành lập nên Ủy ban nhà nước về hợp tác


đầu tư (SCCI) - cơ quan QLNN về đầu tư chưa có nhiều kinh nghiệm trong quá
trình quản lý và điều hành hoạt động FDI tại Việt Nam.
2.1.2. Giai đoạn 1991-1996
Đây là giai đoạn phát triển về hoạt động đối ngoại của Việt Nam trên
trường quốc tế, các hoạt động ngoại giao đã tác động trực tiếp, đưa kinh tế của
Việt Nam đi vào chiều sâu và hiệu quả. Tiêu biểu chính là sự kiện Mỹ quyết
định tun bố chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào
11/7/1995. Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn này được sửa đổi,
bổ sung qua các năm 1990, 1992, 1996 đã thể hiện rõ mong muốn hội nhập với
các nước trên thế giới; tạo điều kiện cho hoạt động FDI và hoạt động đầu tư
trong nước xích lại gần nhau hơn. Nhà nước cũng tạo điều kiện cho người Việt
Nam định cư ở nước ngồi đầu tư về nước.
1 Ngơ Văn Hiền, “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” , Tạp chí
Kinh tế và Phát triển, số 114, tháng 11/2006.


Kết quả, đã có 1.655 dự án với tổng số vốn đăng ký là 2,5 tỷ USD, quy
mô dự án bình qn là 15,2 triệu USD, đặc biệt có hai dự án quy mô lớn đầu tư
vào phát triển đô thị ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh 2. Cơ cấu đầu tư đã có
sự chuyển dịch lớn, ngày càng phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế
cả nước theo ngành với hướng đầu tư mạnh vào sản xuất hàng xuất khẩu, xây
dựng kết cấu hạ tầng và cơ sở sản xuất công nghiệp. Các dự án đã được phân bố
đều hơn giữa 3 miền, nhưng chủ yếu vẫn tập trung vào 3 vùng kinh tế trọng
điểm là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Hình thức liên doanh
chiếm phần lớn, tỷ trọng lên tới 69%3 vốn đăng ký năm 1995. Sự tăng trưởng
FDI trong thời kỳ này có thể giải thích bởi Mỹ đã nới lỏng chính sách cấm vận
từ năm 1991 và chính thức tun bố xóa bỏ cấm vận vào năm 1995; các nhà đầu
tư hiểu rõ hơn môi trường và chính sách đầu tư của Việt Nam trên cơ sở đã tích
lũy được từ việc thực hiện đầu tư ở giai đoạn trước.
Cơ quan quản lý về ĐTNN giai đoạn này là Bộ Kế hoạch và Đầu tư được

thành lập trên cơ sở hợp nhất Ủy ban hợp tác và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Theo mơ hình này, Chính phủ thống nhất QLNN về ĐTNN tại Việt Nam.
2.1.3. Giai đoạn 1997-2000
Sau giai đoạn phát triển nhanh của FDI, bước vào năm 1997, bắt đầu xuất
hiện những trở lực do FDI vẫn chưa được coi là một thực thể kinh tế độc lập,
cộng thêm trở ngại do cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 nên dịng
vốn FDI vào Việt Nam có xu hướng giảm mạnh từ năm 1997 với 4,649 tỷ USD
và giảm thấp nhất vào năm 1999 với 1,568 tỷ USD. 4 Những diễn biến phức tạp
của cuộc khủng hoảng đã làm cho các doanh nghiệp FDI chỉ sản xuất cầm
chừng (khoảng 50 - 60% công suất) hoặc tạm dừng chuyển vốn cam kết. Nhiều
dự án (chủ yếu là dự án kinh doanh bất động sản), xin dừng hoặc xin hoãn tiến
2 Nguyễn Văn Tuấn, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2005.
3 Ngơ Văn Hiền, QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ quản lý hành chính cơng, Học viện Hành chính, Hà Nội, 2009.
4 Niên giám thống kê năm 2002, NXB Thống kê, Hà Nội, 2003.


độ triển khai để trông chờ những thay đổi của chính sách đầu tư. Hình thức liên
doanh mặc dù vẫn chiếm phần lớn tỷ trọng song có xu hướng giảm đi do khả
năng tham gia liên doanh của Việt Nam có hạn vì thiếu cán bộ, thiếu vốn góp.
Sự suy giảm nghiêm trọng của dòng vốn FDI trong giai đoạn này có thể
thấy rõ từ hai nguyên nhân chủ yếu. Thứ nhất, do cuộc khủng hoảng tài chính
khu vực châu Á làm cho hàng loạt các công ty lớn của các nước trong khu vực
bị phá sản, các nhà đầu tư rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính nên ĐTNN từ
những nền kinh tế này bị giảm sút mà phần lớn các nguồn vốn FDI (trên 70%)
được đầu tư vào Việt Nam lại đều bắt nguồn từ các nước Châu Á. Thứ hai, điều
kiện nội tại của nền kinh tế Việt Nam và môi trường đầu tư luôn kém hấp dẫn
hơn so với các nước khác trong khu vực nên khi có bất ổn về tình hình kinh tế
chung toàn khu vực, các nhà ĐTNN sẽ dễ gạt Việt Nam khỏi danh sách lựa
chọn đầu tư để bảo tồn nguồn vốn đang bấp bênh của mình.

2.1.4. Giai đoạn 2001-2006
Nhận thức được sự suy giảm FDI, đánh dấu việc cải thiện môi trường đầu
tư, năm 2000, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam năm 1996 được ban hành. Mục đích sửa đổi là nhằm khắc
phục những hạn chế của khung pháp luật hiện hành về FDI thông qua việc: mở
rộng thị trường vốn; điều chỉnh chính sách bảo hộ sản xuất trong nước có điều
kiện, có thời hạn; thực hiện lộ trình cắt giảm thuế; giảm hàng rào phi thuế quan.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chủ động tiến hành đàm phán Hiệp định thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ; gia nhập APEC, thực hiện cam kết trong khuôn khổ
AFTA, ASEAN và đàm phán gia nhập WTO.
Kết quả là vốn đăng ký năm 2001 là 2,6 tỷ USD đã tăng lên đạt 128 % so
với năm 2000. Tuy nhiên, ba năm 2002, 2003 và 2004 lại có xu hướng giảm sút
so với năm 2001. Đến năm 2005 lại tăng lên với vốn đăng ký là 3,6 tỷ USD,


năm 2006 tăng nhanh lên mức 10,2 tỷ USD5. Như vậy, sự phát triển của FDI
trong giai đoạn này chưa thực sự ổn định nhưng đã cho thấy những tín hiệu khả
quan đối với sự phục hồi trở lại của dòng vốn này trong thời kỳ hội nhập của đất
nước. Nguyên nhân xuất phát từ những biện pháp cải thiện môi trường đầu tư
với sự điều chỉnh khung pháp luật hợp lý; hoạt động kinh tế đối ngoại đã có
những bước tiến đáng kể đặc biệt là những thành công trong q trình đàm phán
để gia nhập WTO.
Mơ hình QLNN của giai đoạn này khơng có gì thay đổi so với mơ hình
quản lý của giai đoạn trước. Trong năm 2003, Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đã được thành lập góp phần đưa hoạt động QLNN về
ĐTNN về một đầu mối, khắc phục tình trạng chồng chéo và phân tán.
2.2. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong bối
cảnh suy thoái kinh tế giai đoạn 2007-2009
2.2.1. Tổng quan về cuộc suy thoái kinh tế
Suy thoái kinh tế được định nghĩa trong Kinh tế học vĩ mô là sự suy giảm

của tổng sản phẩm quốc nội thực trong thời gian hai hoặc hơn hai quý liên tiếp
trong năm (tốc độ tăng trưởng kinh tế âm liên tục trong hai quý). Cơ quan
nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) của Hoa Kỳ cũng đưa ra định nghĩa về suy
thoái kinh tế “là sự tụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo dài nhiều
tháng”. Như vậy, suy thối kinh tế có thể liên quan đến sự suy giảm đồng thời
của các chỉ số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư và lợi
nhuận doanh nghiệp. Các thời kỳ suy thối có thể đi liền với hạ giá cả (giảm
phát), hoặc ngược lại tăng nhanh giá cả (lạm phát) trong thời kì đình lạm.
Suy thối kinh tế tồn cầu giai đoạn 2007-2009 là cuộc suy thối kinh tế
và suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế diễn ra đồng thời ở nhiều nước, nhiều

5 Ngô Văn Hiền, QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ quản lý hành chính cơng, Học viện Hành chính, Hà Nội, 2009.


khu vực trên thế giới. Nó có nguồn gốc từ suy thoái kinh tế Mỹ cuối năm 2007
và khủng hoảng tài chính 2007-2010 với các diễn biến chính sau đây:
2.2.1.1. Sụp đổ tài chính phố Wall - khởi đầu suy thối kinh tế tồn cầu
Tháng 8/2007, cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn đã nổ ra ở
Mỹ, bong bóng nhà ở của Mỹ bị vỡ dẫn tới khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp
rồi phát triển thành một cuộc khủng hoảng tài chính mà hậu quả là tình trạng đói
tín dụng ảnh hưởng tới khu vực kinh tế thực.
Ban đầu, bắt nguồn từ chính sách cho vay tín dụng dưới chuẩn (hay cịn
gọi là tín dụng thế chấp rủi ro cao đối với thị trường bất động sản) và thực thi
chính sách tiền tệ nới lỏng trong khi thiếu một cơ chế giám sát chặt chẽ của
chính phủ đã dẫn đến việc người dân đổ xô đi mua nhà với mục đích đầu cơ là
chủ yếu. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm đến
khả năng chi trả của khách hàng đã dẫn đến hơn một nửa giá thị trường nhà đất
Mỹ là tiền đi vay với 1/3 là các khoản nợ khó địi (ước tính cuối q III năm
2008). Trước đó, để đối phó với lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1%

năm 2004 lên 5,25% năm 20066 khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá lớn
với người mua nhà. Trước tình hình trên, các ngân hàng, cơng ty bảo hiểm, tổ
chức tài chính… đã mua lại các hợp đồng thế chấp và biến chúng thành tài sản
đảm bảo để phát hành trái phiếu ra thị trường. Đây chính là biểu hiện của sự
chứng khốn hóa các khoản cho vay mua nhà khơng đủ tiêu chuẩn dẫn đến đánh
đồng các khoản cho vay đủ chuẩn và khơng đủ chuẩn từ đó gây ra bong bong
nhà đất lẫn chứng khốn. Nhiều cơng ty bảo hiểm trong đó có AIG cịn sẵn sàng
bảo lãnh cho những hợp đồng hoán đổi này.
Những bất ổn từ hoạt động cho vay dưới chuẩn khiến giá nhà đất sụt giảm
mạnh, thị trường nhà đất bị đóng băng. Cuộc khủng hoảng từ đó lan từ thị
trường bất động sản sang thị trường tín dụng. Vụ sụp đổ của Bear Steam - một
cơng ty tài chính hàng đầu của Mỹ - vì nắm quá nhiều chứng khoán cầm cố cho
6 Viện Kinh tế và chính trị thế giới, Kinh tế, chính trị thế giới năm 2008 và triển vọng năm 2009, NXB Từ điển
Bách khoa, Hà Nội, 2009.


dù đã được giải cứu một cách khôn ngoan bởi FED và Kho bạc Mỹ nhưng đã là
dấu hiệu đầu tiên báo trước sự bùng nổ bong bóng tài chính tại Mỹ cũng như
cơn bão sắp đổ xuống thị trường tài chính tồn cầu.
Cơn địa chấn tài chính thực sự nổ ra vào ngày 7/9/2008 khi hai nhà cầm
cố cho vay khổng lồ của Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải được
Chính phủ tiếp quản để tránh khỏi nguy cơ phá sản do mất khả năng thanh toán.
Ngay sau đó, thế giới rung chuyển với những tin tức về nguy cơ sụp đổ của
những đế chế tài chính hàng đầu và lâu đời trên thế giới như AIG - tập đoàn bảo
hiểm quốc tế hàng đầu thế giới; Lehman Brothers - một ngân hàng đầu tư
chuyên cung cấp vốn cho các khách hàng có mức thu nhập dịng cao và Merill
Lynch - một quỹ đầu tư hàng đầu thế giới thành lập từ năm 1914 với tài sản
khoảng 1,6 tỷ USD. Trong nỗ lực giải quyết ba vụ phá sản lớn này chỉ có AIG
và Merill Lynch được cho hạ cánh từ từ. Vào 16/9, FED ngay lập tức tạo một
khoản cho vay 85 tỷ USD để cứu AIG vì tầm quan trọng của nó đối với hệ

thống tài chính Mỹ và tồn cầu, cịn Merill Lynch cũng được mua lại bởi Bank
of American với giá 50 tỷ USD vào ngày 15/9 7. Riêng Lehman Brothers bị phá
sản hồn tồn, gây nên hiệu ứng đơminơ những vụ đổ vỡ của một loạt tên tuổi
liên quan đến cho vay cầm cố trên thế giới.
Những sự kiện này đã vượt quá mức chịu đựng của thị trường, tạo ra một
sự hoảng loạn. Tất cả đều lo sợ vỡ nợ, các nhà đầu tư thi nhau rút vốn và tất cả
những người đi vay đều bị từ chối vì người cho vay sợ người vay sẽ vỡ nợ. Sự
tháo chạy hỗn loạn này đã làm cho hệ thống tài chính tồn cầu chịu sự khủng
hoảng với sức lan tỏa mạnh mẽ.
2.2.1.2. Khủng hoảng trở thành toàn cầu - lan truyền dư chấn tới các khu
vực kinh tế thực và các nền kinh tế trên toàn thế giới
Nhiều nước trên thế giới có các tổ chức tài chính đã tham gia vào thị
trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Mỹ. Khi các tổ chức tài chính này bị thua lỗ,
7 Viện Kinh tế và chính trị thế giới, Kinh tế, chính trị thế giới năm 2008 và triển vọng năm 2009, NXB Từ điển
Bách khoa, Hà Nội, 2009.


tình trạng khủng hoảng tài chính đã xảy ra ở nhiều nước khiến cho các nước này
rơi vào suy thoái kinh tế hoặc suy giảm tốc độ tăng trưởng. Trong đó đáng chú ý
là sự sụp đổ của Ngân hàng IKB (Đức), sự thua lỗ của các ngân hàng UBS
(Thụy Sỹ), Deusche Bank, Tập đoàn Centro Propeties (Australia) và Yamoto
Life Insuarance (Nhật Bản). Từ đó, xuất hiện việc sáp nhập, mua bán ngân hàng
và những gói “cứu trợ” khổng lồ của các chính phủ.
Khủng hoảng đã ảnh hưởng trước tiên tới các nền kinh tế lớn như Khối sử
dụng đồng tiền chung châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ. Tuy Nhật Bản kẻ “lâm trận” cuối cùng trong dây chuyền khủng hoảng tài chính - được đánh
giá là quốc gia khỏe mạnh nhất, ít chịu ảnh hưởng nhất từ cuộc suy thối cũng
cảm nhận được rõ nét sức nóng của những diễn biến phức tạp này với việc Văn
phòng Nội các Nhật Bản chính thức cơng bố nền kinh tế nước này đã rơi vào
suy thoái vào ngày 17/11/2008. Trước đó, ngày 14/11, 15 nước châu Âu cũng
thừa nhận đã lâm vào khủng hoảng.

Tiếp đến, do Mỹ, châu Âu và Nhật Bản là những thị trường xuất khẩu
quan trọng của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển (nhất là khu vực
Đơng Á) nên suy thối và suy giảm tăng trưởng kinh tế từ thế giới phát triển đã
làm giảm xuất khẩu của các nước này. Đồng thời, vì các nước phát triển là
nguồn cung cấp các khoản vay ngân hàng, các khoản vốn đầu tư trực tiếp và
gián tiếp cho các nước đang phát triển, nên khi các nước phát triển dừng cho
vay, dừng giải ngân hay rút vốn về, nhiều nền kinh tế đang phát triển đã bị tác
động tiêu cực nghiêm trọng. Giảm sản xuất trên quy mơ tồn cầu dẫn tới giảm
lượng cầu về năng lượng và nguyên liệu, khiến cho các nước xuất khẩu dầu và
nguyên liệu ở Trung Đông, Nam Mỹ, Trung Á và Nga cũng chịu những ảnh
hưởng nặng nề của cuộc suy thoái.
Cũng trong năm 2008, trong khi lãnh đạo kinh tế Mỹ và châu Âu còn
đang vật lộn với khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế thì hai khu vực này
lại một lần nữa rung chuyển vào ngày 11/12 bởi vụ lừa đảo 50 tỷ USD của


Bernard Madoff bị vỡ lở,8 kéo theo đó là hàng nghìn nạn nhân đang đối mặt với
nguy cơ mất trắng tiền đầu tư. Tình trạng đóng băng của thị trường tài chính
tiếp tục dẫn đến sự giảm sút trong hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp
cũng như chi tiêu của người dân. Nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ thất
nghiệp tại nhiều quốc gia tăng cao, chi tiêu và chỉ số lòng tin của người tiêu
dùng rơi vào mức thấp nhất trong nhiều năm. Trong đó ngành công nghiệp ô tô trụ cột của hầu hết các nền kinh tế lớn bị khủng hoảng nặng nề nhất, làm cho tỷ
lệ thất nghiệp càng tăng cao.
Để ngăn chặn suy giảm tăng trưởng, khôi phục kinh tế, hầu hết các nước
bị tác động đã áp dụng tích cực chính sách kích thích kinh tế, đặc biệt là kích
cầu. Đến giữa năm 2009, dấu hiệu phục hồi kinh tế đã bắt đầu thấy ở các nước
bị tác động.
Cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu dẫn đến suy thối kinh tế giai đoạn
2007-2009 có nhiều đặc trưng mới, là cuộc khủng hoảng có tính thế kỷ, phản
ánh sự bất lực của các thể chế kinh tế tân tự do, sự bất cập của mối quan hệ giữa

nhà nước với thị trường. Nhưng quy mơ và tính chất của nó có có sự tác động
sâu rộng hơn so với các cuộc khủng hoảng trước đó, kể cả cuộc đại khủng
hoảng 1929-1933.
Thuộc nhóm các nền kinh tế đang phát triển đi sau, với quy mơ nền kinh
tế cịn nhỏ, xuất phát điểm thấp nhưng đã hội nhập sâu, rộng vào khu vực và thế
giới trên tất cả các cấp độ, nền kinh tế Việt Nam chịu sự tác động sâu sắc của
cuộc khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu. Trong đó, hoạt động
FDI có thể coi là hoạt động chịu tác động trực tiếp và trước tiên bởi mối liên hệ
sâu sắc với quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam với các nước.
2.2.2. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong bối
cảnh suy thối kinh tế tồn cầu giai đoạn 2007-2009
8 Viện Kinh tế và chính trị thế giới, Kinh tế, chính trị thế giới năm 2008 và triển vọng năm 2009, NXB Từ điển
Bách khoa, Hà Nội, 2009.


2.2.2.1. Tình hình cấp phép và thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
Từ năm 2007 đến nay, Việt Nam đã thu hút được 4.079 dự án cấp mới với
tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 116.695,2 triệu USD. Trung bình
mỗi năm có khoảng 1.000 đến 1.400 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng
ký trung bình gần 29,2 tỷ USD. Nhìn chung các dự án FDI vào Việt Nam giai
đoạn này đều có quy mơ vừa và nhỏ, trung bình chỉ ở mức 28,6 triệu USD/dự
án. Kết quả thu hút vốn FDI của Việt Nam được đánh giá là duy trì và ít chịu
ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng tài chính tồn cầu.
Bảng 1: Tình hình thu hút vốn FDI tại Việt Nam giai đoạn 2007 đến nay
Số vốn đăng ký
Năm

Số dự án cấp mới

cấp mới và tăng thêm

(triệu USD)

Số vốn thực hiện
(triệu USD)

2007

1.544

21.347,8

8.030,0

2008

1.557

71.725,9

11.500,0

2009

839

21.482,1

10.000,0

Quý I/2010


139

2.139,4

2.500

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Đặc biệt, năm 2008 tuy số dự án cấp mới chỉ tăng 0,8% so với năm 2007
nhưng số vốn đăng ký đã lên tới con số kỷ lục là 71.725,9 triệu USD đã thực sự
là một dấu ấn sáng trong bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam đang gặp nhiều
khó khăn. Số vốn đăng ký tăng thêm năm 2008 cũng đạt mức ấn tượng với 397
dự án đăng ký tăng vốn, tổng số vốn đầu tư tăng thêm là 5,2 tỷ USD 9. Nếu so
sánh về số lượng, thì chỉ riêng phần vốn đầu tư tăng thêm của năm 2008 đã

9 Cập nhật số liệu đầu tư nước ngoài năm 2008, Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư/


tương đương với toàn bộ số vốn đăng ký của năm 2000. Hiện tượng này có thể
giải thích bởi nhiều lý do bao gồm cả khách quan và chủ quan:
- Thứ nhất, Việt Nam có những điều kiện an tồn để thu hút FDI trong khi
các thị trường khác mất đi những lợi thế này khi suy thoái kinh tế xảy ra: Nhóm
quy mơ thị trường (GDP, tốc độ tăng trưởng, dân số) lớn; nguồn lực tiềm năng
dồi dào (nhân lực, tài nguyên, chính sách đổi mới); vị trí địa lý thuận lợi; ổn
định về chính trị. Với những lợi thế đó thì trong con mắt các nhà đầu tư, Việt
Nam vẫn được coi là thị trường làm ăn lâu dài.
- Thứ hai, suy thối kinh tế có ảnh hưởng tới Việt Nam nhưng chậm và
gây những tổn thất ít nặng nề hơn so với các nước có nền kinh tế phát triển và
đang nổi do độ mở cửa về tài chính chưa rộng, đồng tiền chưa chuyển đổi, sự

chủ động ứng phó của Nhà nước…Chính vì vậy, khi phải rút một lượng vốn về
để bảo toàn khu vực trung tâm mà vẫn muốn tạo dựng một thị trường đầu tư
nhỏ, an toàn, đáng tin cậy, các nhà ĐTNN đã chọn Việt Nam là đối tác.
- Thứ ba, dưới sự ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tồn cầu, hoạt
động FDI chịu sự tác động với một “độ trễ” tạm thời so với hoạt động của thị
trường tài chính - tiền tệ bởi nhà ĐTNN phải tiếp tục hoàn thiện các dự án của
giai đoạn trước với những ràng buộc về đăng ký đầu tư tại nước nhận đầu tư.
Cho nên khi khủng hoảng tài chính đã bắt đầu diễn ra vào năm 2007 và ảnh
hưởng sâu rộng tới kinh tế tồn cầu vào năm 2008 thì hoạt động FDI của Việt
Nam lại không hề chịu những tác động tiêu cực và cho đến năm 2009 mới có
dấu hiệu suy giảm rõ nét.
- Thứ tư, đây là một thành quả có được khơng phải bằng sự nỗ lực của
một hay hai năm, mà đó là sự nỗ lực và tích tụ của một quá trình rất dài mà Việt
Nam đã chú trọng trong suốt 20 năm đổi mới hoạt động đầu tư. Sự chuyển biến
thật sự rõ nét kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành viên của WTO - sự kiện
kinh tế đối ngoại đặc biệt - tạo nên khả năng rộng mở để nước ta hội nhập với
nền kinh tế các quốc gia tiên tiến. Vì lẽ đó, Việt Nam đã trở thành điểm đến của


các nhà ĐTNN và nhanh chóng vươn lên đứng thứ 6 trong số 15 nước trên thế
giới thu hút FDI hàng đầu trong năm 2007-200810.
Tuy nhiên, mặc dù mức vốn thực hiện năm 2008 đạt mức kỷ lục từ trước
tới nay là 11.500 triệu USD tăng 43,2% so năm 2007, song số vốn thực hiện chỉ
chiếm 16% tổng số vốn đăng ký. Khách quan để nhìn nhận thì khó có thể địi
hỏi tồn bộ phần vốn đăng ký trong năm 2008 được thực hiện ngay bởi độ trễ
cần thiết để các dự án đăng ký đi vào hoạt động thường mất khoảng vài ba năm,
có khi cịn kéo dài hơn với những dự án quy mô lớn. Nhưng tỷ lệ giải ngân thấp
cũng nói nên rằng nhà ĐTNN đón cơ hội nhưng vẫn chưa nỗ lực thực hiện. Ở
Việt Nam, họ đã nhìn thấy sự bất ổn của mơi trường kinh tế vĩ mô với những
dấu hiệu về lạm phát cao, nhu cầu tăng cao đòi hỏi phải tăng lương… cũng như

những hạn chế cố hữu về thể chế, luật lệ, tính dự báo của chính sách mà Việt
Nam vẫn chưa khắc phục được, khiến nhà ĐTNN trì hỗn triển khai dự án vì lo
ngại khả năng cạnh tranh giảm sút.
Cho đến năm 2009, sự tàn phá của cuộc suy thoái kinh tế đã thực sự gây
những tác động rõ nét, làm suy giảm nghiêm trọng dòng vốn FDI vào Việt Nam.
Đây là lần đầu tiên dòng vốn FDI vào Việt Nam giảm sau 5 năm tăng liên tục ở
mức cao. So với năm 2008, số dự án cấp mới năm 2009 bằng 53,9%, số vốn
đăng ký bằng 30%; số vốn thực hiện bằng 87%. Hiện tượng này có thể dễ dàng
được nhìn nhận với những lý do đã nêu ở trên cho thấy sự ảnh hưởng chậm
nhưng là đáng kể của suy thoái kinh tế đối với hoạt động FDI vào nước ta.
Đến quý I năm 2010, FDI vào Việt Nam đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi,
đặc biệt là số vốn thực hiện tăng lên đáng kể với 2.500 triệu USD, tăng 13,6%
so với cùng kỳ năm 2009, số vốn đăng ký là 2139,4 triệu USD bằng 29,3%, số
dự án là 139 dự án bằng 59,1% so với cùng kỳ năm 2009. Nguyên nhân do nền
kinh tế của thế giới và Việt Nam đã bắt đầu có những dấu hiệu phục hồi tích

10 Cơ sở dữ liệu Worldwide Intellectual Property Search năm 2008/ />

cực, các hoạt động kinh tế đang đi vào ổn định dần củng cố lòng tin của các nhà
ĐTNN sau thời kỳ suy thoái.
2.2.2.2. Phân bổ FDI theo ngành
Trong giai đoạn 2007 đến nay, công nghiệp là ngành tạo ra sức hút đầu tư
lớn nhất và là đặc trưng nổi bật trong cơ cấu FDI. Bảng 2 cho thấy các dự án
thuộc lĩnh vực công nghiệp chiếm tới 59% tổng số dự án và 48,3% tổng số vốn
đăng ký. Do nước ta đang đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
việc dịng vốn FDI tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp là một điều tất
yếu. Đáng chú ý, nếu như trước kia FDI hướng vào những ngành cơng nghiệp
khai thác và thay thế nhập khẩu thì kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO (2007),
các dự án FDI vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và định hướng xuất
khẩu đã tăng nhanh, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong

những năm gần đây. Lĩnh vực xây dựng xếp thứ hai do nền kinh tế đang phát
triển có nhu cầu cao về hạ tầng.
Bảng 2: Tình hình FDI tại Việt Nam phân theo các ngành kinh tế (2007-nay)
STT

Ngành

Số dự án

Tỷ lệ (%)

Vốn đăng ký  (triệu
USD)

Tỷ lệ (%)

1

Công nghiệp

2.405

59

56.330,9

48,3

2


Dịch vụ

1.607

39,4

59.888,9

51,3

3

Nông nghiệp

67

1,6

475,5

0,4

Nguồn: Tổng cục Thống kê và Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Tuy nhiên, so với dịch vụ, tỷ trọng số dự án vào lĩnh vực công nghiệp lớn
hơn 19,6% tương đương 798 dự án, nhưng tỷ trọng vốn đăng ký lại chỉ xếp vị trí
thứ hai, nhỏ hơn 3% tương đương 3.558 triệu USD. Điều này cho thấy FDI vào

∗ Bao gồm cả vốn cấp mới và vốn tăng thêm của các dự án.



công nghiệp tuy tăng nhiều nhưng quy mô dự án nhỏ, chứng tỏ sự đa dạng trong
ngành nghề đầu tư.
Sau công nghiệp, dịch vụ cũng là lĩnh vực thu hút khơng ít sự quan tâm
của các nhà ĐTNN, hiện chiếm 39,4tổng số dự án và 51,3% tổng số vốn đăng
ký của cả nước. Trong đó, đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản chiếm
ưu thế nổi bật nhất. Với việc ban hành Luật Kinh doanh bất động sản và đổi mới
chính sách đất đai, lĩnh vực này đã vươn lên vị trí đứng đầu trong cơ cấu FDI
các ngành cả năm 2007, 2009 và quý I năm 2010, sau đó mới kể tới dịch vụ lưu
trú và ăn uống. Về lâu dài, Việt Nam được coi là nền kinh tế phát triển nhanh
nên có nhu cầu cao về bất động sản liên quan đến hạ tầng (văn phòng, khu cơng
nghiệp, kho bãi…), lại có vẻ đẹp tiềm ẩn thu hút nhiều du khách nên nhu cầu
khách sạn cao cấp, khu vui chơi giải trí cũng nhiều. Trong khi Việt Nam vẫn
đang thiếu nguồn cung thì nguồn vốn FDI sẽ giúp nước ta sớm thu hẹp khoảng
cách, tăng sức hấp dẫn do dịch vụ đầy đủ và cơ sở hạ tầng được hiện đại hóa.
Trong cơ cấu ngành FDI, nơng nghiệp là lĩnh vực thu hút được ít nhất sự
quan tâm của các nhà ĐTNN kể cả số dự án và số vốn đăng ký, chỉ chiếm 1,6%
tổng số dự án và 0,4% tổng số vốn đăng ký. Là ngành phụ thuộc nhiều vào tự
nhiên nên sản xuất nông nghiệp vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro; sản phẩm nông nghiệp
cũng có tỉ suất lợi nhuận thấp nên mức thu nhập khơng cao, do đó các nhà đầu
tư khơng chú trọng đầu tư vào lĩnh vực này. Mà trong đó, đầu tư vào nông
nghiệp chủ yếu vẫn là các ngành chế biến nông sản và thực phẩm, là bởi so với
hoạt động trồng trọt và chăn nuôi, các hoạt động chế biến có khả năng thu hồi
vốn nhanh hơn, ít rủi ro hơn.
Tuy nhiên, vào năm 2008, FDI vào nông nghiệp lại có dấu hiệu tăng với
35 dự án và 331,98 triệu USD tăng hơn 9 dự án và 273,38 triệu USD so với năm
200711 là mức thu hút FDI kỷ lục so với những năm trước đó. Nguyên nhân là
trong thời kỳ suy thoái kinh tế, cầu đối với các sản phẩm nông nghiệp tương đối
11 Cập nhật số liệu đầu tư nước ngoài năm 2008, Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư/



ổn định, ít co giãn, cùng với tình hình giá lương thực tăng nhanh và sự lo ngại
về vấn đề an ninh lương thực ở nhiều nước trên thế giới là động lực thơi thúc
dịng vốn FDI tiếp tục chảy vào khu vực nông nghiệp ở nước ta - nơi có lợi thế
về sản xuất nơng nghiệp lâu đời.
2.2.2.3. Phân bổ FDI theo địa phương
Do tỷ trọng FDI tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp và dịch vụ nên
ở những địa phương có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi, có tiềm lực phát triển
hai ngành này cũng sẽ là nơi thu hút chủ yếu hoạt động FDI từ các nhà ĐTNN.
Phần lớn các dự án FDI đều tập trung ở khu vực đồng bằng, các vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam và phía Bắc, trong khi đó các tỉnh vùng núi, vùng sâu,
vùng xa thì lại rất ít.

Đông Nam Bộ đứng đầu cả nước về số dự án và số vốn thu hút, chiếm
đến 55,3% tổng số dự án và 50,5% tổng số vốn đăng ký. Đây là khu vực kinh tế
phát triển nhất Việt Nam, đóng góp hơn 2/3 thu ngân sách hàng năm, có tỷ lệ đơ
thị hóa 50%. Vốn thu hút FDI của khu vực này nổi bật ở các tỉnh: Đồng Nai,
Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh. Liên tiếp trong hai năm và quý I năm
2010, Vũng Tàu là tỉnh thu hút vốn FDI cao nhất cả nước với hơn 11.358,6 triệu
USD (2008) và 673,1 triệu USD (2009). Tương lai của khu vực này là các dự án
lớn như: Đường cao tốc Dầu Giây - Long Thành, đường cao tốc Biên Hoà -


Vũng Tàu, sân bay quốc tế Long Thành, thành phố mới Nhơn Trạch (Đồng
Nai), cầu Đồng Nai mới, các trung tâm công nghiệp mới Trảng Bom, Long
Thành. Theo kế hoạch, đến năm 2020, Bình Dương sẽ trở thành đơ thị loại 1 và
là thành phố trực thuộc trung ương. Với những tiềm lực kinh tế mạnh mẽ đó,
Đơng Nam Bộ luôn là điểm đến hấp dẫn với các nhà ĐTNN bởi những điều
kiện phát triển vượt trội so với các vùng lãnh thổ khác trong cả nước.
Là một trong hai vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, ĐBSH chỉ đứng

sau Đơng Nam Bộ về tình hình thu hút FDI với 29,1% tổng số dự án và 13,5%
tổng số vốn đăng ký. Nằm trong vùng đất rộng lớn quanh khu vực hạ lưu sông
Hồng thuộc miền Bắc Việt Nam, ĐBSH là vùng có nhiều những lợi thế về điều
kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên cùng với lịch sử khai phá lâu đời, là nơi
tập trung nhiều di tích, lễ hội, làng nghề truyền thống, có kết cấu hạ tầng phát
triển mạnh: đường bộ có quốc lộ 1A, quốc lộ 2, 3, 6, 32, 18…tuyến đường sắt
Bắc - Nam và toả đi các nơi; sân bay quốc tế Nội Bài, sân bay Cát Bi; cảng Hải
Phịng. ĐBSH có 2 trung tâm kinh tế xã hội lớn là thủ đô Hà Nội và Hải Phòng.
Với những điều kiện thuận lợi như trên, vùng được coi là điểm đến hấp dẫn của
các nhà ĐTNN.

Ngoài hai vùng trên, Nam Trung Bộ cũng đang thu hút nhiều sự chú ý của
các nhà ĐTNN chiếm 4,5% tổng số dự án và 15,9% tổng số vốn đăng ký. Đây


là vùng có vị trí địa lý rất thuận lợi, nằm trên trục các đường giao thông bộ, sắt,
hàng không và biển, gần thành phố Hồ Chí Minh và khu tam giác kinh tế trọng
điểm Đông Nam Bộ; cửa ngõ của Tây Nguyên, của đường xuyên Á ra biển nối
với đường hàng hải quốc tế. Chùm cảng nước sâu đảm bảo tàu có trọng tải lớn
vào được, có sẵn cơ sở hạ tầng và nhiều đất xây dựng để xây dựng các KCN tập
trung gắn với các cảng nước sâu. Bên cạnh triển vọng về dầu khí ở thềm lục địa,
Nam Trung Bộ nằm trong khu vực có tiềm năng về khoáng sản đáng chú ý là sa
khoáng nặng, cát trắng, đá ốp lát, nước khống, vàng. Vùng đã hình thành nên
một số KKT lớn như: Chân Mây - Lăng Cô, Dung Quất, Chu Lai, Nhơn Hội…
Nhưng do đường bờ biển kéo dài nên đây cũng là vùng phải gánh chịu nhiều
thiên tai, bão lụt. Vì vậy, mặc dù tình hình thu hút FDI vào Nam Trung Bộ chỉ
đứng sau Đơng Nam Bộ và ĐBSH nhưng nhìn chung vẫn cịn nhiều hạn chế, tỷ
trọng dòng vốn FDI nhỏ hơn nhiều so với hai vùng trên.
Các vùng còn lại (TDMNPB, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ, ĐBSCL) chưa
tạo được sức hút mạnh với các nhà ĐTNN. Mặc dù mỗi vùng nói trên đều có

những lợi thế riêng nhưng nhìn chung vẫn là những địa bàn có xuất phát điểm
kinh tế thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, giao thông đi lại không thuận lợi, trình độ
lao động cịn hạn chế so với các vùng kinh tế trọng điểm khác của cả nước.
2.2.2.4. Phân bổ FDI theo đối tác đầu tư
Trong giai đoạn 2007-nay, đã có 71 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào
Việt Nam, chủ yếu đến từ châu Á (3.085 dự án chiếm 76% tổng số dự án và
76.292,2 triệu USD chiếm 65,4% tổng số vốn đầu tư). Các đối tác châu Á lớn
bao gồm Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông.
Địa bàn đầu tư của các nước này chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội,
Hải Phịng, Đồng Nai, Bình Dương và vốn đầu tư tập trung vào các ngành công
nghiệp và xây dựng. Bên cạnh đó, mặc dù có mặt rất sớm tại Việt Nam nhưng từ
sau năm 2008 cho đến nay, dòng vốn FDI của các nước ASEAN vào nước ta


giảm sút nghiêm trọng, các đối tác ít dần, chỉ có Singpore, Thái Lan, Maylaisia
(đứng đầu trong các đối tác đầu tư năm 2008) có sự tham gia đầu tư thường xuyên.
Các nước châu Âu là những đối tác lớn thứ hai đầu tư vào Việt Nam với
710 dự án chiếm 17,5% tổng số dự án và 28.295,01 triệu USD chiếm 24,3%
tổng số vốn đăng ký. Các dự án của châu Âu có quy mơ đầu tư lớn, vốn bình
qn một dự án khoảng 39,9 triệu USD gấp 1,6 lần so với các đối tác châu Á.
Về mặt công nghệ, các đối tác châu Âu thường đưa vào Việt Nam công nghệ
tiên tiến, đảm bảo sản phẩm đạt chất lượng quốc tế nhưng cũng vì vậy mà số
lượng lao động được sử dụng khơng nhiều. Bình qn một dự án của châu Âu
tạo ra trên 100 chỗ làm việc so với 150 chỗ làm việc bình quân một dự án của
đối tác châu Á. Các quốc gia và vùng lãnh thổ như Quần đảo Virgin, Pháp, Hà
Lan, Đức, Anh, Quần đảo Caymen là những đối tác châu Âu đầu tư chủ yếu vào
Việt Nam.

Khu vực châu Mỹ (gồm Bắc Mỹ và một số đảo thuộc khu vực Caribe)
hiện có 154 dự án chiếm 3,8% tổng số dự án và 11.403,5 triệu USD chiếm 9,7%

tổng số vốn đăng ký xếp thứ 3 sau châu Á và châu Âu về hoạt động đầu tư vào
Việt Nam. Riêng Mỹ, Quần đảo Caymen, Quần đảo Virgin ln có mặt trong số
những nhà đầu tư hàng đầu vào nước ta. Năm 2009, Mỹ là nước đứng đầu về số


vốn đầu tư với 9.803,1 triệu USD, Quần đảo Caymen xếp vị trí thứ hai với
2.018,9 triệu USD vốn đăng ký. Quy mơ vốn bình qn cho một dự án là 74
triệu USD, lớn nhất trong số các đối tác và vượt hơn hẳn so với châu Âu và
châu Á. Các nhà đầu tư châu Mỹ chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực cơng nghiệp và
dịch vụ. Ngồi các dự án thăm dị, khai thác dầu khí, các dự án châu Mỹ chủ
yếu triển khai tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương.

Các khu vực cịn lại là châu Úc và châu Phi có tỷ lệ đầu tư vào Việt Nam
còn thấp: châu Úc là 2,4% tổng số dự án, 0,5% tổng số vốn và châu Phi là 0,3%
tổng số dự án, 0,1% tổng số vốn. Đây là những khu vực cịn gặp nhiều khó khăn
về kinh tế và chưa có quan hệ kinh tế đối ngoại rộng rãi với Việt Nam nên hoạt
động ĐTNN còn nhiều hạn chế, đầu tư chỉ mang tính nhỏ giọt.
So với năm 2007, sự đầu tư của các đối tác trong năm 2008 đều có xu
hướng tăng, đạt mức kỷ lục từ trước đến nay. Việc trở thành thành viên chính
thức của WTO cùng với việc tham gia Khu vực Thương mại tự do ASEAN
(AFTA), Thỏa thuận ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc… thực hiện
các thỏa thuận song phương như Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,
Hiệp định đối tác Kinh tế toàn diện với Nhật Bản, tham gia các diễn đàn hợp tác
kinh tế liên khu vực ASEM, APEC, Việt Nam đã thật sự bước vào thời kỳ mở


rộng hội nhập với nền kinh tế thế giới, thu hút được sự quan tâm của các nền
kinh tế khác. Cho nên, mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính có nhiều diễn biến
phức tạp, làm kinh tế nhiều nước rơi vào suy thoái nhưng sự đầu tư vào Việt
Nam cũng khơng hề bị giảm sút, ngược lại cịn tạo nên những bước tiến mới

chưa từng có trong hoạt động FDI.
Nhưng cho đến năm 2009 - khi hậu quả của cuộc suy thoái đã thực sự tác
động vào Việt Nam, sự đầu tư của các đối tác có thay đổi tương ứng với sự thiệt
hại mà cuộc suy thoái tác động lên những nước này. Số vốn đăng ký đầu tư của
các khu vực đều sụt giảm mạnh, trong đó châu Phi chỉ bằng 9,2 %; châu Á bằng
13,7%; châu Âu bằng 23,2%; châu Úc bằng 31,1% so với năm 2008. Riêng
châu Mỹ tăng ở mức đột biến, số vốn đăng ký tăng 9.796 triệu USD so với năm
2008, đặc biệt Mỹ - quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của cuộc khủng
hoảng tài chính lại là nước dẫn đầu về đầu tư vào Việt Nam năm 2009 với 43 dự
án và 9.803,1 triệu USD, chiếm 45,6% tổng số vốn đăng ký. Do có tiềm lực
kinh tế mạnh mẽ và sự can thiệp kịp thời của Chính phủ, Mỹ đã nhanh chóng
phục hồi kinh tế sau khi suy thối và thận trọng hơn trong những bước tiến đầu
tư ra nước ngồi của mình. Chính mơi trường kinh doanh có nhiều hấp dẫn, sự
ổn định về chính trị của Việt Nam đã củng cố lòng tin của các nhà đầu tư Mỹ.
2.2.4.5. Phân bổ FDI theo hình thức đầu tư
Trong giai đoạn 2008 cho đến nay, hình thức đầu tư 100% vốn nước
ngoài chiếm ưu thế nổi bật nhất với 1.989 dự án chiếm 78,5% tổng số dự án và
61.035 triệu USD chiếm 64% tổng số vốn đăng ký, tập trung chủ yếu ở các đô
thị lớn và các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đặc biệt là Bà Rịa - Vũng Tàu,
thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai do đây là những khu vực kinh tế phát triển,
hoạt động thương mại sôi động, nhộn nhịp. Đứng thứ hai sau hình thức 100%
vốn nước ngồi là hình thức liên doanh với 447 dự án chiếm 17,6% tổng số vốn
và 31.183,4 triệu USD chiếm 32,7% tổng số vốn đăng ký.


Trong thời kỳ đầu kể từ khi Luật đầu tư trực tiếp nước ngồi được ban
hành thì hình thức đầu tư thơng qua thành lập liên doanh là hình thức phổ biến
nhất nhưng cho đến những năm gần đây hình thức 100% vốn nước ngoài lại
chiếm ưu thế nhất. Nguyên nhân do sau một thời gian hoạt động trong môi
trường đầu tư của Việt Nam, các nhà ĐTNN đã có những hiểu biết về điều kiện

kinh tế xã hội, con người và hệ thống pháp luật của Việt Nam. Nhà ĐTNN có
thể th các chi nhánh cơng ty luật nước ngoài tư vấn cho họ hoặc làm các thủ
tục liên quan đến dự án FDI. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật của Việt Nam liên
quan đến hoạt động FDI không ngừng được cải thiện, các thủ tục cấp giấy phép
đầu tư và thành lập doanh nghiệp có vốn FDI được điều chỉnh theo hướng đơn
giản hơn. Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư được Chính phủ Việt
Nam cam kết rõ ràng hơn. Ngoài ra, các cán bộ Việt Nam tham gia liên doanh
thường có trình độ quản lý yếu, vốn góp trong liên doanh khơng cao chủ yếu là
giá trị quyền sử dụng đất nên các nhà ĐTNN không muốn chia sẻ quyền lợi cho
bên đối tác Việt Nam.


Hình thức cơng ty cổ phần đứng vị trí thứ ba với 87 dự án chiếm 3,4%
tổng số vốn và 2.634,5 triệu USD chiếm 2,7 % tổng số vốn. Đây là hình thức
ngày càng trở nên phổ biến hơn bởi sự phát triển lớn mạnh của các công ty cổ
phần từ sau chủ trương tiến hành ồ ạt cổ phần hóa theo Nghị định số
187/2004/NĐ-CP về chuyển cơng ty nhà nước thành cơng ty cổ phần. Theo đó
bán đấu giá cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hóa cịn trở thành một động
lực cho sự phát triển của thị trường cổ phiếu niêm yết ở Việt Nam dẫn đến sự ra
đời mau mắn của các công ty cổ phần khơng phải cơng ty nhà nước khác, Hơn
nữa đây cịn là hình thức có quy mơ vốn và tổ chức vừa phải, phù hợp với nhiều
đối tượng các nhà ĐTNN.

Hoạt động FDI theo các hình thức cịn lại (hình thức hợp đồng hợp tác
kinh doanh, hợp đồng BOT, BT, BTO) chiếm tỷ trọng rất nhỏ do đây là những
hình thức đầu tư còn mới mẻ, chưa thật sự phổ biến với một nền kinh tế nhỏ bé,
có xuất phát điểm thấp như Việt Nam. Các dự án hoạt động theo hình thức này
chủ yếu trong khai thác, thăm dị dầu khí, có tốc độ tăng trưởng nhanh trong
thời kỳ 1988-2000 và có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây.



2.3. Thực trạng quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế giai đoạn 2007-2009
2.3.1. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thu hút hoạt động FDI được xây dựng
trên cơ sở chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội chung của
cả nước. Trong đó, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010 được coi là
kim chỉ nam cho mọi hoạt động QLNN về FDI. Bản chiến lược này đã coi việc
mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là một trong những phương
châm hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và lấy
việc “tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích người Việt Nam ở nước
ngồi về Việt Nam đầu tư kinh doanh” là chủ trương chính của Đảng, Nhà nước
đối với hoạt động FDI trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, Nghị quyết
56/2006/QH11 về Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 đã cụ thể
hóa hơn những chiến lược về thu hút FDI khi nhấn mạnh những trọng tâm:
“Chủ động hội nhập kinh tế sâu rộng hơn với khu vực và thế giới… Tận dụng
điều kiện thuận lợi, phát huy lợi thế, hạn chế những tác động bất lợi trong hội
nhập để tăng cường thu hút nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.”
Nhìn chung, qua những chiến lược, chính sách chung đề ra, Đảng và Nhà
nước đã thể hiện sự quan tâm, chú trọng phát triển hoạt động FDI như một trong
những mục tiêu cơ bản thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Những định hướng cơ bản này đã trở thành cơ sở cho Bộ Kế hoạch Đầu tư, các
Bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp hình thành nên những chiến lược,
kế hoạch, quy hoạch về FDI đối với ngành, lĩnh vực và địa phương mình.
Nhưng thực tế cũng cho thấy, những mục tiêu và giải pháp đề ra nhiều khi cịn
q chung chung, chưa mang tính khả thi.
2.3.2. Xây dựng và thực thi hệ thống chính sách, pháp luật


- Chính phủ đã tập trung chỉ đạo xây dựng và hồn thiện hệ thống chính

sách, pháp luật phục vụ hoạt động QLNN về FDI. Tiêu biểu là sự ra đời của
Luật Đầu tư năm 2005 - văn bản quy phạm pháp luật quan trọng nhất, điều
chỉnh chủ yếu hoạt động về đầu tư - đã khắc phục được những hạn chế của Luật
Đầu tư nước ngoài năm 1996 sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2000; nhất thể
hóa Luật Đầu tư nước ngồi và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Cùng với
Luật Đầu tư 2005, Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết
và hướng dẫn một số điều của Luật Đầu tư 2005 và những chính sách, pháp luật
mới đã tạo nên một nền tảng pháp lý mới, được áp dụng thống nhất cho các nhà
đầu tư cả trong và ngoài nước nhằm tạo ra sân chơi bình đẳng giữa các nhà đầu
tư nhưng đồng thời cũng bộc lộ một số hạn chế ở các phương diện:
+ Quy định chung: Khác cơ bản với Luật Đầu tư nước ngoài trước đây,
nhằm bảo đảm khả năng bao quát, không chồng lấn với các luật chuyên ngành,
Luật Đầu tư năm 2005 được thiết kế theo hướng chỉ quy định các nội dung liên
quan đến hoạt động đầu tư, cịn các nội dung liên quan mang tính chất đặc thù
được dẫn chiếu sang pháp luật chuyên nghành điều chỉnh. Ngoài ra, Nghị định
108/NĐ-CP đã bổ sung các thuật ngữ “dự án đầu tư mới”, “dự án đầu tư mở
rộng” để nhà đầu tư biết rõ trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư của mình
mà có liên quan đến ưu đãi đầu tư.
+ Hình thức đầu tư: Để bảo đảm tính linh hoạt của hoạt động đầu tư, Nghị
định 108/NĐ-CP có quy định về chuyển đổi hình thức đầu tư của doanh nghiệp
có vốn ĐTNN. Theo đó, nhà ĐTNN trong quá trình hoạt động của mình được tự
do chuyển đổi giữa các hình thức đầu tư để phù hợp với tình hình sản xuất kinh
doanh mà khơng bị cấm hoặc hạn chế. Họ còn được lựa chọn lĩnh vực đầu tư,
các biện pháp huy động vốn, vị trí địa lý và quy mô đầu tư, tự do lựa chọn đối
tác đầu tư và thời hạn đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư 2005 và các cam
kết của Việt Nam tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.


Tuy nhiên, việc cho phép các nhà ĐTNN góp vốn, mua cổ phần đến 49%
các doanh nghiệp Việt Nam theo Quyết định 88/2009/QĐ-TTg đã gây nhiều

vướng mắc từ khâu tổng hợp thông tin; cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh tới thẩm quyền cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư và theo dõi việc
triển khai dự án do không có đầu mối quản lý thống nhất.
+ Ưu đãi đầu tư: Luật Đầu tư 2005 có quy định về nguyên tắc khơng hồi
tố trong trường hợp có thay đổi chính sách nhằm tăng cường lòng tin cho các
nhà đầu tư. Để bám sát các vấn đề thực tế phát sinh trong ưu đãi đầu tư, pháp
luật đầu tư có quy định về điều chỉnh, bổ sung ưu đãi đầu tư. Thêm nữa, các nhà
đầu tư được tiếp cận bình đẳng với vốn, ngoại tệ, đất đai, tài nguyên, các dữ liệu
về nền kinh tế quốc dân và các cơ hội đầu tư. Loại bỏ tất cả các hình thức phân
biệt đối xử về giá và phí áp dụng với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
+ Thẩm tra đầu tư: Theo quy định của Nghị định 108/NĐ-CP, việc thẩm
tra các dự án đầu tư có sự tham gia của 7 cơ quan, trong cơ quan đó lại có rất
nhiều bộ phận tham gia vào quá trình thẩm tra. Trên thực tế, điều này đã gây
khó khăn cho nhà đầu tư: nhà đầu tư cần thiết phải quan hệ, làm việc với nhiều
cơ quan nên mất nhiều thời gian, tăng chi phí đầu tư, thậm chí cịn mất đi cơ hội
đầu tư. Ví dụ trường hợp Cơng ty xi măng Chinfon đã mất 3 năm để hồn tất
việc giải phóng mặt bằng vào mỏ khai thác cũng như các TTHC cho giấy phép
khai thác mỏ đá.
+ Thủ tục hành chính: Một điểm được coi là điểm mở rất thoáng và mới
đối với hoạt động ĐTNN đó là đối với ĐTNN đã được cấp Giấy chứng nhận
đầu tư tại Việt Nam, nếu nhà đầu tư có dự án đầu tư mới mà khơng thành lập
pháp nhân mới thì chỉ thực hiện thủ tục đầu tư để cấp Giấy chứng nhận đầu tư
theo quy định của Luật Đầu tư 2005. Luật cũng công nhận việc cấp Giấy chứng
nhận đầu tư cũng đồng thời là Giấy phép kinh doanh.
Để triển khai thực hiện dự án sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư,
các nhà ĐTNN phải tiếp tục tiến hành các TTHC khác về đầu tư. Các biện pháp


×