Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Tìm hiểu một số tư tưởng triết học trong kinh dịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.15 KB, 94 trang )

đại học quốc gia hà nội
Tr-ờng đại học khoa học xà hội và nhân văn
----------------------

Nguyễn anh nguyên

Tìm hiểu
một số t- t-ởng triết học
trong kinh dịch

Luận văn thạc sỹ triết học

Hà néi - 2009


đại học quốc gia hà nội
Tr-ờng đại học khoa học xà hội và nhân văn
----------------------

Nguyễn anh nguyên

Tìm hiểu
một số t- t-ởng triết học
trong kinh dịch

Chuyên ngành:
MÃ số :

Triết học
60.22.80


Luận văn thạc sỹ triết học

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học:
GS.TS Lê Văn Qu¸n


Hµ néi - 2009


MụC LụC
Mở ĐầU................................................................................................ Trang 1.
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................. Trang 1.
2. Tình hình nghiên cứu.............................................. Trang 2.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.................. Trang 10.
4. Cơ sở lý luận và ph-ơng pháp nghiên cứu
của luận văn................................................................. Trang 10.
5. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu
của luận văn..................................................................... Trang 11.
6. Đóng góp của luận văn....................................................Trang 11.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn..................... Trang 11.
8. Kết cấu của luận văn....................................................... Trang 11.
CHƯƠNG 1

BốI CảNH LịCH Sử
HìNH THàNH KINH DịCH.................................Trang 12.

1.1. Điều kiện kinh tế - x· héi Trung Qc.......................Trang 12.
1.2. TiỊn ®Ị t- t-ëng............................................................Trang 23.
CHƯƠNG 2


TìM HIểU MộT Số TƯ TƯởNG triết học
TRONG KINH DÞCH.………………...................
Trang 38.

2.1. T- t-ëng vỊ con ng-êi……………………………...... Trang 38.
2.2. T- t-ởng về đạo đức.....................Trang 45.
2.3. Quan niệm của Kinh Dịch
về sù tiÕn hãa x· héi con ng-êi……................. .......... Trang 60.
2.4. Một số biểu hiện ảnh h-ởng của Kinh Dịch
đối với các nhà t- t-ởng Việt Nam..............................Trang 68
KếT LUậN............................................ Trang 83.
DANH MụC TàI LIệU THAM KHảO.....................

Trang 86.


Mở ĐầU

1. Tính cấp thiết của đề tài
T- t-ởng triết học Trung Quốc cổ đại có một giá trị rất lớn trong nền
văn minh nhân loại. Trong hệ thống t- t-ởng triết học nổi tiếng đó có những
đóng góp rất lớn về mặt định h-ớng hoạt động thực tiễn nhằm thích ứng, cải
biến thực trạng xà hội đ-ơng thời; thúc đẩy sự phát triển xà hội tiến lên một
tầm cao mới. Những giá trị đó đà có tầm ảnh h-ởng sâu rộng tới tất cả các cá
nhân và xà hội.
Trên con đ-ờng đi tìm sự thích ứng của mỗi cá nhân trong việc khẳng
định cái tôi trong một cộng đồng, tập thể, xà hội; trong việc tu d-ỡng đạo đức,
đối nh©n xư thÕ, trong viƯc dơng binh, nhËn xÐt vỊ thời thế cũng nh- việc chờ
đợi thời cơNhững vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra trong bất cứ thời đại nào
cũng có thể tìm hiểu đ-ợc ít nhiều ở trong t- t-ởng của cổ nhân. Ng-ời x-a đÃ

để lại cho chúng ta một nền tảng tri thức vô cùng phong phú trong đó những
tri thức về con ng-ời, xà hội là một phần vô cùng quan trọng và thực sự qúy
giá, thiết thực trong cuộc sống hôm nay. Việc nghiên cứu một số t- t-ởng triết
học trong Kinh Dịch của luận văn cũng nhằm cố gắng làm rõ điều đó.
Nghiên cứu Kinh Dịch thực chất là nghiên cứu những t- t-ởng thể hiện
trong đó, nơi đây chứa đựng những t- t-ëng vỊ x· héi vµ con ng-êi nãi chung.
ë Trung Hoa có các nhà nghiên cứu đáng chú ý nh- Tào Thăng, Hứa Hanh,
Phùng Hữu Lan, V-u Sùng Hoa, Thiệu Vĩ Hoa Họ đà đạt đ-ợc rất nhiều
thành tựu về cả nghiên cứu khoa học, lý luận cũng nh- về chiêm bốc, độn
giáp
ở Việt Nam, tình hình lịch sử - xà hội có những đặc điểm đặc thù so với
các n-ớc nên tình hình nghiên cứu Kinh Dịch cũng có những điểm khác biệt.
Với n-ớc ta, nhu cầu về xử lý những vấn đề thiết thực của cuộc sống trong
những thời điểm lịch sử nhất định đ-ợc đề cao hơn so với việc nghiên cứu học
thuật một cách thuần túy. Do vậy, nh- học giả Nguyễn Hiến Lê nói trong
cuốn Kinh Dịch đạo của ng-ời quân tử là “ë n-íc ta ch-a cã ai cã thĨ gäi lµ
1


nhà Dịch học đ-ợc[46, 70]. Tuy vậy, theo ý kiến của ng-ời thực hiện luận
văn thì các học giả chuyên vỊ DÞch häc ë ViƯt Nam ch-a nhiỊu nh-ng hä cũng
đà ít nhiều đạt đ-ợc những thành tựu nhất định, phần nhiều các nhà nghiên
cứu Kinh Dịch để ứng dụng vào hoạt động thực tiễn xà hội, do vậy các tác
phẩm nghiên cứu Kinh Dịch họ để lại không nhiều và rất tản mạn trong các
ghi chép khác nhau; cần phải đ-ợc s-u tầm và tập hợp trong một thời gian
nhất định mới đạt đ-ợc kết qủa.
Trong hoàn cảnh nh- vậy, nếu việc nghiên cứu và học tập Kinh Dịch
chỉ thuần túy dựa vào các bản dịch từ tiếng n-ớc ngoài sang tiếng Việt thì
ch-a hẳn đà đ-ợc trọn vẹn. Có nhiều nguyên nhân nh- bản thân các tác phẩm
n-ớc ngoài ch-a hẳn tất cả đà thể hiện đ-ợc ý nghĩa của Kinh Dịch và việc

dịch tất cả các tác phẩm đó ra tiếng Việt là điều rất khó khăn. Đồng thời,
những tác phẩm ở n-ớc ngoài ch-a hẳn là đà phù hợp với chúng ta. Do vậy,
việc phải nghiên cứu Kinh Dịch một cách nghiêm túc và dựa trên tinh thần của
ng-ời Việt Nam là một đòi hỏi thực sự cần thiết nếu nh- chúng ta muốn nắm
đ-ợc tinh thần của Dịch học và ứng dụng những t- t-ởng tích cực của Dịch
vào việc xử lý các vấn đề của cá nhân và xà hội ở Việt Nam. Yêu cầu này
đang đ-ợc đặt ra một cách nghiêm túc, có nh- vËy chóng ta míi hi väng cã
thĨ cã tiÕng nói riêng của mình trên diễn đàn học thuật và t- t-ởng quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Kinh Dịch là một loại sách đ-ợc xếp vào hàng kinh điển của Nho gia,
đứng đầu trong Ngũ Kinh (Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Th-, Kinh Lễ, Kinh
Xuân Thu). Việc nghiên cứu Kinh Dịch trong lịch sử đà đạt đ-ợc rất nhiều
thành tựu với các nhà Dịch học tiêu biểu ở cả ph-ơng Tây và ph-ơng Đông.
ở ph-ơng Tây, theo tìm hiểu trong các t- liệu chúng tôi đ-ợc biết có
những nhà nghiên cứu về Kinh Dịch tiêu biểu nh-:
Meclatchie. Rev với A translation of the Confuchian Yi Kinh, or the
Classic of Changes (Th-ợng Hải, 1876). Cuốn này có một điểm rất lạ là tác
giả muốn đem những nghiên cứu về thần thoại để tìm hiểu những bí mật của
Kinh Dịch. Cuốn này có nhiều sự chú thích và phụ lục đính kèm.
2


Legge. J víi The texts of Confucianism, Pt II, the Yi King (Oxford,
1899). Đây là một bản dịch sát và kỹ l-ỡng bản Kinh Dịch in năm 1715 đời
Khang Hy nhà Thanh. Tuy nhiên, dịch giả không coi Kinh Dịch là một sách
bói, không tin môn bói Dịch, không có phần bàn về bói Dịch và những chú
thích của ông cũng còn sơ sài.
Wilhem. R với I Ging: das Buch der Wandlungen (Jena, 1924). Đây là
bản dịch đầy đủ, đ-ợc nhiều ng-ời đọc -a thích, bản này có lời giới thiệu rất
hay và lời mở đầu sâu sắc của Tiến sỹ C. Jung. Tuy nhiên, cách sắp xếp các

ch-ơng còn rắc rối, với những ng-ời mới đọc Dịch thì rất khó theo dõi. Sau
đó, Baynes. C lại dịch cuốn này ra tiÕng Anh víi nhan ®Ị The I Ching or Book
of Changes (London, 1950). Tõ b¶n I Ging: das Buch der Wandlungen của
Wilhem. R, Tienne Perrot. E đà dịch ra tiếng Pháp với tên gọi Yi King - Le
livre des transformations (Paris, 1971).
Blofeld. J víi The Book of Change (London, 1965). Đây là một bản dịch
Kinh Dịch khác của học giả ng-ời Anh. Cuốn này nói kỹ về cách bói, tuy
nhiên tác giả không dịch những lời chú thích của Khổng Tử về Kinh Dịch. Tác
giả muốn nói nhiều về phần Dịch truyện.
Siu. R với The man of many qualities; A legacy of the I Ching
(Cambridge, 1968). Đây là một bản dịch mới nói riêng về phần Dịch kinh thời
kỳ Chu Văn V-ơng và Chu Công. Dịch giả trích dẫn trên 700 chỗ trong văn
học thế giới để giải thích phần kinh đó. Trong tác phẩm này, tác giả nói về
cách bói với những ý t-ởng mới mẻ, hấp dẫn.
Ngoài ra, các học giả ph-ơng Tây đà vận dụng Kinh Dịch vào khoa học
kỹ thuật, đáng chú ý là:
Leibniz, nhà triết học và toán học ng-ời Đức (1646 - 1716) là ng-ời đầu
tiên nghĩ ra phép nhị phân thay cho phép thập phân bằng cách chỉ dùng hai
con số: Số 1 làm d-ơng và số 0 làm âm để mà máy tính điện tử. Hai con số
này mỗi nhóm 6 số và gồm 64 nhóm. Khi có điện vào thì đèn bật là 1 và khi
điện tắt là 0, cứ nh- thÕ trun c¸c tÝn hiƯu.

3


C. Jung, ng-ời gốc Thụy Sĩ, sinh năm 1875, cùng với Freud tạo ra khoa
phân tâm học. Ông là bạn của Wilhem. R, ng-ời đà dùng Kinh Dịch để tìm
hiểu tiềm thức con ng-ời, trong đó có cả việc bói toán.
L-u Tử Hoa, một nhà bác học Trung Quốc ở Anh cũng nói đà vận dụng
nguyên lý Bát quái từ năm 1930, tìm ra quỹ đạo hành tinh thứ 10 trong hệ

Mặt trời.
Hai nhà vật lý học ng-ời Mỹ gốc Trung Quốc là Tsung Tao Lee (Lý
Chính Đạo), giáo s- đại học Princeton và Tchen Ninh Ang (D-ơng Chấn
Ninh), giáo s- đại học Columbia đà tuyên bố nhờ nghiên cứu Dịch học mà
biết rằng, trong thế giới điện tử, phía trái và phía phải không nh- nhau, d-ơng
thì 9 mà âm thì 6, có tỷ số là 3/2. Hai ông chứng minh khi hạt nhân nguyên tử
nổ làm bắn ra những ly tử âm và ly tử d-ơng, tia d-ơng bắn xa hơn tia âm theo
tỷ lệ 3/2 tạo ra định luật số chẵn, lẻ. Hai ông đà đ-ợc nhận giải Nobel Vật lý
năm 1957.
Và nhiều tác giả khác nữa...
Hiện nay, trong giới học giả ng-ời Hoa, theo các tài liệu chúng tôi thu
thập đ-ợc thì có các nhà nghiên cứu sau là đáng chú ý:
Cao Hanh và Lý Kính Trình trong những năm đầu nghiên cứu Kinh
Dịch đều khẳng định đó là sách để xem bói. Với Chu Dịch cổ kinh kim chú,
Chu Dịch tạp luận, Cao Hanh đà giải thích trinh cát của lời hào thứ 4 (âm)
quẻ Thủy Địa Tỷ là bói gặp lời hào này, thì tốt (Phệ ngộ thử hào tắc cát);
giải thích gian trinh ở lời hào thứ 3 (dương) quẻ Địa Thiên Thái là Chiêm
vấn hoạn nạn chi sự, vị chi gian trinh (bói hỏi việc hoạn nạn, gọi là gian
trinh).v.v.. Lúc đầu, cũng giống nh- Lý Kính Trình, qua quyển Chu Dịch cỉ
kinh kim chó thĨ hiƯn râ rµng lêi nµo cđa quẻ là cùng loại với giáp cốt bốc từ.
Ông giải thích lời hào của một quẻ, vẫn ch-a kết hợp lời quẻ với hình t-ợng
quẻ, tên quẻ. Nh-ng về sau ông đà thay đổi ý kiến và có cách nhìn mới về
quan hệ giữa lời hào, lời quẻ và tượng quẻ, do đó, cách giải thích chữ trinh
cũng đà có thay đổi. Ví dụ, trong bài T- t-ởng triết học của lời hào, lời quẻ
của Chu Dịch, ông đà giải thích lời hào thứ 3, quẻ Đại Súc: L-ơng mà trôc,
4


lợi gian trinh, nhật hàn dữ vệ, lợi hữu du vÃng là C-ỡi ngựa tốt, (đi) xe
chắc, thì không sợ con đ-ờng gian nan và xa xôi, không giải thích chữ

trinh thành chiêm (xem, bói) hoặc chiêm vấn (hỏi quẻ, xem bói).
T-ơng tự Cao Hanh, Lý Kính Trình lúc đầu giải thích chữ trinh ở
Kinh Dịch là chiêm (xem, bói), chiêm tức là bốc vấn (hỏi quẻ, xem
bói). Thực ra, bốc vấn (hỏi quẻ, xem bói) là nghĩa gốc của chữ trinh, còn
chính là nghĩa mở rộng. Về sau, khi viết Chu Dịch thông nghĩa ông thừa
nhận: Hiểu rõ tên quẻ và lời hào của quẻ hoàn toàn có liên quan với nhau,
trong đó đa số, mỗi quẻ đều có một trung tâm t- t-ởng, tên quẻ là tiêu đề của
nó. Điều đó khẳng định sau này ông đà thay đổi cách nhìn nhận. Ông đà dẫn
ra những từ trinh cát, hối vong, vô cữu... có trong hào đều là thuyết minh và
phán đoán sự lý. Những lời hào của quẻ cũng có chứa đựng t- t-ởng tác giả.
Trên thực tế, hai ông đà có ph-ơng pháp nghiên cứu mới, lúc đầu hai ông quan
niệm Kinh Dịch là sách thuần tóy ®Ĩ xem bãi, nh-ng vỊ sau ®· thay ®ỉi ý
kiến.
Nhóm chỉnh lý Bạch th- ở mộ MÃ V-ơng Đôi đời Hán với MÃ V-ơng
Đôi Bạch th- Chu Dịch lục thập tứ quái thích văn. Tr-ơng Chính Long với
Bạch th- lục thập tứ quái bạt. Hào L-ơng với Bạch th- Chu Dịch... đây là các
nhóm tác giả nghiên cứu về các văn bản Chu Dịch viết trên lụa đ-ợc khai quật
trên các ngôi mộ cổ ở Tr-ờng Sa (Hồ Nam) và đà có những ý kiến nhận định
khác nhau về việc tìm hiểu Kinh Dịch khác với cách nghiên cứu truyền thống.
V-u Sùng Hoa với Mai hoa dịch tân biên. Ông V-u Sùng Hoa muốn
đem những tri thức khoa học thời hiện đại để chú giải những luận điểm của
học giả Thiệu Khang Tiết đời Tống. Cuốn này đà đ-ợc dịch giả Cao Hoàn
Diên Khánh dịch ra tiếng Việt (1997).
Fung Yu Lan (Phïng H÷u Lan) víi A History of Chinese Philosophy
(1937). Hiện tác phẩm này đà đ-ợc tác giả Lê Anh Minh dịch ra tiếng Việt với
nhan đề Lịch sử Triết học Trung Quốc (2006). Đây là một tác phẩm nghiên
cứu rất công phu về lịch sử triết học Trung Quốc do chính một học giả ng-ời
Trung Quốc viết, tác phẩm đà đ-ợc giới nghiên cứu ở ph-ơng Tây đánh gi¸ rÊt
5



cao và trở thành tài liệu nghiên cứu chính thức về lịch sử triết học Trung Quốc
trong các tr-ờng đại học ở ph-ơng Tây.
Gần đây, học giả Thiệu Vĩ Hoa với nhiều tác phẩm về dự đoán, bốc
quẻ đà gây những tiếng vang và có thể coi nh- đà tạo nên cơn sốt Dịch
học trên diễn đàn Dịch học quốc tế; một số tác phẩm của ông đà đ-ợc dịch ra
tiếng Việt nh-: Dự đoán theo tứ trụ (2002), Chu Dịch với dự đoán học
(2003) Tuy nhiên, các tác phẩm này phần nhiều đi về chiêm bốc, độn giáp
nên trong phạm vi luận văn không có điều kiện khảo cứu sâu.
ở Việt Nam, tr-ớc năm 1975 đà có ba bản dịch bộ Chu Dịch ra chữ
Quốc ngữ, đó là:
Kinh Dịch của Ngô Tất Tố, tác giả dựa vào bản Chu Dịch đại toàn đời
Minh - là bộ đầy đủ hơn hết - để dịch ra tiếng Việt. Bản dịch này của ông tuy
khá đầy đủ, song nhiều chỗ dịch vẫn qóa khã hiĨu, do sư dơng nhiỊu tõ H¸n
ViƯt cỉ, đôi khi ông cũng không dịch mà sử dụng luôn phiên âm tiếng Hán.
Nếu ng-ời nào không biết tiếng Hán thì khó mà có thể sử dụng đ-ợc quyển
của ông.
Chu Dịch của cụ Phan Bội Châu, nguyên gốc là bản Dịch học chú giải.
Mặc dù cụ Phan dịch quyển này từ những năm 30 của thế kỷ XX khi thực dân
Pháp buộc cụ phải an trí ở Huế, song đến năm 1969 mới đ-ợc Nhà sách Khai
Trí xuất bản với tên Chu Dịch. Cụ Sào Nam uyên thâm Hán học, cuộc đời
đ-ợc trải nghiệm qua nhiều phong ba hùng tráng, lại để nhiều năm nghiên cứu
về Dịch nên cả phần dịch và phần bình bộ Kinh Dịch của cụ đều hết sức có giá
trị. Có lẽ, đây vẫn là một trong những bộ Kinh Dịch đầy đủ và chan chứa
nhiều tình cảm của ng-ời biên soạn nhất ở Việt Nam cho tới thời điểm này.
Kinh Chu Dịch bản nghĩa của Nguyễn Duy Tinh. Ngoài phần Kinh thì
Nguyễn Duy Tinh cũng dịch thêm phần Truyện (tức Thập dực), mà trong cuốn
của Ngô Tất Tố không có.
Gần đây, có một số tác giả khác dịch lại cuốn Chu Dịch song phần lớn
đà không v-ợt đ-ợc những ng-ời đi tr-ớc. Chỉ có cuốn Kinh Dịch đạo của

ng-ời quân tử của Nguyễn Hiến Lê là khá đầy đủ nh-ng thực ra vẫn còn một
6


số chỗ tác giả dịch rất khó hiểu, thậm chí dùng nguyên nghĩa đen của tiếng
Hán khi dịch ra tiếng Việt nên khi diễn đạt các hào có phần g-ợng ép; ngoài
ra khi dịch tác giả dùng ngôn ngữ khu vực Nam Bộ nên cũng gây một số khó
khăn cho các độc giả ở các địa ph-ơng khác.
Tuy vậy, đà xuất hiện một số cuốn nh- Chu Dịch đại truyện của Lê
Anh Minh, Kinh Dịch và cấu hình t- t-ởng Trung Quốc của D-ơng Ngọc
Dũng và Lê Anh Minh giúp ích nhiều cho ng-ời đọc; đó là các bản dịch đầy
đủ, hoàn thiện và cập nhật. Ngoài việc căn cứ trên văn bản Hán cổ, các tác giả
- dịch giả còn đối sánh với nhiều bản dịch tiếng Trung Quốc hiện đại, tiếng
Anh, tiếng Pháp, tiếng Đứcnên độ chính xác của văn bản rất cao.
Chính vì cuốn Kinh Dịch có một nội dung rất phong phú, nhiều chiều,
nên các tác phÈm nghiªn cøu ë ViƯt Nam cịng cã mét néi dung rất khác nhau.
Những mảng t- t-ởng đ-ợc đề cập chủ yếu đến là bản thể luận, nhân sinh
quan, t-ợng số, thuật bói toán, độn giáp, v.v.. ở đây chúng tôi xin đ-ợc phác
thảo theo thứ tự thời gian những nét cơ bản về các tác phẩm đ-ợc nhiều ng-ời
biết đến nhất.
Cuốn Chu Dịch của cụ Phan Bội Châu vừa là một bản dịch, vừa là tác
phẩm nghiên cứu có giá trị. Nét đặc sắc trong chú giải của cụ không chỉ gói
gọn trong các phần Phát đoan từ, Phàm lệ, Đề bạt từ mà còn đặc biệt đ-ợc thể
hiện trong phần bình giảng của cụ đối với từng quẻ. Những nội dung cụ đề cập
về sự biến hóa cùng những quy luật của âm d-ơng trời đất, nhất là các nội
dung liên quan đến triết lý sống của con ng-ời, tuy không dài dòng nh-ng đÃ
không khác gì dọn gai gốc mà thấy đ-ờng bằng, vẹt mây mù mà thấy mặt
trời, làm cho chân t-ớng triết học của Thánh hiền Đông ph-ơng bị che lấp
mấy trăm đời, nay đ-ợc bày tỏ một cách sáng suốt, giá trị của bản sách này
không phải là ít [13, 7 8].

Năm 1953, Nhà xất bản Vỡ Đất ở Hà Nội cho in qun Mét nhËn xÐt vỊ
Kinh DÞch cđa Ngun Un DiƠm. Ông đặt ra nhiều vấn đề trái ng-ợc với
các nhà nho đi tr-ớc, ví dụ nh- những phân tích và nhận định về việc Khổng

7


Tử không hề san định Kinh Dịch, hay Kinh Dịch là quyển sách đi từ triết học
đến bói toán v.v..
Một trong những học giả viết nhiều về Kinh Dịch là Nguyễn Duy Cần.
Tác phẩm đầu tiên của ông về vấn đề này là Dịch học tinh hoa. Cuốn sách này
tập trung phân tích những thuật ngữ cơ bản trong Kinh Dịch để từ đó suy ra
các quy luật vận động của vạn vật. Bên cạnh việc dựng nên một bức tranh khá
mạch lạc về các nguyên lý chính của Dịch thì trong tác phẩm này Nguyễn
Duy Cần đà qúa c-ờng điệu tính tiên tri và thần bí trong Kinh Dịch dựa trên
ph-ơng pháp so sánh một chiều, từ đó ông đà phú cho Kinh Dịch nhiều chức
năng mà nó ch-a từng có. Tác phẩm thứ hai của Nguyễn Duy Cần, bổ trợ cho
cuốn tr-ớc là Chu Dịch huyền giải. Song đáng tiếc cuốn này nội dung không
có gì nhiều, hầu hết chỉ là nhắc lại những ý kiến cũ.
Một quyển đ-ợc đầu t- rất nhiều và viết khá sâu là Kinh Dịch với vũ trụ
quan Đông ph-ơng của Nguyễn Hữu L-ơng. Nội dung tác phẩm này t-ơng
đối khác với các cuốn khác, chủ yếu là bàn nhiều về Hà Đồ và Lạc Th-, là
những vấn đề t-ợng số học, từ đó tìm ra vũ trụ quan của Dịch nói riêng và của
ph-ơng Đông nói chung. Tuy chúng tôi không hoàn toàn đồng ý với cách tiếp
cận trên, song vẫn phải thừa nhận đây là một bộ sách khảo cứu hết sức công
phu và có giá trị không ít về mặt lý luận.
Trên đây là một số tr-ớc tác đ-ợc viết và xuất bản tr-ớc năm 1975. Bên
cạnh đó còn có một số cuốn sách nữa, nh- Dịch, Kỳ môn độn giáp của
Nguyễn Mạnh Bảo, Bói Dịch của Thanh Bồ, Dịch học nhập môn của Đỗ Đình
Tuân... song nội dung của các cuốn đó phần lớn là bói toán huyền bí hoặc y

dịch vì vậy ở đây chúng tôi không có điều kiện đề cập đến.
Từ sau năm 1975 đến nay, ở n-ớc ta xuất hiện một số tác phẩm nghiên
cứu Dịch học đáng qúy nh- Tinh hoa văn hoá Ph-ơng Đông: Chu Dịch-nhân
sinh và ứng xử, Sách học Kinh Dịch, Chu Dịch với khoa học quản lý, Chu
Dịch vũ trụ quan, Các nhà tiên tri Việt Nam, Khảo luận t- t-ởng Kinh Dịch
của tác giả Lê Văn Quán. Đây là các tác phẩm phản ánh nhiều khía cạnh
nghiên cứu khác nhau của tác giả, bao gồm cả lịch sử hình thành Kinh Dịch
8


trong lịch sử, những ứng dụng của Dịch học trong các lĩnh vực khác nhau nhquản lý, lập quẻ, xem ngày giờ, ứng xử đạo đức... rất có giá trị trong nghiªn
cøu khoa häc cịng nh- trong thùc tiƠn cc sống.
Nghiên cứu Chu Dịch do Trung tâm Trung Quốc học - Đại học Sphạm Hà Nội biên soạn. Đây là tập hợp các bài viết về Kinh Dịch d-ới nhiều
góc độ khác nhau nh- thế giới quan, nhân sinh quan, đạo đức... của các học
giả Nguyễn Tài Th-, Lê Văn Quán, Mai Xuân Hải, Phan Văn Các, Đặng Đức
Siêu
Các bài viÕt Mét vµi suy nghÜ vỊ thÕ giíi quan trong Kinh Dịch và Triết
lý Dĩ bất biến ứng vạn biến trong ph-ơng châm xử thế và hành động của
Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Hùng Hậu. Đây là hai bài viết phản ánh về
thế giới quan trong Kinh Dịch và tìm hiểu triết lý dĩ bất biến ứng vạn biến
của Ng-ời, ở các bài viết này tác giả nhấn mạnh về khía cạnh đạo đức trong
việc nghiên cứu triết lý hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Kinh dịch diễn giải Đạo lý m-u cầu tồn tại và phát triển do tác giả Trần
Trọng Sâm khảo cứu. Tuy nhiên, tác phẩm này phần nhiều đi về giải quẻ và
trích lại phần Dịch truyện nh- các tác phẩm đà có tr-ớc đây. Ch-a thấy đ-ợc ý
kiến riêng của tác giả về các vấn đề trong Kinh Dịch.
Từ điển Chu Dịch của Tr-ơng Thiện Văn. Ng-ời dịch: Tr-ơng Đình
Nguyên, Nguyễn Đức Sâm, Phan Văn Các, Mai Xuân Hải, Hoàng Văn Lâu,
L-ơng Gia Tĩnh, Trần Lê Sáng, Đặng Đức Siêu, Trần Ngọc Thuận, Lê Hạo,
Thích Thanh Quyết. Đây là bản dịch rất chi tiết cuốn Từ điển Chu Dịch của

tác giả Tr-ơng Thiện Văn. Các phần, mục, quẻ... của Kinh Dịch đ-ợc từ điển
giải thích rất chi tiết. Tuy nhiên, phải là những ng-ời nghiên cứu có trình độ
nhất định mới dùng đ-ợc cuốn này.
Và nhiều tác giả với những tác phẩm khác nữa
Nói một cách tổng quát có thể thấy rằng các t- t-ởng trong Kinh Dịch
đ-ợc nhiều tác giả tìm hiểu ở nhiều góc độ và đạt đ-ợc nhiều thành tựu khác
nhau. Đây chính là những tiền đề quan trọng ®Ĩ chóng t«i cã ®iỊu kiƯn thn

9


lợi trong việc đi vào nghiên cứu t- t-ởng triết học trong Kinh Dịch một cách
đầy đủ và sâu sắc hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Luận văn trình bày một cách có hệ thống và có chiều sâu những tt-ởng về con ng-ời và t- t-ởng ®¹o ®øc, quan niƯm vỊ sù tiÕn hãa x· héi con
ng-ời trong Kinh Dịch; đồng thời b-ớc đầu tìm hiểu một số ảnh h-ởng của
Kinh Dịch đến các nhà t- t-ởng Việt Nam.
Nhiệm vụ:
Để thực hiện các mục đích đà nêu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ cụ
thể cần phải giải quyết nh- sau:
Thứ nhất: Trình bày điều kiƯn kinh tÕ - x· héi, tiỊn ®Ị t- t-ëng của sự
hình thành Kinh Dịch.
Thứ hai: Giới thiệu nội dung Kinh Dịch.
Thứ ba: Phân tích những t- t-ởng về con ng-ời, đạo đức, quan niệm về
sự tiến hóa xà hội con ng-ời. Nêu lên những mặt tích cực và hạn chế của
những t- t-ởng đó trong xà hội phong kiến ngày x-a.
Thứ t-: Luận văn b-ớc đầu tìm hiểu một số biểu hiện ảnh h-ởng của
Kinh Dịch đến các nhà t- t-ëng ViƯt Nam (trong ®ã cã Hå ChÝ Minh).
4. Cơ sở lý luận và ph-ơng pháp nghiên cứu của luận văn

Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên Chủ nghĩa Mác-Lênin, t- t-ởng Hồ Chí Minh, đ-ờng
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc nghiên cứu lý luận, t- t-ởng; xem đó
là cơ sở lý luận để nhìn nhận và phân tích một số t- t-ởng triết học đ-ợc thể
hiện trong Kinh Dịch.
Ngoài ra, luận văn còn kế thừa những thành tựu, kết qủa của các công
trình nghiên cứu trong và ngoài n-ớc trên lĩnh vực nghiên cứu về triết học
ph-ơng Trung Quốc, lịch sử t- t-ởng Việt Nam.
Ph-ơng pháp nghiên cứu:

10


Luận văn sử dụng ph-ơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
ph-ơng pháp phân tích tổng hợp, ph-ơng pháp lôgíc, ph-ơng pháp so sánh.
5. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối t-ợng nghiên cứu:
Các t- t-ởng về con ng-ời, đạo đức, sự tiến hóa xà hội con ng-ời đ-ợc
thể hiện trong Kinh Dịch và một số biểu hiện ảnh h-ởng của Kinh Dịch đối
với các nhà t- t-ởng Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu, tìm hiểu một sè t- t-ëng triÕt häc trong
Kinh DÞch nh- t- t-ëng về con ng-ời, đạo đức, sự tiến hóa xà hội con ng-ời trong
Kinh Dịch bằng cách khảo cứu chi tiết các văn bản Kinh Dịch hiện hành, phân tích
điểm tích cực và hạn chế của những t- t-ởng đó và tìm hiểu một số biểu hiện ảnh
h-ởng của Kinh Dịch đối với các nhà t- t-ởng Việt Nam.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu và trình bày có hệ thống một số t- t-ởng triết học
đ-ợc thể hiện trong Kinh Dịch và một số biểu hiện ảnh h-ởng của Kinh Dịch
đối với các nhà t- t-ởng Việt Nam. Trên cơ sở đó góp một phần nhỏ vào việc

thúc đẩy tình hình nghiên cứu triết học ph-ơng Đông nói chung và Kinh Dịch
nói riêng; có ý nghĩa bảo tồn và gìn giữ những giá trị cổ truyền ng-ời x-a để lại.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ hơn giá trị một số t- t-ởng triết học trong
Kinh Dịch, tạo điều kiện cho những ai quan tâm, tìm hiểu Kinh Dịch trong
lịch sử triết học Trung Quốc và một số biểu hiện ảnh h-ởng của Kinh Dịch đối
với các nhà t- t-ởng Việt Nam.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy về lịch sử
triết học Trung Quốc và phục vụ cho việc tìm hiểu, tham khảo của các bạn
sinh viên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn
gồm có 2 ch-ơng, 6 tiết.
11


CHƯƠNG 1
BốI CảNH LịCH Sử HìNH THàNH KINH DịCH

1.1. Điều kiƯn kinh tÕ - x· héi Trung Qc
Tam hồ ng Ngũ đế l thời kỳ lịch sử đầu tiên của Trung Quốc. Đây l
các vị vua huyền thoại trong thời kỳ từ năm 2852 tới 2205 Tr-ớc Công nguyên
(TCN), thời kỳ ngay tr-ớc nh Hạ.
Tam Ho ng l ba vị vua đầu tiên của n-ớc n y, th-ờng đ-ợc gọi l
Phục Hy, Ho ng Đế v Thần Nông.
Phục Hy, l ng-ời đầu tiên trong ba vị vua huyền thoại của Trung Quốc
cổ. ông l một nhân vật văn hóa, đ-ợc cho l ng-ời phát minh ra chữ viết,
nghề đánh bắt cá và bẫy thú.
T-ơng truyền cho rằng khởi nguyên của Kinh Dịch ngày nay là do ông
đọc ở bức Hà Đồ trên l-ng con long mà dâng lên ở sông Hà (nh- hình d-ới

đây).

Theo truyền thuyết, cách sắp xếp của Bát quái đà hiện lên tr-ớc ông
một cách thần bí. Cách sắp xếp này có tr-ớc khi Kinh Dịch đ-ợc biên soạn.
Giới nghiên cứu về sau thống nhất đặt hình bát quái thời kỳ Phục Hy là Tiên
thiên Bát quái (nh- hình bên, trang 15).

12


Một số thuyết nữa lại cho rằng 64 quẻ của Kinh Dịch ngày nay có đ-ợc
là do chính Phục Hy trùng quái lên. Tuy nhiên, qua một số nghiên cứu khảo
cổ thì có một số ý kiến cho rằng ở thời kỳ Phục Hy, Kinh Dịch ch-a thể xuất
hiện đầy đủ. Phải đến thời kỳ Tây Chu thì Kinh Dịch mới hoàn tất đ-ợc phần
Dịch Kinh, đến thời Chiến quốc với công san định và viết Dịch truyện của
Khổng Tử thì Kinh Dịch mới có đ-ợc diện mạo cơ bản giống nh- chúng ta
vẫn thấy ngày nay.
Thần Nông là một trong các vị vua Trung Hoa đầu tiên dạy dân làm
ruộng, ông chế ra cày bừa và là vị vua đầu tiên làm lễ Tịch điền, đồng thời
trồng cây thuốc trị bệnh cho dân. Dân gian có câu nói: Thần Nông giáo dân
nghệ ngũ cốc, tức Thần Nông dạy dân trồng ngũ cốc.
Hoàng Đế là một thủ lĩnh huyền thoại, đ-ợc ng-ời Trung Hoa coi là
thủy tổ. Chữ hoàng ở đây hàm nghĩa là mầu vàng, biểu tr-ng cho hành Thổ;
khác với chữ hoàng đế (vua) nh- chúng ta vẫn hiểu sau này.
Theo truyền thuyết, thời Hoàng Đế có nhiều phát minh sáng tạo của
nhiều ng-ời nh-ng đ-ợc quy chung cho Hoàng Đế nh- làm nhà, đóng xe
thuyền, may quần áo, kim chỉ nam, lịch pháp, y thuật (Hoàng Đế nội kinh
t-ơng truyền là do Hoàng Đế viết), lịch cổ Trung Quốc lấy mốc bắt đầu từ
Hoàng Đế.
Nhà Hạ là triều đại đầu tiên đ-ợc miêu tả trong các ghi chép sử học cổ

đại nh- Sử ký và Trúc th- kỷ niên. Nhà Hạ đ-ợc vua Đại Vũ lập nên và kết
thúc ở vua Kiệt. Theo biên niên sử truyền thống dựa trên các tính toán của
L-u Hâm thì nhà Hạ trị vì từ khoảng năm 2205 đến 1766 TCN. Mặc dù một số
học giả từng tranh cÃi về sự tồn tại của triều đại này nh-ng các chứng cứ kh¶o
13


cỉ häc l¹i chØ ra sù tån t¹i thùc sù của triều đại nhà Hạ. Giới sử gia Trung Hoa
vẫn coi đây là triều đại đầu tiên của Trung Quốc, sau thời Tam hoàng Ngũ đế
và tr-ớc thời kỳ nhà Th-ơng.
Với những cuộc khai quật gần đây tại các di chỉ thời đại đồ đồng sớm
tại Nhị Lý Đầu (Hà Nam), thËt khã t¸ch biƯt trun thut ra khái thùc tế đối
với sự tồn tại của triều đại này. Hầu hết các nhà khảo cổ học Trung Quốc cho
rằng văn hóa Nhị Lý Đầu là nơi phát tích của nhà Hạ. Tuy nhiên, các nhà khảo
cổ học ph-ơng Tây vẫn không đồng ý về mối liên hệ giữa nhà Hạ và văn hóa
Nhị Lý Đầu.
Truyền thuyết nói rằng vua Vũ là ng-ời hiền, có công đào vét chín con
sông trị thủy trong nhiều năm. Trong thời gian đào vét sông, nhiều lần ông đi
ngang qua nhà mình mà không vào thăm. Với công lao nh- vậy, ông đ-ợc vua
Thuấn chọn làm ng-ời truyền ngôi.
Trong thời nhà Hạ đà xuất hiện trun thut khi vua Vị trÞ thđy cã
mét con rïa thần dâng tấm đồ hình ở sông Lạc, lịch sử nghiên cứu Kinh Dịch
th-ờng gọi là Lạc Th- (nh- hình d-ới đây).

Hiện nay, cùng với Hà Đồ thời vua Phục Hy, Lạc Th- vẫn còn đ-ợc l-u
truyền trong việc nghiên cứu lịch sử hình thành Kinh Dịch.
Năm 2208 TCN, vua Thuấn mất, Đại Vũ để tang ba năm rồi mới chính
thức lên ngôi. Sau khi lên trị vì thiên hạ, ông vẫn giữ lệ cũ cử hiền tài trong
n-ớc để nối ngôi mà không có ý định truyền ngôi cho con trai là Khải. Đại Vũ
định cử ông Cao Dao thay mình làm vua sau này nh-ng Cao Dao lại mÊt tr-íc


14


ông, vì vậy Đại Vũ phong cho con cháu Cao Dao đất Anh và Lục, rồi tiếp tục
cử Bá ích quản lý chính sự để chuẩn bị làm vua.
Năm 2198 TCN, vua Vũ đi tuần về phía đông, khi đến Cối Kê thì mất.
Bá ích không nhận ngôi vua mà nh-ờng lại cho con trai của vua Vũ là Khải rồi
bản thân mình thì tránh ra ở phía nam Cơ Sơn. Do Khải cũng có nhiều uy tín
nên thiên hạ nhiều ng-ời quy phục ông làm vua. Từ đời vua Khải, nhà Hạ giữ
lệ cha truyền con nối, không truyền ngôi ra ngoài nữa.
Năm 2188 TCN, vua Khải mất, con là Thái Khang lên thay. Do Thái
Khang ham chơi bời, thích săn bắn mà không quan tâm đến việc chính sự dẫn
đến bị đảo chính, mất ngôi đến bốn đời; các vua nhà Hạ phải l-u lạc ở n-ớc
ngoài. Đến đời Thiếu Khang mới khôi phục lại địa vị chính thống.
Năm 2058 TCN, vua Thiếu Khang mất, con là Trữ nối ngôi. Từ thời vua
Trữ truyền thêm đ-ợc tám đời, đến thời Khổng Giáp thì nhà Hạ bắt đầu suy
(Do Khổng Giáp tin nhiều vào qủy thần và hoang dâm nên nhiều ch- hầu
không thần phục nhà Hạ nữa).
Đến đời Hạ Kiệt tàn bạo, hoang dâm, mê nàng Muội Hỷ; dân chúng oán
ghét. Nhiều ch- hầu nổi dậy chống lại nhà Hạ, Kiệt đem quân đánh dẹp các
ch- hầu. Thủ lĩnh bộ lạc Th-ơng là Thành Thang, là ch- hầu của nhà Hạ bị
Kiệt bắt gian ở Hạ Đài. Sau một thời gian Thành Thang đ-ợc thả ra, về n-ớc
ông ra sức làm điều nhân đức, quy tập lực l-ợng. Năm 1767, Thành Thang dấy
binh đánh nhà Hạ, Kiệt thua phải chạy ra đất Minh Điều. Nhà Hạ bị diệt, nhà
Th-ơng lên thay. Vua Thành Thang phong đất cho các con cháu còn lại của
nhà Hạ cũ, đến thời nhà Chu sau này đất đó gọi là n-ớc Kỷ.
Nhà Th-ơng là triều đại đầu tiên đ-ợc ông nhận về mặt lịch sử. Theo
biên niên sử dựa trên các tính toán của L-u Hâm thì nhà Th-ơng trị vì từ
khoảng năm 1766 TCN đến khoảng năm 1122 TCN. Triều đại này bắt đầu từ

vua Thành Thang và kết thúc ở vua Trụ.
Do việc trị thủy thời kỳ nhà Th-ơng còn nhiều hạn chế, lũ lụt, thiên tai
th-ờng xuyên xảy ra nên triều đình phải thiên đô nhiều lần. Tới khoảng năm

15


1384 TCN đời vua Bàn Canh, triều đình nhà Th-ơng đà chuyển kinh đô về đất
Ân và ổn định về sau này. Vì vậy, nhà Th-ơng còn đ-ợc gọi là nhà Ân.
D-ới thời nhà Th-ơng, các dân c- trong khu vực dọc sông Hoàng Hà đÃ
đào đ-ợc các con kênh, ngòi dẫn n-ớc để t-ới mùa màng; ngoài ra các đô thị
thời kỳ này cũng đà có kênh dẫn n-ớc ra ngoài. Dân c- đà biết sản xuất r-ợu,
mở rộng th-ơng mại và sử dụng tiền tệ d-ới các dạng quy -ớc khác nhau để
giao dịch. Ngoài ra, kỹ thuật đúc đồng cũng đà xuất hiện trong thời kỳ nhà
Th-ơng.
Khoảng năm 1300 TCN, chữ viết cổ của ng-ời Trung Hoa đà xuất hiện
ở thời kỳ văn minh nhà Th-ơng - họ đà phát triển chữ viết có hơn ba nghìn ký
tự, một phần là t-ợng hình và một phần là t-ợng thanh. Loại chữ viết này đ-ợc
phát hiện trên những phần phẳng của x-ơng gia súc hay h-ơu nai, mai rùa,
yếm rùa... Đó là những đoạn văn tản mạn ghi chép về những việc bói toán.
Những ký hiệu chữ viết này còn rất đơn giản, bằng cách dùi vào một cái yếm
(hoặc mai) rùa rồi đem hơ trên lửa; những đ-ờng nứt biểu t-ợng cho các ký tự
đà đ-ợc quy -ớc sẽ hiện ra, cho biết câu trả lời về thời tiết, mùa màng, xuất
hành, liên kết, chiến tranh...
Thời kỳ nhà Th-ơng, ng-ời dân đà có niềm tin vào những lực l-ợng
thần bí. Họ coi các hiện t-ợng thiên nhiên là do nhiều vị thần sử dụng sức
mạnh thần thánh tạo ra, các vị thần đ-ợc gọi chung là qủy thần. Có nhiều vị
thần cai quản những lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống nh- mùa màng, sông
núi, mặt trăng, mặt trời...
Nhà Chu là triều đại nối tiếp sau nhà Th-ơng và tr-ớc nhà Tần. Nhà

Chu tồn tại lâu hơn bất cứ một triều đại nào khác trong lịch sử Trung Hoa và
trong thời kỳ nhà Chu đà xuất hiện việc sử dụng đồ sắt. Nhà Chu cũng là
khoảng thời gian khi hệ thống chữ viết cổ xuất hiện trên các đỉnh đồng thời
Tây Chu d-ới hình thức những văn bản ghi chép cổ cuối thời Chiến Quốc.
Nhà Chu khởi nguồn ở sông Vị, phía tây nền văn minh Th-ơng. Tổ tiên
bộ tộc Chu khởi nghiệp từ đất Thai (nay thuộc Vũ Công, Thiểm Tây), t-ơng
truyền có tên là Khí, cũng gọi là Hậu Tắc. Về sau, Chu phát triển lên thành

16


một bộ lạc lớn và bắt đầu di c- về đất Mân (nay thuộc Tuần ấp, Thiểm Tây).
Tại đây, họ bắt đầu mở rộng ảnh h-ởng và trở thành thủ lĩnh của liên minh các
bộ lạc gần nền văn minh nhà Th-ơng. Họ đóng đô ở đất Kỳ (nay thuộc Kỳ
Sơn, Thiểm Tây).
Tới đời Chu Văn V-ơng, liên minh bộ lạc này phát triển thành một
n-ớc Chu hùng mạnh với kinh đô đóng ở đất Phong. N-ớc Chu trở thành một
đối trọng mạnh mẽ uy hiếp sự tồn tại của nhà Th-ơng.
Chu Văn V-ơng mất đi, con trai là Cơ Phát lên thay lấy hiệu là Chu Vũ
V-ơng, tiếp tục nuôi ý định diệt Th-ơng. Khi vua Th-ơng là Trụ tàn bạo và
làm mất lòng dân. Chu Vũ V-ơng đà tranh thủ sự ủng hộ của các ch- hầu oán
ghét nhà Th-ơng hợp thành lực l-ợng to lớn. Vào năm 1123 TCN, nhà Chu
chiến thắng vua Trụ ở trận Mục DÃ, Trụ phải tự thiêu. Nhà Chu thiết lập sự
thống trị của mình. Chu Vũ V-ơng tự x-ng là thiên tử.
Tr-ớc khi nhà Chu trở thành bá chủ, Chu Văn V-ơng thời còn là chhầu của nhà Th-ơng đà từng bị vua Trụ bắt giam khoảng ba năm ở ngục Dữu
Lý. Chính trong thời gian rất khó khăn này, ông đà bỏ nhiều công sức để tập
trung nghiên cứu và vẽ lại một hình bát quái mới với những ý nghĩa sắp đặt
các quẻ khác hẳn với cách sắp đặt trong Tiên thiên Bát quái của vua Phục Hy.
Giới nghiên cứu về sau gọi bát quái đó là Hậu thiên Bát quái (nh- hình d-ới
đây). Tuy nhiên, cách diễn giải Kinh Dịch thời kỳ Chu Văn V-ơng vẫn còn rất

khó hiểu.

Tới khi nhà Chu diệt nhà Th-ơng và lập nên một triều đại mới, nhu cầu
phải xây dựng một nền t- t-ởng mới tiến bộ hơn, có sức lôi cuốn và tập hợp
nhân dân mạnh mẽ hơn thời kỳ nhà Th-ơng trở nên cấp thiết. Tr-ớc tình hình
17


nh- vậy, Chu Công là con thứ của Chu Văn V-ơng đà dành nhiều tâm huyết
để chỉnh lý và đặt ra những lời giải quẻ khiến cho Dịch trở nên t-ơng đối
mạch lạc và ứng dụng đ-ợc nhiều hơn trong cuộc sống. Tính chất bói toán
nguyên thủy đà dần dần bớt đi, tính học thuật đà dần hình thành. Lịch sử
nghiên cứu gọi đây là thời kỳ hình thành Dịch kinh.
Nhà Chu coi tất cả đất đai thuộc về thần thánh và họ chính là những đứa
con của thần thánh, do vậy tất cả đất đai và dân c- trên đó đều thuộc về nhà
Chu (vua Chu x-ng là thiên tư, tøc con cđa Trêi). Tù thÊy r»ng ®Êt ®ai chinh
phục đ-ợc qúa rộng lớn để một ng-ời có thể cai trị, các vua nhà Chu đà chia
đất đai thành những vùng khác nhau và chỉ định một ng-ời nào đó cai trị d-ới
danh nghĩa của mình (gọi là ch- hầu); lựa chọn một ng-ời thân trong họ,
những ng-ời có thể tin t-ởng đ-ợc hay một vị thủ lĩnh bộ lạc khác đà cùng họ
đi đánh nhà Th-ơng tr-ớc đây để giao phó nhiệm vụ này. Mỗi vị ch- hầu này
có quyền sắp đặt mọi việc ở trong lÃnh thổ của mình, kể cả việc xây dựng lực
l-ợng vũ trang riêng. Ngoài ra, vua Chu còn ban cho họ những qùa tặng nhxe ngựa, vũ khí, ng-ời hầu, gia súc... Các vị ch- hầu đ-ợc phong t-ớc và đ-ợc
truyền lại ngôi vị cho con trai mình, t-ớc vị của ch- hầu là cha truyền con nối.
Để cai quản vùng đất của mình tốt hơn, những vị ch- hầu nhà Chu lại
phong những t-ớc nhỏ hơn cho những ng-ời thân cận của mình (gọi là các
công, khanh, đại phu...). Nh- thế, một hệ thống địa vị thứ bậc và tránh nhiệm
giữa ng-ời với ng-ời đà xuất hiện trong xà hội nhà Chu.
Thời nhà Chu, nông nghiệp đà đ-ợc triều đình rất quan tâm và phát
triển tập trung. Tất cả đất đai trồng trọt đều thuộc sở hữu của qúy tộc, các qúy

tộc lại trao đất đai cho các nông dân của mình. Một mảnh đất nh- vậy sẽ chia
thành chín phần, hình chữ Tỉnh gọi là là phép tỉnh điền. Thu hoạch từ mảnh
đất nằm chính giữa sẽ thuộc về nhà n-ớc, ở những mảnh xung quanh sẽ thuộc
về nông dân. Theo cách này thì nhà n-ớc có thể tích trữ l-ơng thực d- thừa và
đem ra dùng khi có việc cần thiết. Một số lĩnh vực sản xuất quan trọng đà xuất
hiện trong thời kỳ này nh- chế tạo đồ đồng, vũ khí và nông cụ. Những ngành
này đều thuộc quyền quản lý của tầng lớp qúy tộc.
18


Thời kỳ nhà Chu đà xuất hiện một vị thần gọi là Th-ợng đế và các vua
Chu cho rằng họ đ-ợc cai trị bằng quyền lực của thần linh. Vua Chu là thiên
tử, là hiện thân của Th-ợng đế trên mặt đất và nhiệm vụ của họ là làm trung
gian giữa thần thánh và con ng-ời, thay mặt thần thánh coi sóc muôn dân. Bất
kỳ một sự chống đối nào nhằm vào họ cũng là sự chống đối lại ý muốn của
trời đất.
Để thuyết phục thần dân, đặc biệt là các qúy tộc về tính chính đáng của
quyền lực của mình, nhà Chu lập ra một hệ thống quyền lực mới mà họ gọi là
thiên mệnh hay mệnh trời. Khái niệm này về sau trở thành một phần trong
những lý thuyÕt vÒ quyÒn lùc ë Trung Quèc. Vua nh- mét vị trí trung gian
giữa trời và đất; đặc tính của vua thể hiện hùng hồn điều này. Chữ V-ơng của
nghĩa này bao gồm đ-ờng ngang và một nét sổ dọc. Điều này thể hiện sự kết
nối giữa trời ở trên và đất ở d-ới, thiên tử ở giữa. Đây thực chấp là sự ủy
nhiệm của trời đất. Nếu vị vua trở nên ích kỷ hay không đ-ợc tín nhiệm,
không thể chăm sóc ng-ời dân đ-ợc nữa thì trời sẽ chuyển sự ủy nhiệm đó cho
ng-ời khác. Cách duy nhất để biết đ-ợc sự ủy nhiệm đó là thông qua việc tiến
hành lật đổ vua. Nếu việc lật đổ thành công thì sự ủy nhiệm không còn, còn
nếu việc lật đổ không thành công thì sự ủy nhiệm dành cho vị vua đó vẫn còn.
Quan niệm này cũng đà làm cho quan niƯm cđa ng-êi Trung Qc vỊ trêi,
vèn b¾t ngn từ khái niệm tr-ớc đó về một th-ợng đế trở thành một lực l-ợng

cai trị vũ trụ, đạo đức... Chính khía cạnh đạo đức này của Trời đà ảnh h-ởng
đến khuynh h-ớng chung của văn hóa và triết học Trung Quốc.
Chính trong thời Chu, các khái niệm về thiên mệnh đà đ-ợc thể hiện
mạnh mẽ nhất. Chu Văn V-ơng, Chu Công đà dành nhiều tâm huyết để xây
dựng Kinh Dịch, làm cho việc ứng dụng Kinh Dịch vào cuộc sống trở nên dễ
dàng hơn nhiều. Một hệ t- t-ởng mới của nhà Chu với những đặc điểm -u việt
và trình độ cao hơn hệ thống t- t-ởng của nhà Th-ơng rất nhiều. Vào giai
đoạn Chu Công, phần thứ nhất của Kinh Dịch là Dịch kinh đà đ-ợc hoàn thiện
về cơ b¶n.

19


Năm 771 TCN, khi Chu U V-ơng phế truất Thân hậu để đ-a nàng Bao
Tự lên thay thế, kinh đô nhà Chu đà bị các lực l-ợng du mục phía bắc tràn vào
c-ớp phá do sự xúi giục của Thân hầu (cha Thân hậu). Chu U V-ơng bị giết
chết và con cả là thái tử Nghi Cữu đ-ợc các qúy tộc ch- hầu là Trịnh, Tấn,
Tần đ-a lên làm vua, tức là Chu Bình V-ơng. Do kinh đô cũ đà bị c-ớp phá
nên Chu Bình V-ơng phải dời đô về Lạc D-ơng (nay thuộc Hà Nam) năm 722
TCN. Từ đây bắt đầu giai đoạn Đông Chu và kết thúc khi bị nhà Tần tiêu diệt
năm 256 TCN.
Trong lịch sử Trung Quốc, giai đoạn Đông Chu lại đ-ợc gọi là thời kỳ
Xuân Thu - Chiến Quốc. Thời Đông Chu chính là giai đoạn phát triển mạnh
mẽ nhất của t- t-ởng và văn hóa Trung Hoa trong lịch sử. Giai đoạn này
những nhà t- t-ởng lớn nhất đà sáng tạo ra những quan niệm khởi đầu về triết
học, đạo đức, học thuyết chính trị và văn hóa Trung Quốc. Trong thời kỳ Xuân
Thu, Trung Quốc gồm phần lớn là một nhóm các n-ớc ch- hầu hùng mạnh
nh-ng chính thiên tử nhà Chu cũng ch-a bao giờ có đủ sức mạnh để xác lập
đ-ợc quyền kiểm soát các ch- hầu của mình nh- các vua thời Tây Chu. Chính
vì sự không ổn định của cục diện thời Xuân Thu và sự xâm lấn của các dân tộc

du mục ở bên ngoài lÃnh thổ nên các ch- hầu phải liên minh với nhau và chấp
nhận một số vị bá chủ. Vì vậy, thời Xuân Thu là một giai đoạn nguy hiểm và
không chắc chắn. Các vị trí lÃnh thổ ch- hầu bị chuyển dịch liên tục, các cuộc
xâm lấn th-ờng xuyên xảy ra và các liên minh đ-ợc lập nên rồi lại tan rÃ
nhanh chóng đến không ngờ. Đúng nh- Tr-ơng Nghi, Thừa t-ớng n-ớc Tần
đà nói hợp tung nh- đống cát, dễ hợp mà dễ tan.
Từ thời Chu Bình V-ơng về sau, thiên tử nhà Chu chỉ còn cai trị trên
danh nghĩa, quyền lực thực sự nằm trong tay các ch- hầu hùng mạnh. Các chhầu tiến công lẫn nhau để giành lấy ngôi bá chủ, điều khiển các ch- hầu khác
thay cho vai trò của vua Chu. Nh-ng họ vẫn dựa trên danh nghĩa vua Chu để
ra lệnh cho các ch- hầu. Trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc đà xuất hiện
các n-ớc ch- hầu mạnh nối nhau làm bá chủ gọi là Ngũ bá gồm Tề Hoàn
Công, Tấn Văn Công, Sở Trang V-ơng, Tần Mục Công, Tống T-ơng Công.
20


Một số nhà sử học lại đ-a ra danh sách Ngũ bá khác là Tề Hoàn Công, Tấn
Văn Công, Sở Trang V-ơng, Ngô V-ơng Phù Sai và Việt V-ơng Câu Tiễn.
Tới cuối thời Chiến Quốc, các ch- hầu thậm chí cũng không cần biết
tới sự cai trị chỉ mang tính biểu t-ợng của thiên tử nhà Chu nữa mà họ tự x-ng
v-ơng. Chiến tranh giữa các ch- hầu tàn khốc hơn, quy mô lớn hơn và một
loạt các n-ớc nhỏ thời Xuân Thu đà bị tiêu diệt, chỉ còn lại khoảng 10 n-ớc;
trong đó có 7 n-ớc lớn gọi là Chiến Quốc thất hùng bao gồm Tề, Yên, Tần,
Sở, Hàn, Triệu, Ngụy.
Nhà Chu lúc này chỉ còn cai quản vùng đất nhỏ bé giống nh- các chhầu còn sót lại ch-a bị tiều diệt nh- Lỗ, Vệ... Các vua ch- hầu lớn muốn trở
thành vua của các ông vua.
Tới thế kỷ thứ 3 TCN, n-ớc Chu bé nhỏ lại còn nảy sinh lục đục và hai
n-ớc Hàn, Triệu lấy cớ can thiệp. Họ chia lÃnh thổ nhỏ bé đó làm đôi và giao
cho hai vị tông thất cai quản gọi là Tây Chu Công và Đông Chu Công. Thiên
tử nhà Chu ở chung với Tây Chu Công. Từ đây, Tây Chu và Đông Chu tồn tại
song song và chỉ còn mang nghĩa phân chia trong phạm vi hẹp của vùng đất

nhà Đông Chu cũ xuang quanh Lạc D-ơng, không phải là hai thời kỳ Tây Chu
và Đông Chu x-a kia.
Tới năm 257 TCN, h-ởng ứng phong trào hợp tung do hai n-ớc Yên và
Sở phát động để chống lại n-ớc Tần hùng mạnh đang lấn đất ch- hầu nh- tằm
ăn lá dâu, thiên tử nhà Chu cũng mộ binh đi đánh Tần. Nh-ng lúc đó nhà Chu
đà kiệt quệ tới mức thiên tử không có đủ tiền chiêu binh mà phải đi vay. Tây
Chu Công tự làm t-ớng cùng hợp binh với các n-ớc Yên, Sở. Thế nh-ng, các
n-ớc ch-a đánh đ-ợc trận nào với n-ớc Tần ra trò mà đà bị tan rÃ: N-ớc Hàn
thì bị Tần bao vây, không cựa quậy đ-ợc. N-ớc Triệu vừa thua trận Tr-ờng
Bình mất gần hết binh lực và nhuệ khí. N-ớc Tề lại thông hiếu với Tần nên từ
chối ra quân. Hai n-ớc Yên và Sở cô thế đành rút lui.
Lấy cớ nhà Chu gây hấn, năm 256 TCN, Tần Chiêu T-ơng V-ơng sai
Tr-ơng Đ-ờng đem quân đánh vào Tây Chu, bắt thiên tử nhà Chu đem về
giam ở thành Hàm D-ơng. Năm 250 TCN, Tần Chiêu T-ơng V-ơng chết, liền
21


×