Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU CHI NHÁNH HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.41 KB, 31 trang )

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU CHI NHÁNH HÀ
NỘI
2.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Eximbank Hà Nội
2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế – xã hội trên địa bàn
Hà Nội, trung tâm kinh tế – xã hội của đất nước, đang cùng cả nước thực hiện sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Dưới sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng, nhà nước, các cấp
lãnh đạo, thành phố Hà Nội đã đạt được những bước phát triển vượt bậc về cả kinh tế và xã hội.
Đặc biệt là nền kinh tế của thủ đô trong những năm gần đây có tốc độ tăng trưởng cao vào hàng
đầu của đất nước. Trong năm 2004, GDP của thủ đô tăng trưởng bình quân là 11%/năm. Tốc độ đô
thị hoá cao, hàng loạt các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng được triển khai trên qui mô lớn.
Tất cả các thành tựu đó là kết quả của một quá trình kiên trì đổi mới cơ chế chính sách, tạo
môi trường thông thoáng cho sản xuất kinh doanh. Và cũng chính các thành tựu đó là một yếu tố
tác động trực tiếp đến hoạt động của các NHTM.
Hà Nội là một địa phương có số lượng NHTM lớn nhất toàn quốc. Tính đến cuối năm
2004, trên địa bàn thành phố có khoảng 92 TCTD trong đó có 70 ngân hàng và chi nhánh ngân
hàng cấp một. Hệ thống NHTM Hà Nội hoạt động trong môi trường thuận lợi về chính trị, kinh tế,
xã hội và có nhiều điều kiện tiếp cận với trình độ ngân hàng trên thế giới. Hoạt động ngân hàng
trên địa bàn không ngừng phát triển trên tất cả các phương diện và có ảnh hưởng ngày càng sâu
rộng đến đời sống kinh tế – xã hội của thủ đô. Trong những năm qua hoạt động huy động vốn trên
địa bàn hết sức sôi động. Đồng thời các TCTD cũng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng cho
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh và dịch vụ ở Hà Nội không ngừng tăng nhanh, đóng góp
quan trọng vào quá trình tăng trưởng của thủ đô.
Đặc biệt Hà Nội còn là nơi tập trung hầu hết các tổng công ty nhà nước, các công ty liên
doanh, công ty nước ngoài và là nơi tập trung rất đông các doanh nghiệp và cùng với nó là số
lượng dân cư đông đúc có đời sống vật chất và thu nhập ngày càng cao là thị trường tiền gửi đầy
tiềm năng đối với các ngân hàng.
Nhận thức được điều đó, các NHTM nói chung và Eximbank Hà Nội nói riêng đã có những
thay đổi trong hoạt động phù hợp với sự vận động phát triển thủ đô. Qua đó góp phần thúc đẩy nền
kinh tế thủ đô phát triển nhanh và vững chắc hơn.
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Eximbank Hà Nội


Ngân hàng TMCP XNK Việt Nam được thành lập theo quyết định số
140/CT ngày24/05/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nay là Thủ tướng Chính
phủ với tên gọi đầu tiên là Ngân Hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export
Import Bank – Eximbank Vietnam), với thời hạn 50 năm, là một trong những
NHTM CP đầu tiên của Việt Nam, với hình thức là ngân hàng cổ phần chuyên
doanh về tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng nhằm phục vụ sản xuất, chế biến
hàng XNK và kinh doanh XNK.
Vốn pháp định là 100 tỷ VNĐ tương đương 25 triệu USD, được chia thành
250.000 cổ phần mệnh giá mỗi cổ phần là 400.000 VND được đảm bảo bằng 100
USD dưới hình thức cổ phiếu có ghi tên được chuyển nhượng và có thể rút ra trong
thời hạn 3 năm kể từ ngày góp vốn.
Ngày 17/10/1990 Thống đốc NHNN ra quyết định số 04/NHQD phê chuẩn
điều lệ của ngân hàng TMCP XNK Việt Nam đồng thời cũng ra quyết định cho
phép Ngân hàng TMCP XNK Việt Nam được thực hiện các nghiệp vụ thanh toán
quốc tế và thành lập quan hệ đại lý, quan hệ tài khoản với các ngân hàng nước
ngoài.
Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 17/10/1990, Hội sở Trung ương tại số
7 Lê Thị Hồng Gấm, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Chi nhánh Hà Nội của Ngân hàng TMCP XNK Việt Nam được thành lập theo
quyết định số 195/EIB – HN/VP ngày 10/08/1992 của Chủ tịch hội đồng quản trị
ngân hàng TMCP XNK Việt Nam và được NHNN Việt Nam chấp thuận bằng văn
bản số 002/GCT ngày 22/09/1992 theo giấy phép đặt văn phòng chi nhánh số
0503/GP.UB của UBND TP Hà Nội. Chi nhánh chính thức đi vào hoạt động từ
ngày 27/11/1992, địa điểm hiện tại ở số 19 Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm Hà
Nội. Ngoài trụ sở chính hiện nay, Eximbank Hà Nội còn có 2 chi nhánh cấp II đó là
chi nhánh Láng Hạ đặt tại 54 K1 Thành Công, Láng Hạ, quận Ba Đình, Hà Nội và
chi nhánh Long Biên chính thức đi vào hoạt động từ ngày 10/03/2004.
Nhiệm vụ chủ yếu của Eximbank Hà Nội là mở rộng phạm vi hoạt động của
Eximbank phục vụ các chương trình kinh tế – xã hội và đẩy mạnh công cuộc đầu tư
phục vụ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu ở các tỉnh phía Bắc. Mục tiêu đó có tính

chất kinh tế và tiền tệ.
Tuy hoạt động độc lập nhưng Eximbank Hà Nội vẫn thực hiện nghĩa vụ và
trách nhiệm đối với Hội sở Trung ương, cụ thể:
- Thực hiện nghiêm túc và đầy đủ điều lệ của Ngân hàng, các quy định và
chỉ thị của Hội Đồng quản trị và tổng giám đốc Eximbank Việt Nam.
- Chấp hành thống nhất các quy tắc về nghiệp vụ kinh doanh, và chế độ các
hạch toán báo cáo.
- Về kết quả kinh doanh, sau khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế với
Nhà nước, chuyển lợi nhuận kinh doanh về Hội sở Trung Ương.
Ra đời trong điều kiện nền kinh tế mở cửa với sự điều tiết của cơ chế thị
trường tạo ra môi trường kinh tế phù hợp để chi nhánh hoạt động kinh tế và phát
triển. Trong hơn 10 năm hoạt động và trưởng thành dưới sự chỉ đạo sáng suốt của
Hội đồng quản trị, sự lãnh đạo sát sao và sự hỗ trợ to lớn về mọi mặt của Hội sở
Trung ương, cũng như được sự tín nhiệm của các cổ đông và các đơn vị khách
hàng, tập thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên của Eximbank Hà Nội đã tích cực
trong công tác đưa chi nhánh ngày càng lớn mạnh. Không chịu bó tay trước bất kỳ
khó khăn nào, bằng ý chí vươn lên của gần 100 cán bộ công nhân viên, chi nhánh
đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Chỉ trong một thời gian ngắn ra đời và đi
vào hoạt động Eximbank Hà Nội đã từng bước khẳng định được chỗ đứng của
mình, chứng tỏ được sức mạnh tiềm năng bằng những kết quả đạt được hết sức cụ
thể trong từng mặt nghiệp vụ.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Eximbank Hà Nội
Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình đã được xác định ngay từ khi mới thành
lập là phục vụ các chương trình kinh tế – xã hội và đẩy mạnh công cuộc đầu tư
phục vụ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu ở các tỉnh phía Bắc. Bộ máy tổ chức của
Eximbank Hà Nội phải tổ chức sao cho vừa gọn nhẹ, nhưng lại vừa đảm bảo đạt
hiệu quả cao phù hợp với quy mô và đặc điểm địa bàn hoạt động của chi nhánh. Do
đó, cơ cấu tổ chức của Eximbank Hà Nội gồm:
- Giám đốc.
- Phó giám đốc.

- Các phòng nghiệp vụ.
- Chi nhánh cấp II Láng Hạ.
- Chi nhánh cấp II Long Biên.
- Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của Eximbank Hà Nội.

Ngoài ra, Eximbank Hà Nội còn có thêm tổ vi tính với nhiệm vụ và chức
năng chính là nghiên cứu ứng dụng các phần mềm trong lĩnh vực ngân hàng, quản
lý và bảo dưỡng nâng cấp mạng nội bộ cũng như kết nối với Hội sở Trung ương và
các chi nhánh khác trong hệ thống Eximbank Việt Nam. Bên cạnh đó, Eximbank
Hà Nội còn có tổ công nợ để theo dõi và quản lý các khoản nợ quá hạn, tổ thẻ phụ
trách hoạt động thanh toán và phát hành thẻ MasterCard và VisaCard và bộ phận
hỗ trợ tư vấn du học trực thuộc phòng tín dụng đầu tư.
2.1.4. Tình hình hoạt động kinh doanh chủ yếu của Eximbank Hà Nội trong
những năm qua
2.1.4.1. Hoạt động huy động vốn.
Tạo vốn hiện đang là vấn đề được ngành tài chính ngân hàng, các doanh
nghiệp hết sức quan tâm. Bởi vì chỉ khi nguồn vốn được đảm bảo thì mới tạo đà
cho việc sử dụng vốn hợp lý vào mục đích khác nhau. Và để có thể tạo được nguồn
vốn riêng cho mình với chi phí rẻ nhất thì cách tốt nhất là ngân hàng huy động từ
nền kinh tế mà chủ yếu từ tổ chức kinh tế và dân cư.
Nhận thức được vấn đề đó với phương châm coi tạo nguồn vốn là khâu mở
đường tạo mặt bằng vốn tăng trưởng vững chắc ngân hàng Eximbank Hà Nội đã cố
gắng trong công tác huy động vốn với nhiều hình thức huy động khác nhau để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng. Chính vì vậy, nguồn vốn của ngân hàng không ngừng
tăng trưởng. Năm 2004, tổng nguồn vốn huy động đạt 985,83 tỷ đồng tăng 2,32%
so với năm 2003. Tuy nhiên tốc độ tăng này thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng năm
2003 đạt 45,18%. Nguyên nhân là do năm 2004 có những thời điểm tình hình huy
động vốn của Eximbank Hà Nội chựng lại rõ nét do tác động tăng của chỉ số giá
tiêu dùng.
Để thấy rõ hơn sự tăng trưởng của nguồn vốn huy động ta sẽ xem xét cơ cấu

của nó:
Bảng 2.1: Cơ cấu huy động theo loại tiền gửi.
Đơn vị: Tỷ đồng.
Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng
Vốn huy động 595.16 100% 880,5 100% 893,44 100%
Tiền gửi của TCKT 243,72 40,85% 243,67 27,67% 251,45 28,14%
Tiền gửi tiết kiệm 351,44 59,15% 636,83 72,33% 641,99 71,86%
(Nguồn số liệu: phòng Kế toán của Eximbank-HN)
Như vậy, trong cơ cấu vốn huy động của Eximbannk Hà Nội thì nguồn vốn
huy động từ tiền gửi tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng cao hơn so với tiền gửi của các
TCKT. Nếu trong năm 2002 vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm chỉ chiếm 59,15%
trong tổng số vốn huy động từ tài khoản tiền gửi thì đến năm 2004 tỷ lệ đó đã lên
tới 71,86% một tốc độ tăng cao cho thấy uy tín của Eximbank Hà Nội đối với dân
cư ngày càng tăng. Ngược lại với tiền gửi của dân cư thì tiền gửi của các TCKT
chiếm tỷ trọng tương đối thấp trong tổng số vốn huy động từ tài khoản tiền gửi, nếu
năm 2002 huy động được 243,72 tỷ đồng chiếm 40,85% thì đến năm 2004 mặc dù
số tiền huy động được là 251,45 tỷ đồng nhưng tỷ trọng của nó lại giảm xuống chỉ
chiếm 28,14%.
Qua phân tích ta thấy số vốn huy động từ tài khoản tiền gửi năm sau đều cao
hơn năm trước, để có được điều này Eximbank Hà Nội đã không ngừng nâng cao
chất lượng các loại hình dịch vụ cũng như áp dụng mức lãi suất huy động linh hoạt
nhằm đảm bảo tốt nguồn vốn huy động đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của ngân hàng.
2.1.4.2. Hoạt động tín dụng:
Eximbank Hà Nội có điểm thuận lợi là hoạt động trên một địa bàn đông dân
cư, nhiều TCKT hoạt động. Nhưng đồng thời trên địa bàn này cũng tồn tại nhiều hệ
thống ngân hàng trên nguyên tắc đi vay để cho vay dẫn đến sự cạnh tranh rất cao.
Vì vậy để hoạt động kinh doanh đem lại hiệu quả cao thì ngân hàng không những
phải chú trọng đến công tác huy động tiền gửi mà phải đặc biệt quan tâm đến sử

dụng vốn và nhất là công tác tín dụng của ngân hàng.
Năm 2003, cho vay ra nền kinh đạt 1746,48 tỷ đồng tăng 617,68 tỷ đồng so
với năm 2002 đạt tốc độ tăng 54,72% thì đến năm 2004 doanh số cho vay đạt
1953,5 tỷ đồng tăng 11,86% so với năm 2003.
Bảng 2.2: Đánh giá qui mô, tốc độ tăng trưởng tín dụng.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
2003/2002 2004/2003
(+/-) tỷ đ (+/-) % (+/-) tỷ đ (+/-)%
DS cho vay 1128,
8
1746,
5
1953,
5
+617,68 +54,72 +207,02 +11,86
DS thu nợ 1012,
9
1536,
8
1632,
4
+523,9 +51,74 +95,57 +6,22
Dư nợ 448,1

8
587,9 713,6 +139,72 +31,17 +125,7 +21,38
( Nguồn số liệu: Phòng tín dụng Eximbank Hà Nội)
Do mở rộng địa bàn tín dụng, cùng với những nỗ lực của tập thể cán bộ ngân
hàng cho nên dư nợ cho vay của Eximbank đã được nâng lên từ 448,18 tỷ đồng
năm 2002 lên 587,9 tỷ đồng năm 2003 với tốc độ tăng 31,17%.Và tốc độ tăng
21,38% dư nợ cho vay tính đến 31/12/2004 đã đạt 713,6 tỷ đồng. Để ý sự biến
động giữa doanh số cho vay và dư nợ cho vay ta thấy doanh số cho vay luôn có
mức tăng lớn hơn nhiều so với dư nợ cho vay. Năm 2002 mức tăng về doanh số
cho vay là 617,68 tỷ đồng gấp 4,4 lần dư nợ cho vay và trong năm 2004 con số này
là 1,65 lần. Sở dĩ như vậy là do hoạt động cho vay của Eximbank Hà Nội trong
năm 2003 và 2004 chủ yếu là cho vay ngắn hạn và cho vay cầm cố, chiết khấu
thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn.
Với đặc điểm là một ngân hàng TMCP tiến hành các hoạt động kinh doanh
tiền tệ tín dụng ngân hàng nhằm phục vụ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu và kinh
doanh XNK, nên cho vay tài trợ XNK luôn là thế mạnh của HN. Chính vì thế trong
cơ cấu cho vay thì doanh số cho vay bằng ngoại tệ tại Eximbank Hà Nội luôn
chiếm tỷ trọng cao. Nếu như năm 2003 doanh số cho vay bằng ngoại tệ qui đổi về
VNĐ là 797,12 tỷ đồng, chiếm 45,64% tổng doanh số cho vay của ngân hàng thì
đến năm 2004 con số này là 863,37 tỷ đồng, chiếm 47,15% tổng doanh số cho vay.
Cho vay bằng VNĐ tại Eximbank Hà Nội chủ yếu là phục vụ các doanh
nghiệp trong việc sản xuất, chế biến, thu mua các mặt hàng xuất khẩu. Doanh số
BAN GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
BAN GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
PHÒNG TÍN DỤNG - ĐT
PHÒNG TÍN DỤNG - ĐT
cho vay bằng VNĐ năm 2003 là 449,6 tỷ đồng, chiếm 28,6% tổng doanh số cho vay
và năm 2004 con số này là 532,8 tỷ đồng, chiếm 27,3% tổng doanh số cho vay.
Nhìn chung trong năm 2004 do mở rộng địa bàn tín dụng không những trên
địa bàn Hà Nội mà tất cả các tỉnh phía bắc nên khối lượng tín dụng tăng lên đáng

kể. Đây là một trong những nghiệp vụ đem lại nguồn thu đáng kể cho Eximbank
Hà Nội trong những năm qua. Điều này chứng tỏ khách hàng có sự tin tưởng và tín
nhiệm lớn đối với ngân hàng.
Song song với tăng trưởng dư nợ lành mạnh, chi nhánh cũng hết sức quan
tâm đến công tác xử lý nợ tồn đọng. Ban giám đốc chi nhánh luôn đôn đốc cán bộ
tín dụng trong việc xem xét và đưa ra các điều kiện cho vay chặt chẽ, đối với
những khoản vay lớn thì phải hoàn tất tài sản đảm bảo để tạo điều kiện đối với việc
vay vốn của khách hàng và hạn chế rủi ro về phía ngân hàng. Tổng dư nợ quá hạn
của Eximbank Hà Nội tính đến thời điểm 31/12/2004 là 18,67 tỷ đồng, so với tổng
dư nợ quá hạn năm 2003 thì con số này tăng lên 0,78 tỷ đồng. Nhưng nhìn lại năm
2001 với tổng dư nợ quá hạn là 40,42 tỷ đồng thì tình hình nợ quá hạn tại
Eximbank Hà Nội đã giảm rõ rệt.
Bảng 2.3: Tình hình nợ quá hạn tại Eximbank Hà Nội.
Đơn vị: Tỷ đồng
CHỈ TIÊU 31/12/2002 31/12/2003 31/12/2004
1. Tổng dư nợ 448,18 587,9 713,6
2. Tổng dư nợ quá hạn
Trong đó:
- Đối với cho vay ngắn hạn
- Đối với cho vay trung, dài hạn
- Đối với khoản trả thay trong bảo lãnh
3,02
2,02
1,00
0
17,89
13,58
4,31
0
18,67

13,78
4,89
0
3. Dư nợ quá hạn khó đòi 0 0,53 0,58
4. Tỷ lệ NQH trên tổng dư nợ(%) 0,66 2,69 2,7
(Nguồn số liệu: phòng tín dụng Eximbank Hà Nội)
Với sự phấn đấu nỗ lực, công tác kinh doanh tín dụng của Eximbank Hà Nội
đã ngày càng mở rộng. Là một ngân hàng còn khá non trẻ, lại phải chịu sự cạnh
tranh của các ngân hàng lớn có bề dày kinh nghiệm và có nhiều khách hàng quen
thuộc trong và ngoài nước thì đối với Eximbank Hà Nội đây có thể được coi là một
thành công. Năm 2004, thực hiện chủ trương điều chỉnh một bước cơ cấu tín dụng
theo hướng cho vay có đảm bảo bằng tài sản và phân tán rủi ro. Hạn chế việc cho
vay không có đảm bảo bằng tài sản, không cho vay các dự án có hiệu quả thấp. Mở
rộng tín dụng một cách thận trọng và đúng hướng vào các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp, tăng cường mạnh cho
vay tiêu dùng, cầm cố sổ tiết kiệm. Thực hiện qui trình hoá nghiệp vụ tín dụng, ban
hành sổ tay tín dụng, công tác tín dụng được kiểm soát chặt chẽ, chất lượng tín
dụng được đảm bảo an toàn và hiệu quả.
2.1.4.3. Các hoạt động khác
a- Thanh toán quốc tế
Khâu thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ tương đối phát triểncủa Eximbank
Hà Nội. So với các ngân hàng trên địa bàn về thanh toán quốc tế, Eximbank Hà
Nội chiếm một tỷ trọng khá lớn và là một trong những ngân hàng rất có uy tín.
Eximbank Hà Nội luôn chấp hành tốt các qui định, qui trình nghiệp vụ thanh toán
quốc tế, không để xảy ra sai sót, rủi ro trong thanh toán. Hơn 10 năm hoạt động,
khối lượng thanh toán XNK qua Eximbank không ngừng được nâng cao cả về số
lượng và chất lượng.
Bảng 2.4: Doanh số thanh toán quốc tế tại Eximbank Hà Nội.
Đơn vị: Tỷ đồng
Tên nghiệp vụ

Thanh toán hàng xuất
Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004
Số
nghiệp
vụ
Trị giá
Số
nghiệp
vụ
Trị giá
Số
nghiệp
vụ
Trị
giá
1. Thông báo L/C 134 21,05 175 22,3 193 25,7
2.Thương lượng chứng từ 145 17,07 147 18,05 158 19,02
3. Thanh toán 142 17,13 149 19,4 151 20,01
Thanh toán hàng nhập
1. Phát hành L/C
a. L/C trả ngay 750 72,05 755 73,04 760 74,06
b. L/C trả chậm 5 1,59 0 0 5 2,03
Cộng 755 73,64 755 73,04 765 76,09
2. TTR 465 5,92 509 5,67 515 6,01
1. Thanh toán
a. L/C trả ngay 748 59,94 820 72,01 868 75,03
b. L/C trả chậm 0 0 0 0 0 0
Cộng 748 59,94 820 72,01 868 75,03
c. Nhờ thu trả ngay 163 2,21 175 2,43 183 2,67
d. Nhờ thu trả chậm 4 0,22 6 0,34 8 0,36

Cộng 167 2,22 181 2,77 191 3,03
(Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh ngoại tệ Eximbank Hà Nội)
b- Hoạt động kiều hối
Với lợi thế hệ thống ngân hàng đại lý rộng khắp tại 58 quốc gia trên thế giới
đã tạo tiền đề cho việc phát triển kiều hối, thuận tiện cho việc chuyển tiền từ các
nước về Việt Nam. Lượng kiều hối chuyển về qua Eximbank Hà Nội ngày càng
tăng đã đáp ứng được phần nào lượng ngoại tệ phục vụ nhu cầu thanh toán hàng
nhập khẩu; tăng nguồn vốn huy động tiết kiệm ngoại tệ; tăng thu dịch vụ ngân
hàng. Doanh số chi trả kiều hối năm 2003 tăng gấp đôi so với năm 2002, tuy nhiên
năm 2004 con số này chỉ đạt 2,1 triệu USD giảm 76% so với năm 2003. Nguyên
nhân là do công tác huy động kiều hối chưa có bộ phận chuyên trách nên thiếu tập
trung thường xuyên để đề ra các biện pháp thích hợp thu hút đối tác cũng như đưa
ra các biện pháp tiếp thị mới.
c- Nghiệp vụ thẻ
Tháng 3/2001, Eximbank đã chính thức phát hành thẻ tín dụng quốc tế mang
thương hiệu ViêtNam Eximbank – MasterCard ra thị trường và trở thành một trong
ba ngân hàng phát hành thẻ MasterCard tại thị trường Việt Nam. Đến tháng 7/2003
thẻ VietNam Eximbank VisaCard cũng đã chính thức ra đời.
Trong năm 2004 đã phát hành ra thị trường 1768 thẻ mang thương hiệu
VietNam Eximbank MasterCard, tăng 26% so với năm 2003,với giá trị bình quân
20 triệu đồng /thẻ và doanh số thanh toán thẻ đạt 0,98 triệu USD tăng 20% phí dịch
vụ thu được tăng 15% so với năm 2003.Tuy nhiên hoạt động kinh doanh thẻ còn có
một số mặt hạn chế như sau:
Số lượng máy ATM của Eximbank quá ít, gây bất tiện đến giao dịch của
khách hàng. Tiến độ kết nối hệ thống ATM với Vietcombank còn chậm. Hoạt động
phát triển các đơn vị chấp nhận thẻ hết sức khó khăn do thị trường thanh toán thẻ
cạnh tranh rất gay gắt. Các ngân hàng áp dụng nhiều chính sách như giảm, miễn
phí dịch vụ đối với đơn vị chấp nhận thẻ. Thậm chí nhiều ngân hàng đẩy mạnh
quảng bá thương hiệu, chưa quan tâm đến việc thu phí dịch vụ thẻ. Công tác quảng
cáo, quảng bá sản phẩm thẻ của Eximbank còn hạn chế, nên sản phẩm thẻ của

Eximbank chưa có sức thu hút tốt trên thị trường.
d- Kinh doanh ngoại tệ
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ được xác định là một mảng nghiệp vụ lớn và
quan trọng tại Eximbank, là trợ lực thúc đẩy các nghiệp vụ khác như xuất khẩu,
nhập khẩu kiều hối, tín dụng… đã tăng trưởng khá liên tục và bền vững. Trong
những năm trở lại đây chi nhánh đã luôn chủ động khai thác và tìm kiếm nguồn
ngoại tệ nên đã đáp ứng kịp thời nhu cầu về ngoại tệ phục vụ cho khách hàng nhập
khẩu. Tuy nhiên nguồn mua USD/VND từ nguồn thanh toán xuất khẩu chỉ chiếm
20-25% nhu cầu thanh toán của khách hàng, còn lại phải mua từ nhiều nguồn khác
nhau chủ yếu từ thị trường liên ngân hàng và thị trường vãng lai, nên lượng ngoại
tệ năm qua có nhiều thời điểm khan hiếm, chưa đáp ứng đủ cho các doanh nghiệp,
các cá nhân có nhu cầu cần thiết và hợp lý nhưng Eximbank cũng đáp ứng được
nhu cầu cơ bản trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của mình.
Bảng 2.5: Báo cáo về kinh doanh ngoại tệ của Eximbank Hà Nội.
Đơn vị: Triệu USD
Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004
1. Doanh số mua-bán ngoại tệ 171,83 269,8 471
2. Thu về kinh doanh ngoại tệ 0,12 0,19 0.21
( Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh ngoại tệ Eximbank Hà Nội)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, tổng doanh số mua bán ngoại tệ của Eximbank Hà
Nội năm 2004 đạt mức 471 triệu USD tăng 1,7 lần so với năm 2003.
e- Nghiệp vụ kế toán thanh toán và ngân quỹ
Đến đầu năm 2004, tổng số tài khoản của khách hàng mở tại ngân hàng là7569
tài khoản. Việc quản lý các tài khoản tiền gửi là rất khó khăn và phức tạp

×