Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Lý luận về đầu tư nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.94 KB, 16 trang )


LỜI MỞ ĐẦU

Thế giới đang đứng trước ngưỡng cửa của sự toàn cầu hoá, hứa hẹn nhiều biến
chuyển. Những ảnh hưởng ngày càng lan rộng của các công ty đa quốc gia cùng với
phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã thúc đẩy cả xã hội cùng chạy đua trên
con đường phát triển .Quá trình chuyên môn hóa, hợp tác hóa ngày càng được chuyên
sâu góp phần tăng tổng sản phẩm toàn xã hội . Chúng ta đang sống trong giai đoạn
chứng kiến những sự thay đổi nhanh chóng trong tổng thể nền kinh tế, kĩ thuật , công
nghệ, và những biến đổi khác trong chính trị, xã hội . Tất cả đem lại cho thời đại một sắc
màu riêng.
Để hội nhập với nền kinh tế thế giới, chúng ta cũng phải có những sự chuyển mình
để không bị gạt ra khỏi vòng quay của sự phát triển .Trong bối cảnh đó, xu hướng mở
cửa, hợp tác kinh tế với các nước là một quan điểm nổi bật của chính phủ ta. Thể hiện
điều này ngày 19/12/1987 Quốc Hội ta đã thông qua luật đàu tư trực tiếp nước ngoài,
cho phép các tổ chức, cá nhân là người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Qua đó đã thu
hút được một lượng vốn lớn thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tuy nhiên quá trình đó còn
găp nhiều thách thức, cần có sự nỗ lực từ hai phía.
- Cũng từ những suy nghĩ trên em đã chọn đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam” để tìm hiểu thực trạng của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và các tác
động của nó đối với nền kinh tế nước ta.
Mặc dù em đã nhận được rất nhiều sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của các thầy cô
trong bộ môn kinh tế chính trị để em có thể hoàn thành bài tiểu luận này, nhưng do sự
nhận thức còn chưa đầy đủ và thời gian nghiên cứu ít nên còn nhiều thiếu sót. Vì vậy,
em rất mong nhận được sự góp ý và giúp đỡ của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn.


1
NỘI DUNG
I. LÍ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI


1. Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.1 Khái niệm
- Đầu tư là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó
nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn
lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó.
- Đầu tư nước ngoài:
Cho đến nay vấn đề đầu tư nước ngoài không còn là vấn đề mới mẻ đối với các
nước trên thế giới. Tuy nhiên các quốc gia vẫn không thống nhất được khái niệm về đầu
tư nước ngoài. Vì thế có thể nói đây là vấn đề khá phức tạp, không dễ dàng gì có được
sự thống nhất về mặt quan điểm khi mà mỗi quốc gia về cơ bản đều theo đuổi những
mục đích riêng của mình hoặc do ảnh hưởng của hoàn cảnh kinh tế-xã hội của chính nó .
Tại Hội thảo của Đại hội Hiệp hội Pháp luật quốc tế Henxky 1966, người ta đã đưa
ra một khái niệm chung nhất về đầu tư trực tiếp nhằm phân biệt với các khoản kinh tế
khác nhận được từ bên ngoài: “Đầu tư nước ngoài là sự vận động tư bản từ nước người
đầu tư sang nước người sử dụng đầu tư với mục đích thành lập ở đây một xí nghiệp sản
xuất hay dịch vụ nào đó”.
Như vậy thì việc đầu tư vào một nước nhất thiết phải gắn liền với việc thành lập
một xí nghiệp hay một cơ sở sản xuất, dịch vụ tại nước đó .Điều này đã loại trừ một số
hình thức đầu tư khác mà không thành lập ra xí nghiệp hay cơ sở sản xuất (như cho vay
tiền của ngân hàng, tài trợ cho chương trình hay cho dự án…). Đây là điểm hạn chế
của khái niệm này so với yêu cầu hợp tác kinh tế trong thời đại hiện nay.
Tại các nước tư bản phát triển, đầu tư nước ngoài là việc giao vật có giá trị kinh tế
sang nước khác nhằm thu đuợc lợi nhuận, bao gồm cả quyền cầm cố và quyền thu hoa
lợi, quyền tham gia các hội cổ phần, quyền đối với nhãn hiệu thương phẩm và tên xí
nghiệp. Như vậy, quan niệm về đầu tư nước ngoài ở đây rất rộng rãi, chỉ là quá trình
chuyển tiền vốn từ nước này sang nước khác với mục đích thu lợi nhuận, theo nguyên
tắc lợi nhuận thu được phải cao hơn lợi nhuận thu được trong nước và cao hơn lãi suất
gửi ngân hàng.
Để đưa ra một khái niệm hoàn hảo là một điều khó khăn nhưng ta hãy tạm hiểu đầu
tư nước ngoài một cách đơn giản .

Đầu tư nước ngoài là hình thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế –
xã hội nhất định .
Về bản chất, đầu tư nước ngoài là những hình thức xuất khẩu tư bản , một hình
thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá . Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ sung và
hỗ trợ cho nhau, trong chiến lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của các công ty,
tập đoàn nước ngoài hiện nay, đặc biệt là các công ty đa quốc gia. Đối với họ, việc buôn
bán hàng hoá ở nước khác là một bước đi thăm dò thị trường, luật lệ, và cơ hội để đưa
tới một quyết định đầu tư . Nó như một chiếc chìa khoá vàng mở cửa cho lợi nhuận chảy
vào túi của các nhà tư bản , khi họ được khai thác một nguồn tài nguyên thường là cực
kì phong phú , và xuất khẩu một khối lượng lớn máy móc và trang thiết bị cho các nước
đó. Còn đối với các nước sở tại, việc chấp nhận đầu tư nước ngoài cũng là tạo một cơ
hội mới cho mình trong việc phát triển nền kinh tế . Đó là một điều kiện tốt để các nước
này tận dụng tối đa nguồn vốn nước ngoài , tiếp cận với công nghệ hiện đại , nâng cao

2
trình độ lao động , phát triển được một số ngành cơ sở . Bên cạnh đó cũng thu được một
lợi nhuận đáng kể từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .
Cùng với hoạt động thương mại quốc tế , hoạt động đầu tư nước ngoài đang ngày
càng phát triển mạnh mẽ , hợp thành những dòng chính trong trào lưu có tính quy luật
trong liên kết , hợp tác kinh tế quốc tế hiện nay .
Căn cứ vào tính chất sử dụng của tư bản thì đầu tư nước ngoài thường được chia
làm hai hình thức là : đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp .
Đầu tư trực tiếp nước ngoài :là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài
đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ cho phép họ trực tiếp
tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư .
Đầu tư gián tiếp :bao gồm hình thức đầu tư nước ngoài mà trong đó phần vốn góp
của chủ đầu tư nước ngoài không đủ để trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ
vốn đầu tư , hình thức tín dụng , hay mua trái phiếu quốc tế …..
Các nước đang phát triển lại sử dụng khái niệm đầu tư nước ngoài chỉ với nội

dung là đầu tư trực tiếp, như việc đưa bất động sản, vốn, thiết bị vào xây dựng, mở rộng
sản xuất, kinh doanh. Điều này đã loại trừ hình thức đầu tư gián tiếp. Đối với các nước
này, đầu tư trực tiếp đem lại cho họ nguồn vốn, kỹ thuật hiện đại thay thế cho kỹ thuật
lạc hậu hiện có, nâng cao mức sống và tăng thu nhập quốc dân. Với đầu tư gián tiếp ,
họ cũng tiếp nhận được vốn .Nhưng một phần vì không có những kế hoạch sử dụng
vốn có hiệu quả , bên cạnh đó là khả năng quản lí kém và trình độ sản xuất kinh doanh
lạc hậu. Nên khả năng thành công, và thu được lợi nhuận từ nguồn vốn này không cao.
Do đó ,việc tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là phù hợp với
hoàn cảnh và điều kiện của các nước đang phát triển. Chính sách này đã và đang là hình
thức phổ biến trong chính sách “mở cửa nền kinh tế” của nhiều nước, trong đó có Việt
Nam.
Trong pháp luật Việt Nam
Theo Điều lệ đầu tư năm 1977, ban hành kèm theo Nghị định 115/CP ngày
18/04/1977 thì khái niệm đầu tư nước ngoài ở Việt Nam được hiểu là “việc đưa cở sở
mới hoặc đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, mở rộng các cơ sở hiện có:
* Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ.
* Các quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng chế, phát minh phương pháp cộng
nghệ, bí quyết kỹ thuật
* Vốn bằng ngoại tệ hoặc vật tư có giá trị ngoại tệ.
* Vốn bằng ngoại tệ để chi trả lương cho nhân viên và công nhân làm việc tại các
cơ sở hoặc tiến hành những dịch vụ theo quy định ở những điều của Điều lệ này (Điều 2
Điều lệ đầu tư 1977).
Như vậy, theo Điều lệ này thì sự vận động của vốn và tài sản chỉ được coi là đầu
tư nước ngoài ở Việt Nam nếu có đủ hai điều kiện sau:
+ Đưa vào sử dụng ở Việt Nam những tài sản và vốn được quy định tại điều 2 của
Điều lệ.
+ Nhằm mục đích xây dựng cơ sở mới hoặc đổi mới trang bị kỹ thuật, các cơ sở
hiện có.
- Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài là “việc
các tổ chức, các cá nhân nước trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài

hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên
cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước
ngoài theo quy định của luật này”.

3
- Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài là “việc
các tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào
để tiến hành các hoạt ddộng đầu tư theo quy định của luật này”.
Như vậy, theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, khái niệm đầu tư nước ngoài
được hiểu như sau:
+ Là hình thức đầu tư trực tiếp.
+ Là việc bên ngoài (nước đầu tư) trực tiếp đưa vốn và tài sản khác vào đầu tư tại
Việt Nam.
- Khái niệm về đầu tư nước ngoài theo luật đầu tư nước ngoài năm 1987 sau đó là
luật năm 1996 đã phát triển hơn nhiều so với phạm vi nội dung khái niệm đầu tư nước
ngoài được quy định ở điều lệ đầu tư 1977 khi cho phép các nhà đầu tư nước ngoài
“được đầu tư trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân” (Điều 3 luật đầu tư nước
ngoài 1987, 1996).
=>Tóm lại, từ quy định đầu tư nước ngoài là việc đưa vốn và tài sản nhất định vào
Việt Nam đến quy định về đối tượng được đầu tư và quy định về hình thức đầu tư, thể
hiện chủ trương của Nhà nước Việt Nam là mở rộng và thu hút vốn đầu tư của nhiều
nước trên thế giới, làm đòn bẩy mạnh mẽ để đưa nước ta phát triển ngang tầm với sự
phát triển chung của toàn thế giơí.
1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (theo luật đầu tư nước ngoài của
Việt Nam)
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước ngoài bỏ
100% vốn tại nước sở tại, và có quyền điều hành toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp
theo quy định, pháp luật của nước sở tại .
Doanh nghiệp liên doanh : là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư nước
ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh . Các

bên tham gia điều hành doanh nghiệp , chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỉ lệ góp vốn
của mỗi bên vào vốn điều lệ. Phần góp vốn của bên nước ngoài không được ít hơn 30%
vốn pháp định .
Hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh: đây là một văn bản được kí kết giữa một
chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước để tiến hành một hay nhiều hoạt
động kinh doanh ở nước chủ nhà trên cở sở quy định về trách nhiệm để thực hiện hợp
đồng và xác định quyền lợi của mỗi bên , nhưng không hình thành một pháp nhân mới .
Các hình thức khác : ngoài các hình thức kể trên ở các nước và ở Việt Nam còn có
các hình thức khác như : hợp đồng xây dựng –kinh doanh –chuyển giao (BOT), hợp
đồng xây dựng –chuyển giao –kinh doanh ( BTO), hợp đồng xây dựng –chuyển giao
(BT) nhằm khuyến khích thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài .
1.3. Vị trí và ý nghĩa của đầu tư trực tiếp nước ngoài
a, Vị trí
- Đầu tư nước ngoài có một vị trí vô cùng quan trọng . Nó thúc đẩynền kinh tế phát
triển nhanh và toàn diện hơn .
- Đầu tư nước ngoài làm tăng khả năng về vốn, kinh nghiệm quản lý cho nước
nhận đầu tư.
- Là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để đưa nước nhận đầu rút ngắn
khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư nước ngoài là một yếu tố cần thiết và quan
trọng để có thể đưa nền kinh tế bắt kịp với thế giới .
b, Ý nghĩa

4
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có rất nhiều ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế của
một nước.
- Tạo thu nhập cho nước nhận đầu tư.
- Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp và tạo ra công ăn việc
làm cho người lao động .
2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế

Đầu tư quốc tế (FDI) là yêu cầu tất yếu của quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra
ngày càng mạnh mẽ. Với những đặc điểm của mình, FDI đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế đối với cả nước nhập khẩu đầu tư và nước xuất khẩu đầu tư, thúc đẩy các
nước này gia tăng liên kết, nhằm duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế của nước mình.
FDI có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của bất cứ một quốc gia nào
trên thế giới. FDI đã đem lại một hơi thở mới cho nền kinh tế thế giới. Mở cửa cho sự
toàn cầu hóa lan rộng khắp thế giới.
II. THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM

1.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp giấy phép năm 1989 - 2006

Đơn vị: triệu USD
Stt Năm Số DA ĐTRNN
VĐT
RNN
Số DA FDI Số Vốn FDI Tổng VĐT
Tỷ trọng
VĐTRNN/
TVĐT(%)

TỔNG SỐ
154 621.8 6106 43209.8 43831.6 1.419
1 1989 1 0.6 67 525.5 526.1 0.114
2 1991 3 0.0 107 735.0 735.0 0.000
3 1992 3 4.0 152 1291.5 1295.5 0.309
4 1993 4 5.4 196 2208.5 2213.9 0.244
5 1994 5 0.7 274 3037.4 3038.1 0.023
6 1995 3 1.3 372 4188.4 4189.7 0.031
7 1999 2 1.9 285 5099.0 5100.9 0.037

8 2000 10 12.3 327 2565.4 2577.7 0.477
9 2001 15 6.9 391 2838.9 2845.8 0.242
10 2002 13 7.7 555 3142.8 3150.5 0.244
11 2003 15 172.8 808 2998.8 3171.6 5.448
12 2004 26 28.2 791 3191.2 3219.4 0.876
13 2005 17 11.6 811 4547.6 4559.2 0.254
14 2006 37 368.5 970 6839.8 7208.3 5.112

(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Qua bảng số liệu về tỡnh hỡnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong
những năm qua, chúng ta thấy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng có xu
hướng gia tăng cả về số dự án đầu tư và qui mô vốn đầu tư. Năm 2006 số dự án đầu tư
ra nước ngoài nhiều nhất trong những nămqua là 37 dự án, và cũng chiếm nhiều số vốn
đăng ký nhất là 368.5 triệu USD, tiếp đến là năm 2004, có 26 dự án được cấp giấy phép
đầu tư ở nước ngoài, với số vốn là 28.2 triệu USD, năm 2005 với 17 dự án, với số vốn
đầu tư đăng kí là 11.6 triệu USD . Như vậy, trong mấy năm gần đây tỡnh hỡnh đầu tư ra
nước ngoài ngày càng gia tăng cả về số lượng dự án lẫn qui mô vốn đầu tư cho dự án.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng ngày càng thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, số dự án đầu tư và số vốn đầu tư FDI gia tăng theo từng năm Cụ thể là năm1989
mới chỉ có 67 dự án FDI vào Việt Nam với số vốn là 525.5 triệu USD, nhưng đến năm
sau ( năm 1990) Việt Nam đó thu hỳt được 107 dự án với số vốn đầu tư là 735 triệu
USD, và đến năm 2000 số dự án FDI vào Việt Nam là 327 dự án vói số vốn đăng ký là

5
2565.4 triệu USD. Như vậy sau 10 năm, số dự án FDI vào Việt Nam đó tăng gấp 5 lần
và quy mô vốn tăng gần 5 lần. Cho ta thấy sự gia tăng mạnh mẽ của dũng đầu tư trực
tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam và hiệu quả từ các chính sách thu hút vốn mà Nhà
nước ta đó thực hiện trong những năm vừa qua, từ đó mà Việt Nam ngày càng trở thành
điểm đến cho các nhà đầu tư trên thế giới.Tuy nhiên, qua đó ta cũng thấy được tương
quan giữa dũng vốn đầu tư ra của các nhà đầu tư Việt Nam so với dũng FDI của cỏc nhà

đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có sự chênh lệch rất lớn.
Năm 1989, trong tổng số 526.1 triệu USD vốn đầu tư ra và vào Việt Nam, thỡ
vốn đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam là 0.6 triệu USD, chiếm 0.144% trong tổng số
vốn đầu tư ra và vào Việt Nam. Năm 2000, vốn đầu tư ra nước ngoài chiếm 0.477%
tổng vốn đầu tư.Và gần đây, năm 2006, vốn đầu tư ra nước ngoài chiếm 5.122% tổng số
vốn đầu tư. Qua đó ta thấy vốn đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam là quá nhỏ so với số
vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Điều này có thể giải thích là do hoạt động đầu tư
ra nước ngoài ở Việt Nam cũn quỏ mới, kinh nghiệm hoạt động đầu tư quốc tế hầu như
cũn ớt, tiềm lực kinh tế, khoa học cụng nghệ , trỡnh độ quản lý... của các doanh nghiệp
Việt Nam cũn yếu, kộm nờn hoạt động đầu tư ra nước ngoài chưa thực sự hấp dẫn các
nhà đầu tư Việt Nam vỡ nguy cơ rủi ro rất cao. Trong khi đó nhà nước cũng chưa thực
sự quan tâm đến lĩnh vực đầu tư mới mẻ này, nên chưa có các cơ chế, chính sách hướng
dẫn, hỗ trợ, khuyến khích các nhà đầu tư Việt Nam một cách hợp lý, kịp thời, đầy đủ.
Chưa thực sự tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào hoạt động đầu
tư quốc tế. Tuy nhiên thông qua tỷ trọng vốn đầu tư ra nước ngoài so với tổng số vốn
đầu tư qua các năm, ta thấy rừ xu hướng gia tăng của tỷ trọng vốn đầu tư ra nước ngoài,
từ 0,114% năm 1989; đến năm 2000 là 0,477%; đến năm 2006 là 5,112%. Qua đó cho
thấy xu hướng đầu tư ra nước ngoài ngày càng được đẩy mạnh., môi trường đầu tư quốc
tế ngày càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Việt Nam.
2. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phân theo ngành kinh tế (*)

6

×