Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

SKKN ĐỊA LY 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.14 KB, 5 trang )

ĐỀ TÀI
MỘT SỐ KINH NGHIỆM SỬ DỤNG BẢN ĐỒ
GIÁO KHOA TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÝ.
I.Đặt vấn đề:
Mỗi một môn học đều có nét đặc trưng riêng: Môn ngữ văn có ngôn từ, môn lòch sử
có sự kiện, môn đòa lý có bản đồ.
Bản đồ giáo khoa là một loại hình cụ thể trong hệ thống bản đồ đòa lí; bởi vậy
ngoài các tính chất đặc trưng của bản đồ đòa lý ra,bản đồ giáo khoa còn có các tính
chất riêng mà bản đồ khác không có. Để xác đònh mục đích sử dụng, người giáo viên
cần coi bản đồ giáo khoa là nguồn tư liệu khoa học. Vì vậy tính chất đầu tiên của bản
đồ giáo khoa là tính khoa học, biểu thò độ chính xác tương ứng về mặt đòa lí. Ngoài
tính khoa học còn có tính sư phạm trong dạy học đòa lý, những học sinh trong lứa tuổi
nhỏ, quá trình nhận thức cảm tính còn chiếm ưu thế, cho nên bản đồ cho lứa tuổi này
là yếu tố trực quan cần được đề cao như: màu sắc, kí hiệu tượng hình… cần được rõ và
thích hợp. Bảng chú giải bản đồ ngoài tác dụng giúp nhận biết nội dung bản đồ, còn
nêu được phương pháp tác dụng , chất lượng, số lượng cấu trúc của hiện tượng đòa lý
được biểu hiện trên bản đồ. Tuy nhiên khi sử dụng bản đồ giáo khoa còn gặp những
khó khăn mà người sử dụng bản đồ cần tìm hiểu :
- Tính khách quan: Bản đồ giáo khoa như cuốn sách thứ 2 trong dạy học đòa lí, nhưng
không được học riêng mà phải lồng vào trong quá trình dạy một bài học, cho nên yếu
tố hiểu bản đồ giáo khoa, kỹ năng bản đồ là những vấn đề mà không phải học sinh
nào cũng làm được. Từ đó không tạo nên sự đam mê trong việc học tập môn đòa lý.
- Tính chủ quan: Bên cạnh việc học sinh chưa hiểu bản đồ giáo khoa, chưa có kỹ
năng bản đồ, thì còn hạn chế nữa là năng lực của người giáo viên, chậm đổi mới
phương pháp giảng dạy trong thời kì mới, giáo viên “dạy chay” khi lên lớp dẫn đến
hiệu quả thấp.
Trên cơ sở những khó khăn nêu trên, đó là lí do tôi chọn đề tài “ Một số kinh
nghiệm sử dụng bản đồ giáo khoa trong dạy học đòa lí” để nhằm tìm ra những biện
pháp tốt trong giảng dạy môn đòa lý.
II.Những biện pháp giải quyết vấn đề:


1.Cơ sở đề ra biện pháp:
1.1- Cơ sở lý luận: “Bản đồ giống như khung cốt mà các tri thức đòa lý đều dựa vào đấy. Đem
những tri thức đòa lí vào đó sẽ nhớù được dễ dàng, đồng thời việc dùng bản đồ đòa lý có thể dẫn đến sự
liên hệ có hệ thống” (theo Banôp nhà đòa lý Nga). Nhiều nhà nghiên cứu và giảng dạy đòa lý đã coi
bản đồ giáo khoa như là “cuốn sách giáo khoa thứ hai”.
Bản đồ sách giáo khoa là bản đồ dùng để minh họa cho bài giảng của thầy ở trên lớp và soạn
giảng các nội dung trong sách giáo khoa. Bản đồ giáo khoa còn để học sinh đối chiếu với bài giảng
của thầy phục vụ cho học tập một bài đòa lý cụ thể. Nó có tác dụng trực tiếp khi thầy giảng dạy trên
lớp, học sinh học tập đối chiếu với bài học. Bởi vậy cho nên chúng ta phải biết sử dụng bản đồ giáo
khoa trong suốt quá trình dạy học đòa lý như thế nào cho tốt.
Trang 1
1.2- Cơ sở thực tiễn: Qua thực tiễn giảng dạy nhiều năm ở trường cho thấy: đa
số giáo viên thiếu chuẩn bò bản đồ cho tiết dạy, phần lớn do ngại khó sợ tốn thời gian,
mất nhiều công sức. Hơn nữa nhận thức của giáo viên chưa đúng đắn về tầm quan
trọng của việc dùng bản đồ cho tiết dạy. Dẫn đến việc sử dụng bản đồ phục vụ cho
tiết dạy còn kém hiệu quả, chất lượng dạy học đòa lí và học tập của học sinh chưa
được như mong muốn.
2. Thực trạng về cách sử dụng bản đồ giáo khoa trong trường đã qua:
2.1- Mặt tích cực : Nhìn chung bộ môn đòa lý được nhà trường, tổ chuyên môn
quan tâm, các thiết bò phục vụ cho bộ môn được nhà trường trang bò khá đầy đủ.
Trong giảng dạy giáo viên có tích cực đầu tư vào tiết dạy khá kỉ lưỡng. Các đồ dùng
trong thư viện của trường cũng được giáo viên sử dụng khá tích cực.
2.2- Mặt hạn chế: Mặt dù các thiết bò được nhà trường đầu tư nhưng không thể đầy
đủ vì số lượng biểu đồ, lược đồ trong sách giáo khoa thì có rất nhiều. Đa số giáo viên
khi giảng dạy đều sử dụng biểu đồ, lược đồ trong sách giáo khoa mà không phóng to
ra. Một bộ phận giáo viên khác nhận thức về việc dùng biểu đồ, lược đồ trong sách
giáo khoa chưa đúng. Từ đó thư viện có gì thì dạy nấy mà không chú ý đến việc làm
đồ dùng thêm trong quá trình giảng dạy. Có giáo viên dùng nguyên biểu đồ, lược đồ
trong sách giáo khoa để dạy mà không quan tâm đến việc học sinh có nhìn thấy hây
không? Một số khác ít chú ý đến việc rèn luyện kỹ năng bản đồ cho học sinh dẫn đến

kết quả học tập của học sinh ở bộ môn còn hạn chế.
Từ những lí do như trên, tôi quyết đònh tìm các biện pháp sử dụng bản đồ giáo khoa
có hiệu quả.

3.Các biện pháp đã ứng dụng.
3.1- Đối với thiết bò :
- Trường hợp thiết bò (bản đồ, lược đồ ) phục vụ giảng dạy đòa lý thiếu, thì cần tổ
chức cho học sinh vẽ để phục vụ giảng dạy. Phân công cho lớp thành hai nhóm, mỗi
nhóm vẽ một bản đồ cho bài học. Cách vẽ là chọn giấy lớn, sau đó vẽ hệ thống kinh
tuyến, vó tuyến trước, tuy nhiên cần tính xem phần cần vẽ phóng to bao nhiêu lần so
với bản đồ cần vẽ, sau đó giáo viên chấm điểm để tăng tính thích thú chuẩn bò trong
học sinh. Cuối cùng giáo viên chọn bản đồ đúng, đẹp để dạy trên lớp. Đối với học
sinh ở nông thôn thì phương pháp này hiệu quả không cao, điều kiện để các em vẽ là
rất khó khăn. Cách khác là giáo viên tự vẽ để phục vụ việc giảng dạy, cách này nhìn
chung là hiệu quả nhất và từ đó khắc phục tối đa việc dạy không có bản đồ trực quan
trên lớp.
Thí vụ: Ở bài Thiên nhiên Trung và Nam Mó, lớp 7 có lược đồ khí hậu Trung và
Nam Mó, nếu chỉ dùng kích cở lược đồ như trong sách giáo khoa thì học sinh sẽ không
nhìn thấy, trong khi đó thiết bò trong trường không có lược đồ này phóng to. Nên khi
dạy bài này giáo viên phải vẽ để phục vụ cho tiết dạy, bởi vì học sinh quan sát bản đồ
mới nhận ra sự phân hóa các kiểu khí hậu và sự phân hóa các môi trường tự nhiên.
- Trong trường hợp ở thiết bò có bản đồ đầy đủ thì trước tiên giáo viên cần luyện
cho học sinh thói quen làm việc với bản đồ, theo các bước:
Trang 2
3.2- Hiểu bản đồ: Vì trong chương trình giảng dạy đòa lý không có giờ giảng bản
đồ như một khoa học độc lập riêng cho nên phải kết hợp truyền thụ kiến thức bản đồ
cho học sinh lồng vào các bài giảng đòa lý cụ thể. Hiểu bản đồ đòa lý phải trên cơ sở
đònh nghóa của nó. Trên cơ sở đònh nghóa này mà học sinh hiểu được tính chất, đặc
điểm của bản đồ đòa lý và bản đồ giáo khoa, hiểu được các yếu tố cấu thành một bản
đồ. Từ tính chất và yếu tố cấu thành mà tiến hành khai thác các kiến thức đòa lý được

hình thành trên bản đồ.
Thí dụ: Từ yếu tố toán học trên bản đồ: đó là việc sử dụng phép chiếu hình bản đồ,
từ phép chiếu hình bản đồ mà ta có hệ thống kinh, vó tuyến khác nhau trên bản đồ.
Nhờ có hệ thống kinh, vó tuyến mà ta xác đònh được vò trí sự phân bố các lãnh thổ trên
Trái Đất. Hệ thống kinh, vó tuyến là cơ sở để xác đònh tọa độ của các hiện tượng đòa
lý, thông qua đó ta có thể thấy nó chòu chi phối của những quy luật đòa lý, xác đònh
được những quy luật phổ biến và những hiện tượng cá biệt. Bên cạnh hệ thống kinh,
vó tuyến ta cần phải chú ý đến tỷ lệ bản đồ, bởi vì tỷ lệ bản đồ ngoài ý nghóa là một
chỉ số toán học, nó còn ý nghóa là chỉ số giới hạn của nội dung trên mỗi bản đồ, các
nội dung và phương pháp đều tương ứng với tỷ lệ bản đồ. Mỗi khi thay đổi tỷ lệ phải
thay đổi nội dung cho phù hợp với tỷ lệ mới. Nhờ hệ thống kinh, vó tuyến và tỷ lệ bản
đồ mà hình thành cho học sinh kỹ năng sử dụng bản đồ: phân tích tổng hợp, hình
thành những biểu tượng, khái niệm và nắm được các quy luật vốn có trong tự nhiên,
kinh tế-xã hội được biểu hiện trên bản đồ thông qua ngôn ngữ bản đồ (hay còn gọi là
kí hiệu và phương pháp biểu hiện).
3.3- Rèn luyện kỹ năng đọc bản đồ: Việc rèn luyện kỹ năng đọc bản đồ cũng phải
trên cơ sở hiểu bản đồ, không hiểu bản đồ thì không đọc được bản đồ.
Thí dụ: Không hiểu được ngôn ngữ bản đồ, hay nói cách khác là không hiểu được
các đối tượng đòa lý được hình thành trên bản đồ thông qua (ngôn ngữ) các ký hiệu và
phương pháp biểu hiện trên bản đồ thì khó có thể khai thác, phân tích, tổng hợp khi
đọc bản đồ để giảng bài cho học sinh, làm cho bài giảng sâu hơn, có chất lượng cao.
Muốn đọc được bản đồ phải trên cơ sở các yếu tố hình thành bản đồ: yếu tố toán
học, yếu tố nội dung và yếu tố hổ trợ, bổ sung (bảng chú giải) là chìa khóa để đọc
được các yếu tố đòa lý hay nội dung của chủ đề bản đồ được thể hiện trên đó. Bảng
chú giải của bản đồ là tất cả những nội dung đòa lý của bản đồ được thể hiện bằng các
kí hiệu và phương pháp biểu hiện đòa lý của bản đồ.
Đọc bản đồ không chỉ đơn thuần là kỹ năng cách đọc một đối tượng cụ thể mà phải
biết khai thác, phân tích tổng hợp những kiến thức tiềm ẩn trong đó.
Thí dụ: Đọc một con sông trên bản đồ thì phải biết con sông bắt đầu ở đâu và kết
thúc ở đâu, gồm có những phụ lưu, chi lưu nào, chiều dài, hướng chảy của sông. Đồng

thời phải biết được những bản chất bên trong như: ở thượng nguồn (độ dốc, ghền
thác), ở hạ lưu của sông (thuyền, bè lớn có qua được không và có tác dụng bồi đắp
phù sa hay không…)của một dòng sông. Chẳng hạn như xác đònh sông Amadôn ở Nam
Mó. Giáo viên chỉ bản đồ cho học sinh thấy đây là con sông có diện tích lưu vực và
lượng nước lớn nhất thế giới, với hơn 500 phụ lưu lớn nhỏ, nằm ở cả nửa cầu Bắc và
nửa cầu Nam. Chỉ cho học sinh thấy nơi bắt nguồn là các vùng núi cao An đét và trên
Trang 3
các sơn nguyên Guy-a-na, Braxin, đồng thời cho học sinh thấy lượng phù sa bồi tụ ở
cửa sông là rất lớn…
Có như thế khi dạy một bài học đòa lý cụ thể mới làm cho học sinh hiểu sâu hơn,
nắm chắc hơn, nhớ kỹ và lâu hơn một hiện tượng đòa lý được học.
Đọc bản đồ giáo khoa đòa lý cũng phải được tiến hành tuần tự theo các nội dung
được đề cập trong bảng chú giải của bản đồ giống như đọc một cuốn sách vậy (cũng
phải đọc hết chương mục này sang chương mục khác) trên cơ sở mà hiểu sâu số
lượng, chất lượng, cấu trúc và động lực của hiện tượng đòa lý được trình bày trên bản
đồ. Từ đó mà phân tích tổng hợp, khái quát các đối tượng, hình thành những khái
niệm và nắm các quy luật vốn có của các đối tượng được thể hiện trên bản đồ.

4. Kết quả ứng dụng và thực tiễn:
Qua một thời gian thực hiện “cách sử dụng bản đồ giáo khoa trong dạy học đòa
lý” tôi nhận thấy rằng:
- Thông thường thì khi giảng bài ở lớp, giáo viên đưa ra những câu hỏi để học sinh
suy nghó, quan sát trên bản đồ để tìm ra câu trả lời. Đây là loại câu hỏi mà nội dung
câu trả lời đã có trong bản đồ, cho nên giáo vên cần chú ý đến cơ sở bản đồ giáo khoa
và bản đồ treo tường để học sinh sử dụng cho câu trả lời. Giáo viên cần quan sát xem
những học sinh ngồi cuối lớp có nhìn rõ bản đồ không? Nội dung câu trả lời có thể
nhận thấy đối với những em học sinh ngồi cuối lớp không? Đã có trường hợp câu hỏi
đưa ra chỉ có 5 đến 10 học sinh ngồi ở bàn đầu lớp chuẩn bò, còn hầu hết các học sinh
khác ở trong lớp ngồi chơi. Học sinh học đòa lí chưa sôi nổi và nhận đònh sai lệch về
mối quan hệ đòa lí, các đối tượng đòa lí, dẫn đến kết quả thấp.

- Sử dụng tốt phương pháp bản đồ khi truyền thụ bài giảng tại lớp, học sinh càng tích
cực nhiều hơn trong môn học đòa lí, ít tốn thời gian và có điều kiện để phát triển tư
duy nữa. Học sinh hiểu được nguyên tắc của bản đồ học, biết được hệ thống ký hiệu
bản đồ, phương pháp thể hiện bản đồ và sử dụng thành thạo bản đồ trong quá trình
học đòa lý. Biết xác đònh được đặc tính số lượng của các hiện tượng đòa lý trên bản đồ
giáo khoa, biết thành lập các biểu đồ, đồ thò để so sánh giá trò số lượng của các hiện
tượng. Học sinh có thể tính chiều dài của con sông, đường giao thông, tính diện tích
một khu vực…thông qua các buổi thực hành về bản đồ.
- Kết quả đạt được trong thời gian thực hiện từ ba năm trở lại đây (2006-2009) cho thấy: Nếu dùng
đúng cách sử dụng bản đồ trong sách giáo khoa thì học sinh tích cực học tập, lớp học sôi nổi, mức độ
hứng thú trong học tập sẽ được nâng cao. Từ đó học sinh nhận đònh đúng đắn về các đối tượng đòa lý,
kiến thức bộ môn sẽ được nắm chắc, những kỹ năng cần thiết của phân môn được học sinh tiếp nhận
một cách chắc chắn, từ đó chất lượng học tập của học sinh được nâng cao. Qua các năm học sự tiến bộ
trong học tập của học ngày một rõ nét hơn. Trong bốn năm có 13 học sinh đạt giải học sinh giỏi vòng
huyện và 6 học sinh đạt giải học sinh giỏi vòng tỉnh. Trong thời gian tới tăng cường hơn nữa biện
pháp này để đạt kết quả cao hơn.

III. Kết luận:
Qua thời gian thực hiện đề tài “cách sử dụng bản đồ giáo khoa trong giảng dạy
đòa lý” tôi nhận thấy có những kết quả khả quan, học sinh rất tích cực học tập đòa lý,
Trang 4
biết vẽ bản đồ giáo khoa, hiểu được bản đồ giáo khoa, đọc được bản đồ đòa lý, nhận
đònh đúng đắn về các đối tượng đòa lý, giải quyết tốt các bài tập đòa lý, từ đó tạo ra
niềm say mê học tập đòa lý trong học sinh. Từ những kết quả như vậy, tôi nhận thấy
bản đồ giáo khoa vô cùng quan trọng trong việc giảng dạy của giáo viên và học tập
của học sinh trong thời kì mới.
Với kết qua sau ba năm thực hiện đề tài “cách sử dụng bản đồ giáo khoa trong
giảng dạy đòa lý” tôi rút ra một số kinh nghiệm nêu trên. Nhìn chung về kinh nghiệm
trình bày sáng kiến không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong sự đóng góp của Hội đồng
khoa học các cấp nhằm hoàn chỉnh hơn để đề tài được ứng dụng có hiệu quả trong

giảng dạy.
Ngày… tháng..năm 2009.
Người viết.

Nguyễn Quốc Cường



Trang 5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×