Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở thông qua dạy học ca dao tục ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

PHẠM THỊ YẾN

GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
THƠNG QUA DẠY HỌC CA DAO, TỤC NGỮ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Hà Nội – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
THƠNG QUA DẠY HỌC CA DAO, TỤC NGỮ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. Văn Thị Minh Tư
Sinh viên thực hiện khóa luận: Phạm Thị Yến

Hà Nội – 2018


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này, lời cảm ơn đầu tiên chân thành


và sâu sắc nhất, em muốn gửi tới cô giáo hướng dẫn TS. Văn Thị Minh Tư_
người luôn tạo động lực và truyền cảm hứng cho em trong suốt quá trình học tập,
rèn luyện tại trường Đại học Giáo Dục. Đặc biệt là trong thời gian làm khóa luận
tốt nghiệp, cơ đã dành rất nhiều thời gian, cơng sức, tâm huyết, tình u nghề và
tình yêu người của mình để dẫn dắt và tạo cho em những nguồn cảm hứng mới,
những nguồn năng lượng tích cực và hơn hết là nhen nhóm trong em tình yêu
nghề và thương người sâu sắc.
Em cũng xin chân thành cảm ơn tồn thể thầy cơ trường Đại học Giáo Dục
và Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã trang bị cho em những kiến thức,
kinh nghiệm q báu để hồn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp. Và gửi lời cảm
ơn tới thầy cô giáo trường THCS Vình Hưng, THCS Ngũ Hiệp cùng tồn thể các
em học sinh của hai trường, đã giúp em hoàn thành việc khảo sát thực tiễn cho
đề tài.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài khơng thể tránh khỏi những hạn
chế và thiếu sót, vì vậy, em thiết tha mong muốn nhận được những lời góp ý của
q thầy cơ và các bạn!
Tác giả
Phạm Thị Yến


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GD

Giáo dục

GV

Giáo viên


HS

Học sinh

KH-KT
KNS
LHĐN

Khoa học – kĩ thuật
Kĩ năng sống
Lớp học đảo ngược

SGK

Sách giáo khoa

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thơng

UNESCO

Tổ chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục Liên Hợp Quốc

UNICEF


Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc

WHO

Tổ chức Y tế Thế giới


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 3
1.

Lý do lựa chọn đề tài...................................................................................................... 3

2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................. 5

3.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................... 9

4.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 10

5.

Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 11

6.


Giả thuyết của nghiên cứu ........................................................................................... 11

7.

Bố cục của nghiên cứu ................................................................................................. 11

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ............................... 12
1.1.

Cơ sở lý luận của đề tài ......................................................................................... 12

1.1.1.

KNS và giáo dục KNS trong nhà trường phổ thông ở Việt Nam .................. 12

1.1.2.

Tích hợp và dạy học tích hợp KNS môn Ngữ Văn ......................................... 17

1.1.3.

Khái quát về thể loại ca dao, tục ngữ Việt Nam ............................................ 19

1.1.4. Những định hướng chung về những kỹ năng cần rèn luyện cho HS THCS khi
dạy học ca dao, tục ngữ ............................................................................................... 27
1.2.

Cơ sở thực tiễn của đề tài ...................................................................................... 31


1.2.1.

Thực trạng việc dạy học ca dao, tục ngữ của HS lớp 7 ................................. 31

2.1.2.

Thực trạng vận dụng KNS của HS lớp 7........................................................ 32

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................................ 36
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
THCS THÔNG QUA GIẢNG DẠY CA DAO, TỤC NGỮ .......................................... 37
2.1. Các nguyên tắc định hướng việc hình thành và GD KNS theo quan điểm tích hợp
cho HS lớp 7 thơng qua giảng dạy ca dao, tục ngữ ......................................................... 37
2.1.1. Dạy học bám sát nội dung ................................................................................. 37
2.1.2.Đảm bảo tính giáo dục ........................................................................................ 37
2.1.3.Đảm bảo nguyên tắc về lượng ............................................................................ 37
2.1.4. Đảm bảo tính thường xuyên, liên tục ................................................................. 37
2.2. Một số phương pháp, kĩ thuật dạy học ..................................................................... 38
2.2.1. Phương pháp dạy học ........................................................................................ 38
2.2.1. Kĩ thuật dạy học ................................................................................................. 39

1


2.2.

Đề xuất quy trình dạy học ..................................................................................... 40

2.3.1. Xây dựng khơng gian lớp học ảo ....................................................................... 41
2.3.2. Quy trình dạy học.............................................................................................. 43

2.3.3. Triển khai quy trình dạy học .............................................................................. 43
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................................... 61
3.4. Đánh giá.................................................................................................................... 61
3.4.1. Về khó khăn ........................................................................................................ 61
3.4.2. Về thuận lợi ........................................................................................................ 61
3.5. Đề xuất và khuyến nghị ............................................................................................ 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................ 63
PHỤ LỤC ........................................................................................................................... 66

2


MỞ ĐẦU
1.

Lý do lựa chọn đề tài

1.1.

Đề tài được lựa chọn nhằm giải quyết vấn đề dạy học theo quan

điểm tích hợp trong bộ mơn Ngữ văn từ đó phát triển năng lực cho người
học đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay
Thế giới phát triển mạnh mẽ nhờ các cuộc cách mạng KH-KT mà gần đây
nhất là cuộc cách mạng KH-KT 4.0, địi hỏi nguồn nhân lực phải có trình độ cao,
nhanh nhạy và tích cực trong mọi lĩnh vực đời sống. Đây là cơ hội đồng thời
cũng là một thách thức lớn lao đối với mọi lĩnh vực, ngành nghề, trong đó có
giáo dục. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng nguồn lực trẻ, đáp ứng nhu
cầu của thời đại số hóa? UNESCO - Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa
Liên Hiệp Quốc đã đưa ra bốn trụ cột của GD thế kỉ XXI “Học để biết, học để

làm, học để cùng chung sống, học để tự khẳng định mình”. Nắm bắt xu thế ấy, ở
Việt Nam, GD đã chú trọng phát triển theo định hướng phát huy tính tích cực,
chủ động của người học, phát triển về cả năng lực và phẩm chất cho HS. Nội
dung này đã được đề cập chính thức từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI Nghị quyết số 29-NQ/TW được Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng ký ban hành vào 4/11/2013. Sau đó được nói chi tiết ở
Chương trình GD phổ thơng tổng thể 28/07/2017: “Chương trình giáo dục phổ
thơng bảo đảm phát triển phẩm chất và năng lực người học thông qua nội dung
giáo dục với những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại; hài hịa đức, trí, thể,
mỹ; chú trọng thực hành, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong học tập
và đời sống; tích hợp cao ở các lớp học dưới, phân hóa dần ở các lớp học trên;
thơng qua các phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục phát huy tính chủ động
và tiềm năng của mỗi học sinh” [12, tr.5]. Để thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu
này, việc chú trọng vào dạy KNS trong các trường phổ thông ngày càng được
3


quan tâm hơn bao giờ hết, đặc biệt là ở lứa tuổi THCS, THPT, bởi đây là lứa tuổi
có nhiều sự thay đổi về mặt tâm sinh lý, sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài bằng
các mối quan hệ cũng dần phức tạp hơn. Đặc biệt, ngày nay những hiện tượng
tiêu cực xảy ra ở lứa tuổi này khá nhiều như: tự tử, bạo lực học đường,… mà
một trong những ngun nhân chính đó là các em thiếu KNS. Bởi vậy, ở Việt
Nam, GD KNS tích hợp trong giảng dạy đang rất được quan tâm, bởi nó giúp
cho HS có những suy nghĩ, hành vi, thái độ đúng đắn, đồng thời phát triển các kĩ
năng mềm,… từ đó các em có thể phát triển một cách tồn diện về phẩm chất và
năng lực. Tóm lại, GD KNS trở thành yêu cầu quan trọng để hình thành nhân
cách con người hiện đại.
Thơng qua nghiên cứu và tìm hiểu về tích hợp GD KNS với việc giảng
dạy các bộ môn trong nhà trường, chúng tôi nhận thấy môn Ngữ văn là bộ mơn
có thể thực hiện được nhiệm vụ này. Đặc biệt, ca dao, tục ngữ nói riêng và văn

học dân gian nói chung được phát sinh trong q trình hoạt động sản xuất dùng
để thỏa mãn những nhu cầu tinh thần cho con người, một trong những nhu cầu
tinh thần ấy là việc truyền thụ và răn dạy lại cho con cháu đời sau những bài học
kinh nghiệm quý báu về lao động sản xuất cũng như về thái độ sống, giá trị sống.
Chính vì thế, khi giảng dạy hai thể loại này cho HS THCS, GV hồn tồn có thể
tích hợp GD KNS cho các em.
1.2.

Đề tài được lựa chọn từ thực tiễn dạy học ca dao, tục ngữ của

HS THCS hiện nay theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài, chúng tôi nhận thấy việc
dạy học ca dao, tục ngữ cho HS THCS có nhiều thuận lợi, lí do là đa số học sinh
đều rất yêu thích văn học dân gian nói chung và ca dao, tục ngữ nói riêng bởi sự
ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thuộc của thể loại này. Tuy nhiên, việc dạy học ca dao, tục
ngữ ở nhà trường THCS lại không đạt được hiệu quả như mong muốn. Vì vậy,
4


đứng trước yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng giờ
dạy, chúng tôi mong muốn đề xuất những phương pháp, biện pháp mới, tích cực
để khơng những GD KNS cho HS THCS mà cịn gây hứng thú cho các em trong
các tiết dạy về ca dao, tục ngữ. Từ đó, việc học tập bộ mơn Ngữ văn nói chung
và học tập ca dao, tục ngữ nói riêng khơng cịn là một “cuộc chiến”.
Từ hai lí do trên đây, chúng tôi quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THCS thông qua dạy học ca dao, tục
ngữ”.
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề


2.1.

Lịch sử nghiên cứu giáo dục kĩ năng sốngở nước ngoài

Ngay từ những năm 1970, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Quỹ Nhi đồng
Liên hợp quốc (UNICEF) đã tổ chức các hội thảo và các hoạt động GD kỹ năng
sức khỏe, các kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho thanh thiếu niên,… Thuật ngữ “Kỹ
năng sống” (Living skills, hoặc Live’skills) cũng bắt đầu xuất hiện, sau đó lan
rộng ra khắp các châu lục và các quốc gia, trở thành trào lưu của GD hiện đại.
Tại một số các quốc gia trên thế giới như Mỹ, Phần Lan, Ấn Độ, Anh,…
phương pháp GD truyền thống đã được chuyển sang phương pháp GD mang tính
trải nghiệm, tức là hướng tới việc GD những KNS cần thiết phục vụ cho cuộc
sống của chính các em.
Ở Mỹ, từ những năm 1980, tất cả các sinh viên đều có thể đăng ký chương
trình GD “Thanh thiếu niên vươn xa hơn” (TOP). Mục tiêu chính của chương
trình này là tăng cường các hành vi tích cực để dễ dàng đạt được các mục tiêu
cuộc sống, hỗ trợ đạt được các kỹ năng cần thiết để phát triển và có cuộc sống
hạnh phúc, mạnh khỏe, tạo mục tiêu cuộc sống thông qua các hoạt động đóng
góp tích cực tới cộng đồng cho các thanh thiếu niên. Hình thức hoạt động TOP

5


đưa vào giảng dạy 1 hay 2 lần/tuần và mỗi sinh viên không phải học TOP quá 20
giờ/năm.
Ở châu Á, tiếp cận việc GD KNS muộn hơn, cho đến tận cuối 1980, thậm
chí là ở một số nước phải sang tận những năm 1990. Song, ở nhiều nước Nam Á
và Đơng Nam Á hiện nay đã có nhiều hoạt động GD KNS phát triển mạnh mẽ.
Hội thảo về GD KNS ở khu vực châu Á Thái Bình Dương được tổ chức

ngày 30 tháng 9 đến ngày 2 tháng 10 năm 2013 tại Bangkok, Thái Lan và sau đó
là Hội thảo về Giáo dục KNS trong Giáo dục khơng chính quy với sự tham gia
của 15 nước được tổ chức vào tháng 12/2003 tại Bali, Indonesia. Tại Hội thảo,
các quốc gia đã báo cáo hoạt động GD KNS như sau:
Ở Thái Lan, KNS được quan niệm là thuộc tính hay năng lực tâm lý- xã
hội giúp cho cá nhân đương đầu với những tình huống hàng ngày một cách có
hiệu quả và có thể đáp ứng với hồn cảnh tương lai để sống hạnh phúc.
Ở Malaysia, GD KNS được dạy như là một môn học ở Tiểu học từ lớp 4,5
6; THCS từ lớp 7,8,9 và còn đan xen vào các môn học khác. Đối với HS Tiểu
học nhằm cung cấp những kỹ năng thực tế cơ bản để họ có thể thực hiện các
nhiệm vụ và có xu hướng kinh doanh. Đối với HS THCS nhằm tạo ra những cá
nhân có thể tự thực hiện được xóa mù về cơng nghệ và kinh tế, hơn thế là có
những đặc điểm về thái độ như: tự tin, sáng tạo, có khả năng tương tác hiệu quả
với người khác.
Ở Ấn Độ, từ cuối những năm 1980 đã có chương trình GD KNS mang tên
“Những lựa chọn cho cuộc sống tốt đẹp hơn” (BLP).
Ở Lào, KNS được đề cập bắt đầu từ những năm 1997. Nội dung KNS liên
quan đến việc phòng tránh HIV/AIDS lồng ghép vào chương trình GD chính
quy, khơng chính quy và các trường sư phạm đào tạo giáo viên. Năm 2001, nội

6


dung KNS được mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác như sức khỏe sinh sản, GD sức
khỏe và vệ sinh cá nhân, GD môi trường,…
Ở Nhật, ở Mỹ,…và nhiều quốc gia khác chú trọng việc dạy cho HS biết
cách tự lập: tự ăn, tự gấp quần áo, tự đi bộ tới trường,… từ lứa tuổi mầm non.
Có thể nói, việc GD KNS đang được quan tâm và chú trọng, với nhiều
hình thức, nhiều phương pháp, đặc biệt là thơng qua giảng dạy.
2.2.


Lịch sử nghiên cứu giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam

Ở Việt Nam, xa xưa, cha ông ta đã có câu “học ăn, học nói, học gói, học
mở”, tức là việc GD KNS đã được quan tâm từ rất sớm và đặc biệt cha ông ta
quan tâm đến những kỹ năng đơn giản nhất liên quan trực tiếp đến đời sống hàng
ngày: ăn, nói, mặc, ở,… (Lời nói gói vàng; Ăn trơng nồi ngồi trơng hướng;…).
Thuật ngữ “kỹ năng sống” (KNS) bắt đầu chính thức xuất hiện tại Chương
trình của UNICEF (1996) tại Việt Nam mang tên: “Giáo dục kỹ năng sống để
bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài
nhà trường”. Chương trình đưa ra những KNS cốt lõi như kỹ năng tự nhận thức,
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng kiên định, … Chuyển sang giai
đoạn 2, chương trình mang tên “Giáo dục sống khỏe mạnh và kỹ năng sống”.
Cho đến nay việc GD KNS đã phát triển một cách mạnh mẽ. Năm 2008,
xuất hiện Mô hình “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, trong đó
có một nội dung được chú ý đó chính là đưa GD KNS vào phương pháp giảng
dạy sao cho phù hợp với từng lứa tuổi. Sau 2008, Mô hình này đã trở thành
phong trào thi đua được thực hiện thí điểm tại một số trường chuẩn quốc gia
trong cả nước và được khuyến khích áp dụng rộng rãi ở tất cả các địa phương
trên toàn quốc. Việc GD KNS được thực hành thường xuyên nhất tại các trường
quốc tế hay trường dân lập tại Việt Nam thông qua các hoạt động chính thức trên
lớp hay các hoạt động của các giờ ngoại khóa như Trường Phổ thơng Olympia,
7


Trường Phổ thông dân lập Thăng Long, Trường Tiểu học dân lập Lơmơnơxơp,
… Bên cạnh đó là sự góp mặt của hàng loạt các Trung tâm GD KNS như TGM
Corporation, Tâm Việt,… được nhiều sự quan tâm của các bậc phụ huynh cũng
như của các em học sinh.
Không những thế, càng ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm

nghiên cứu đến việc GD KNS cho học sinh THCS và THPT, tiêu biểu như:
“Giáo dục Kỹ năng sống cho HS THPT” của GS.TS. Nguyễn Thanh Bình
[1] nêu lên mối quan hệ của việc GD KNS với GD toàn diện. Bên cạnh đó, tác
giả khẳng định KNS phải được thực hiện qua nhiều con đường khác nhau, đặc
biệt là việc tích hợp qua dạy học. Đồng thời đưa ra nhiều chủ đề GD KNS thiết
kế theo tiếp cận hình thành KNS chung. Trong đó, tác giả hướng dẫn một số trị
chơi và cách đặt câu hỏi của GV để giúp HS rèn luyện các KNS.
Một trong những cơng trình nghiên cứu đáp ứng được nhu cầu về mặt lí
luận cũng như phương pháp GD KNS phải kể tới “Giáo dục giá trị sống và KNS
cho HS THPT”[17] và “Giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho học sinh
THCS”[18] của nhóm tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Trần
Văn Tính, Vũ Phương Liên. Ở đây, các tác giả không những đưa ra những cơ sở
lý luận về hệ thống các giá trị sống của nhân loại và những KNS cần thiết cần
rèn luyện cho HS mà các tác giả cũng soi chiếu về góc độ tâm sinh lý của HS
THPT, THCS để từ đó đề xuất những biện pháp, đặc biệt là những trò chơi rèn
luyện giá trị sống và KNS cho HS THPT, THCS.
“Giáo dục kĩ năng sống trong hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở
trường THPT”[4] của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu ra tầm quan trọng của các
hoạt động ngoài giờ lên lớp trong việc giáo dục phẩm chất và năng lực cho người
học và định hướng một số cách tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp đáp ứng
được quá trình đổi mới GD hiện nay. Bên cạnh đó, có những đề tài nghiên cứu
8


cũng đề cập tới vấn đề này là Luận án Tiến sĩ Giáo dục học của Phan Thanh Vân
(2010) “Giáo dục KNS cho HS THPT thơng qua giáo dục ngồi giờ lên lớp”[26].
Ở một số nghiên cứu “Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ Văn ở
THPT”[8], “Giáo dục KNS trong môn Ngữ Văn ở THCS”[7] của Bộ Giáo dục và
Đào tạo cũng đã đưa ra một số định hướng việc dạy các đoạn trích cũng như một
số dạng bài văn biểu cảm có tích hợp rèn luyện KNS.

Trên cơ sở đó, chúng tơi nhận thấy các đề tài chủ yếu hướng đến việc GD
KNS thông qua dạy tác phẩm văn chương hay hoạt động ngoài giờ lên lớp. Đối
với việc dạy học ca dao, tục ngữ mới chỉ có một vài nghiên cứu liên quan đến
dạy học theo quan điểm tích cực trong chương trình Ngữ văn THPT và dạy học
ca dao tiếp cận theo đặc trưng thể loại. Tuy nhiên, như chúng tôi đã đề cập, ca
dao, tục ngữ là hai thể loại HS THCS rất yêu thích vì mức độ dễ hiểu, dễ nhớ,
tuy nhiên do một vài yếu tố khách quan và chủ quan nên việc dạy học hai thể
loại này chưa thực sự đạt kết quả như mong muốn. Vậy nên, thông qua đề tài tơi
chọn lựa với mong muốn đóng góp thêm về phần phương pháp dạy học ca dao,
tục ngữ trong nhà trường THCS, từ đó giúp cho q trình đổi mới GD trong bộ
mơn Ngữ văn nói riêng và cho hệ thống GD Việt Nam nói chung có nhiều bước
chuyển mình. Hơn thế là tạo sự hứng thú trong việc học thể loại ca dao, tục ngữ
cũng như môn Ngữ văn cho HS và giúp các em hình thành được một số kĩ năng
sống một cách hiệu quả.
3.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1.

Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn theo tinh thần đổi
mới việc dạy học ca dao, tục ngữ ở chương trình Ngữ văn THCS, đề tài đề xuất
một số phương hướng GD KNS cho HS thông qua dạy học ca dao, tục ngữ theo

9


quan điểm tích hợp áp dụng mơ hình lớp học đảo ngược, nhằm gây hứng thú và

hình thành ở người học những KNS cần thiết, góp phần nâng cao phẩm chất,
năng lực tổng hợp để phát triển nhân cách cho các em.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích đề ra, đề tài cần giải quyết những nhiệm vụ sau:
-

Hệ thống hóa cơ sở lý luận về GD KNS, dạy học tích hợp, GD KNS

thơng qua giảng dạy ca dao, tục ngữ cho HS THCS.
-

Hệ thống hóa cơ sở thực tiễn về dạy và học ca dao, tục ngữ trong

nhà trường THCS.
-

Đề xuất quy trình tích hợp GD KNS cho HS thông qua giảng dạy

chuyên đề ca dao, tục ngữ trong trường THCS áp dụng mơ hình lớp học đảo
ngược.
4.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4.1.

Đối tượng nghiên cứu


HS THCS tại trường THCS Ngũ Hiệp, THCS Vĩnh Hưng.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Ca dao, tục ngữ trong chương trình THCS chỉ được giảng dạy ở chương
trình Ngữ văn lớp 7, cụ thể như sau:
-

Bốn bài học về ca dao trong SGK Ngữ Văn lớp 7 tập Một (ban cơ

bản)
Bài “Những câu hát về tình cảm gia đình”
Bài “Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước”
Bài “Những câu hát than thân”
Bài “Những câu hát châm biếm”
-

Hai bài học về tục ngữ trong SGK Ngữ Văn lớp 7 tập Hai (ban cơ

bản)
10


Bài “Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất”
Bài “Tục ngữ về con người và xã hội”
5.

Phương pháp nghiên cứu


5.1.

Phương pháp nghiên cứu lý thuyết

Phân tích tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức từ các tài liệu tham khảo để
đưa ra cơ sở lí thuyết cho đề tài
5.2.

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Phương pháp quan sát, phỏng vấn sâu và điều tra bảng hỏi để thu thập số
liệu, đánh giá tình hình thực tiễn có liên quan đến đề tài.
5.3.

Phương pháp thống kê tốn học

Dùng để phân tích số liệu sau khi điều tra bảng hỏi
6.

Giả thuyết của nghiên cứu

Nếu đổi mới phương pháp dạy học ca dao, tục ngữ ở chương trình Ngữ
văn THCS theo hướng tích hợp GD KNS áp dụng mơ hình lớp học đảo ngược,
có cơ sở lý luận và thực tiễn thì sẽ phát triển được năng lực và phẩm chất của
người học, chất lượng giờ dạy sẽ được nâng cao.
7.

Bố cục của nghiên cứu


Chương 1: Cở sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Một số biện pháp tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
trung học cơ sở thông qua giảng dạy ca dao, tục ngữ

11


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.

Cơ sở lý luận của đề tài

1.1.1. KNS và giáo dục KNS trong nhà trường phổ thông ở Việt Nam
1.1.1.1.

Khái niệm KNS

Khi nói đến thuật ngữ “Kĩ năng sống” (Living skills) đã có nhiều quan
niệm khác nhau.
Theo UNESCO: “Kĩ năng sống (KNS) là năng lực cá nhân để thực hiện
đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày. KNS bao gồm một
loạt các kĩ năng cụ thể cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của con người. Bản
chất của KNS là kĩ năng tự quản bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân
tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả”. [22, tr.4]
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO): “Kĩ năng sống là các khả năng để có
hành vi thích ứng và tích cực giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các
nhu cầu và thách thức của cuộc sống hằng ngày”. [22, tr.4]
Theo UNICEF: “Kĩ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình
thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến
thức, hình thành thái độ và phát triển kĩ năng. Cách tiếp cận này nhấn mạnh việc

luyện tập thường xuyên, lặp đi lặp lại để củng cố”.[22, tr.4]
Theo Nguyễn Thị Mỹ Lộc “Giáo dục KNS là một quá trình với những
hoạt động GD cụ thể nhằm tổ chức, điều khiển để HS biết cách chuyển tải những
gì mình biết (nhận thức), những gì mình cảm nhận (thái độ) và những gì mình
quan tâm (giá trị) thành những khả năng thực thụ giúp HS biết phải làm gì và
làm như thế nào (hành vi) trong những tình huống khác nhau của cuộc sống”
[18, tr.108-109].
Từ những quan niệm về KNS nói trên, có thể thấy rằng: “Có nhiều cách
biểu đạt khái niệm KNS với quan niệm rộng hẹp khác nhau tùy theo cách tiếp
12


cận vấn đề. Khái niệm KNS được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những năng
lực tâm lý xã hội. Theo nghĩa rộng, KNS không chỉ bao gồm năng lực tâm lý xã
hội mà còn bao gồm cả những kĩ năng tâm vận động.” [26, tr. 17].
Tóm lại, hiện nay vẫn chưa có định nghĩa cụ thể rõ ràng và đầy đủ cho
khái niệm này. Nhưng chúng ta có thể hiểu đơn giản, KNS là một tập hợp những
kĩ năng mà con người có được thơng qua việc giảng dạy hoặc kinh nghiệm, trực
tiếp được sử dụng để xử lí, giải quyết những vấn đề thường gặp trong cuộc sống
hàng ngày của con người.
1.1.1.2.

Các kĩ năng sống trong giáo dục

Ở Thái Lan cho rằng, GD KNS phải giúp người học đạt được 10 kỹ năng:
Ra quyết định một cách đúng đắn; Giải quyết xung đột; Sáng tạo; Phân tích và
đánh giá tình hình; Giao tiếp; Quan hệ liên nhân cách; Làm chủ cảm xúc; Làm
chủ được các cú sốc (stress); Đồng cảm; Thực hành.
Ở Lào lại bao gồm: Kỹ năng giao tiếp có hiệu quả; kỹ năng quan hệ liên
nhân cách, kỹ năng thương lượng, từ chối; kỹ năng giải quyết vấn đề; kỹ năng tư

duy sáng tạo, phê phán; kỹ năng ra quyết định; kỹ năng tự nhận thức; kỹ năng
đặt mục tiêu; kỹ năng đương đầu với xúc cảm, stress; kỹ năng xác định giá trị;…
Ở Bangladesh, GD KNS chia ra thành 3 nhóm.
+ Nhóm 1: Các kỹ năng xã hội: kỹ năng tồn tại (giải quyết vấn đề, chăm
sóc sức khỏe,…); kỹ năng kinh tế (kỹ năng tiếp thị, quản lý, tính tốn, đầu tư cho
nguồn lực sản xuất,…); kỹ năng ngôn ngữ (đọc, viết, giao tiếp,…).
+ Nhóm 2: Các kỹ năng phát triển: kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng
tham gia, kỹ năng quan hệ liên nhân cách, kỹ năng thương thuyết,…
+ Nhóm 3: Các kỹ năng chuẩn bị cho tương lai: kỹ năng sử dụng công
nghệ thông tin, quản lý stress, giải quyết xung đột,…

13


Cũng chia ra thành 3 nhóm kỹ năng sống cơ bản, dựa trên cách phân loại
từ lĩnh vực sức khỏe, UNESCO đưa ra như sau [17, tr.100]
+ Kỹ năng nhận thức: Tư duy phê phán, giải quyết vấn đề, nhận thức hậu
quả, ra quyết định, khả năng sáng tạo, tự nhận thức bản thân,…
+ Kỹ năng đương đầu với cảm xúc: ý thức trách nhiệm, cam kết, kiềm chế
căng thẳng, kiểm soát cảm xúc,…
+ Kỹ năng xã hội hay kỹ năng tương tác: giao tiếp, tính quyết đốn, kỹ
năng thương thuyết/ từ chối, lắng nghe tích cực, hợp tác, sự thông cảm, …
Cách phân loại kĩ năng sống của UNICEF được dựa trên mục đích là giúp
HS giải quyết được những vấn đề trong cuộc sống và tự hoàn thiện mình. Từ đó,
họ phân loại theo cá mối quan hệ của cá nhân.
+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với chính mình: kĩ năng tự nhận thức,
lịng tự trọng, sự kiên định, đương đầu với cảm xúc, đương đầu với căng thẳng;
+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với người khác: kĩ năng quan hệ tương
tác liên nhân cách, sự cảm thông, đứng vững trước áp lực tiêu cực, thương
lượng, giao tiếp có hiệu quả;

+ Nhóm kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả: tư duy phê phán, tư duy
sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề.
Khoa Quốc tế trường Đại học Thái Nguyên đưa ra danh mục các KNS cần
thiết trong cuộc sống và các nhà tuyển dụng hay chú ý, bao gồm 25 kỹ năng:
giao tiếp, viết, sự trung thực, làm việc theo nhóm, sự chủ động, lòng tin cậy, khả
năng tập trung, giải quyết khủng hoảng, tính linh hoạt và thích ứng, kỹ năng lãnh
đạo, khả năng kết nối, chịu được áp lực cơng việc, kỹ năng đặt câu hỏi, lịng tin
cậy, tư duy sáng tạo, kỹ năng gây ảnh hưởng, kỹ năng nghiên cứu, tổ chức, giải
quyết vấn đề, nắm chắc về đa dạng văn hóa, kỹ năng sử dụng máy tính, tinh thần

14


học hỏi, định hướng chi tiết công việc, kỹ năng định lượng, kỹ năng đào tạo và
truyền thụ, kỹ năng quản lý thời gian.
Đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến giảng dạy KNS trong nhà trường
phổ thông, tác giả Nguyễn Thanh Bình cũng đưa ra cách phân loại các KNS theo
ba nhóm:
+ Nhóm 1: Nhóm kĩ năng nhận thức bao gồm: tư duy phê phán, giải quyết
vấn đề, nhận thức hậu quả, tư duy phân tích, khả năng sáng tạo, tự nhận thức, đặt
mục tiêu, xác định giá trị…
+ Nhóm 2: Nhóm các kĩ năng đương đầu với cảm xúc bao gồm: ý thức
trách nhiệm, cam kết, kiềm chế sự căng thẳng, kiềm chế cảm xúc, tự quản lý, tự
giám sát và tự điều hành.
+ Nhóm 3: Nhóm các kĩ năng xã hội (kĩ năng tương tác): giao tiếp, quyết
đốn, thương thuyết, từ chối, hợp tác, sự cảm thơng chia sẻ, khả năng nhận thấy
thiện cảm của người khác.
Hiện nay, có rất nhiều cách phân chia các loại KNS khác nhau trong GD
và việc phân loại ấy chỉ mang tính chất tương đối. Trong cuộc sống, khi tham gia
vào một hoạt động bất kì, con người cần phải biết kết hợp nhuần nhuyễn các

KNS để có thể đạt được hiệu quả tốt nhất. Tuy nhiên, để nghiên cứu về việc GD
KNS cho HS lớp 7 THCS chúng tôi nhận thấy việc phân chia theo quan điểm
giảng dạy tại trường phổ thông ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Thanh Bình là
hợp lý hơn cả vì dựa trên cơ sở đặc điểm tâm sinh lý, bối cảnh xã hội,… của GD
Việt Nam.
1.1.1.3.

Mục tiêu của GD KNS

Mục tiêu GD của Việt Nam thể hiện mục tiêu GD thế kỷ XXI mà
UNESCO đã đưa ra, đó là: Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng định và
Học để cùng chung sống.
15


Trong bối cảnh xã hội ngày càng phát triển theo hướng hiện đại, đặt ra
nhiều mối lo ngại cho con người với sự phát sinh của hàng loạt các vấn đề bức
bối. Từ những tệ nạn đã chẳng còn xa lạ như ma túy, mại dâm, trộm cắp, cờ
bạc,… nay lại xuất hiện hàng loạt những vấn đề mới đầy nhức nhối như bạo lực
học đường, bạo lực gia đình, lừa đảo, đa cấp,… Những tệ nạn ấy đã và đang xảy
ra trong mơi trường học đường nói chung và đối với HS THCS nói riêng mà hầu
hết nguyên nhân đều do các em thiếu KNS. Trong khi đó, do sự phát triển của
kinh tế cộng thêm ma lực của đồng tiền khiến cho GD trong gia đình ngày càng
lơi lỏng và ít được quan tâm, GD ngồi xã hội lại đầy rẫy những hiểm nguy, luôn
luôn chờ thời cơ đến. Chính vì vậy, GD trong nhà trường vì thế mà chiếm một
vai trị và vị trí khơng những đặc biệt mà cịn vơ cùng quan trọng đối với sự phát
triển của mỗi cá nhân.
GD trong nhà trường không những đảm nhiệm vai trò truyền tải tri thức
liên quan đến khoa học mà cịn phải giúp các em hình thành và phát triển những
KNS cần thiết đáp ứng cho cuộc sống sau này của chính các em và xa hơn là tạo

ra những giá trị thiết thực cho xã hội, từ đó mà bản thân cá nhân ấy thấy được ý
nghĩa của cuộc sống. Như Lewis L. Dunnington đã từng nói: “Ý nghĩa của cuộc
sống khơng phải ở chỗ nó đem đến cho ta điều gì, mà ở chỗ ta có thái độ đối với
nó ra sao; khơng phải ở chỗ điều gì xảy ra với ta, mà ở chỗ ta phản ứng với
những điều đó như thế nào.”. Tức là ý nghĩa của cuộc sống nằm ở cách chúng ta
ứng phó và đón nhận những gì xảy với mình và chỉ khi chúng ta có đầy đủ KNS,
chúng ta mới hành động tích cực để biến cuộc sống của chính mình có ý nghĩa
hơn.
Từ đó, chúng tơi nhận thấy mục tiêu đặt ra của GD KNS cho HS trong nhà
trường phổ thơng chính là:

16


-

Trang bị cho HS những kiến thức, kĩ năng, thái độ phù hợp. Trên cơ

sở đó hình thành cho HS những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực. Loại bỏ
những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt
động hàng ngày.
-

Tạo cơ hội thuận lợi để HS thực hiện tốt quyền và bổn phận của

mình, phát triển hài hịa về trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
1.1.2. Tích hợp và dạy học tích hợp KNS mơn Ngữ Văn
1.1.2.1.

Khái niệm tích hợp – dạy học tích hợp


Dạy học tích hợp đã và đang trở thành một xu thế được các quốc gia trên
thế giới, trong đó có Việt Nam triển khai thực hiện, đặc biệt là ở trong bối cảnh
nước ta đang đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục và đào tạo. Dạy học tích
hợp nhằm định hướng hình thành một số năng lực cho người học.
Khái niệm “tích hợp” (integration) bắt nguồn từ tiếng Latinh, có nghĩa là:
“xác lập cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở những bộ phận riêng
lẻ” [10, tr. 8]. Tích hợp là sự hợp nhất các bộ phận để tạo nên một đối tượng mới
thống nhất dựa trên những những yếu tố thuộc về bản chất của các đối tượng cũ
chứ không phải là một “phép cộng”, một sự chắp nối giản đơn.
Như vậy, dạy học tích hợp có nghĩa là sự liên kết, hợp nhất các đối tượng
trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong cùng một lĩnh vực hoặc ở các lĩnh
vực khác nhau. “Trong dạy học tích hợp, HS dưới sự chỉ đạo của GV thực hiện
việc chuyển đổi liên tiếp các thông tin ngôn ngữ của môn học này sang ngôn ngữ
của môn học khác; HS học cách sử dụng những kiến thức, kĩ năng và thao tác để
giải quyết một tình huống phức hợp – thường là gắn với thực tiễn. Chính nhờ
q trình đó, HS nắm vững kiến thức, hình thành khái niệm, phát triển năng lực
và các phẩm chất cá nhân.”[23, tr. 13]
1.1.2.2.

Các mức độ tích hợp trong dạy học
17


Theo quan điểm của Forgaty (1991) có 3 mức độ tích hợp: Tích hợp trong
khn khổ các mơn riêng rẽ; Tích hợp liên mơn; Tích hợp xun mơn.
Theo quan điểm của Xavier Rogier có 4 mức độ tích hợp: Tích hợp nội
mơn; Tích hợp đa mơn; Tích hợp liên mơn; Tích hợp xun mơn
Có thể nói rằng, về cơ bản quan điểm của Forgaty và Xavier Rogier giống
nhau, Xavier Rogier đã tách mức độ tích hợp trong khn khổ các mơn thành hai

mức độ là nội mơn và đa mơn.
Nhóm tác giả của cuốn sách “Dạy học tích hợp phát triển năng lực học
sinh” của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội căn cứ vào hoạt động tích hợp nội
dung trong dạy học mà phân chia thành 3 mức độ tích hợp khác nhau như sau:
-

Lồng ghép/ Liên hệ: GV đưa các nội dung của các môn học khác

nhau hoặc là thực tiễn vào dòng chảy của kiến thức ở những thời điểm thích hợp.
-

Vận dụng kiến thức liên mơn: hoạt động học khi đó diễn ra xung

quanh các chủ đề, ở đó HS vận dụng kiến thức của nhiều mơn học để giải quyết
vấn đề được đặt ra.
-

Hịa trộn: Đây là mức độ cao nhất trong dạy học tích hợp. Khơng

cịn khn khổ các mơn riêng rẽ, GV sẽ thiết kế các chủ đề học tập mà nội dung
của chủ đề tích hợp là sự hợp nhất của hai hay nhiều mơn học khác nhau.
1.1.2.3.

Dạy học tích hợp KNS trong mơn Ngữ Văn

Việc tích hợp GD KNS trong dạy học ca dao, tục ngữ là tích hợp nội mơn
với cách thức tổ chức là xây dựng chuyên đề dạy học tích hợp. Tức là chúng tơi
tập hợp những đơn vị kiến thức gần nhau hoặc liên quan đến nhau trong cùng
một môn (ở đây là những bài học đọc – hiểu về ca dao, tục ngữ trong chương
trình Ngữ văn lớp 7) để xây dựng thành một đơn vị kiến thức tương đối hồn

chỉnh, độc lập. Dạy học tích hợp trong bộ mơn Ngữ Văn nói chung và tích hợp

18


GD KNS nói riêng đã đang và sẽ là xu thế mới, cấp bách và cần thiết nhằm khắc
phục những tồn tại trong việc dạy học Ngữ Văn ở THCS.
1.1.3. Khái quát về thể loại ca dao, tục ngữ Việt Nam
1.1.3.1.

Giới thiệu chung về hai thể loại ca dao, tục ngữ Việt Nam

Theo nhóm tác giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên trong cuốn giáo trình
“Văn học dân gian Việt Nam”, về việc phân chia các thể loại văn học dân gian
Việt Nam thành 4 nhóm như sau:
-

Lời ăn tiếng nói của nhân dân: tục ngữ và câu đố.

-

Các thể loại tự sự dân gian: thần thoại, truyện cổ tích, truyện ngụ

ngơn, truyện cười,…
-

Các thể loại trữ tình dân gian: ca dao, dân ca,…

-


Sân khấu dân gian: chèo, tuồng,…

Như vậy, có thể thấy rằng, tục ngữ và ca dao là hai thể loại thuộc hai loại
hình diễn xướng gần nhau nhưng vẫn có điểm khác nhau. Nếu như tục ngữ
nghiêng về lời ăn tiếng nói hằng ngày, dễ sử dụng trong đời sống thì ca dao
nghiêng về lối diễn xướng thêm lời ca để trở thành dân ca trong đời sống.
1.1.3.2. Khái quát về thể loại ca dao Việt Nam
a. Khái niệm
Theo sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 tập Một, ban cơ bản, “ca dao, dân ca
là những khái niệm tương đương, chỉ các thể loại trữ tình dân gian, kết hợp lời
và nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người. Hiện nay người ta có phân biệt
hai khái niệm dân ca và ca dao. Dân ca là những sáng tác kết hợp lời và nhạc,
tức những câu hát dân gian trong diễn cướng. Ca dao là lời thơ của dân ca. Ca
dao còn bao gồm cả những bài thơ dân gian mang phong cách nghệ thuật chung
với lời thơ của dân ca. Khái niệm ca dao còn được dùng để chỉ một thể thơ dân
gian – thể ca dao” [5, tr. 35]
19


Khái niệm này cũng giống với quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu.
Trong “Từ điển thuật ngữ văn học” của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử cịn nêu rõ
lịch sử hình thành và phát triển trong cách định nghĩa của ca dao và dân ca như
sau:
“Do tác động của hoạt động sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian, ca
dao đã dần dần chuyển nghĩa. Từ một thế kỉ nay, các nhà nghiên cứu văn học
dân gian Việt Nam đã dùng danh từ ca dao để chỉ riêng thành phần nghệ thuật
ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca (không kể những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng
dưa hơi). Với nghĩa này, ca dao là thơ ca dân gian truyền thống” [14, tr.31,32].
b. Đặc trưng thi pháp thể loại ca dao
Trong cuốn “Thi pháp ca dao” của GS. TS Nguyễn Xuân Kính đã trình

bày rất chi tiết, cụ thể, tỉ mỉ về đặc trưng thi pháp của ca dao.


Về ngơn ngữ trong ca dao

Ngôn ngữ ca dao là thứ ngôn ngữ nghệ thuật giản dị, trong sáng. Đó là sự
giản dị, trong sáng được bộc lộ qua lời cưa cẩm đầy ý nhị:
Hơm qua tát nước đầu đình
Bỏ qn chiếc áo trên cành hoa sen
Em nhặt thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà.
Đó là tình u chân thành, mộc mạc của chàng trai gửi cho cô gái:
Tiện đây anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh không?

20


Ngơn ngữ ca dao cịn là thứ ngơn ngữ sinh động và giàu sức biểu cảm
được thể hiện thông qua việc sử dụng số lượng phong phú và chính xác những
động từ, danh từ, tính từ, đại từ, đặc biệt là những từ láy rất gợi hình, gợi cảm,
cùng với đó là một loạt các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,… hết sức
đặc sắc.
Ngơn ngữ ca dao được tổ chức, sắp xếp để sử dụng tạo nên nhiều lớp
nghĩa. Như hình ảnh bơng sen trong đầm để nói về đức tính tốt đẹp của con
người.
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bơng trắng, lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Đại từ nhân xưng và đại từ phiếm chỉ xuất hiện dày đặc trong các bài ca
dao.
Muối ba năm muối hãy cịn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy cịn cay
Đơi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi chăng nữa thì cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới quên
Hay là lời ca ai oán than thân cho người phụ nữ,
Ai làm cho bể kia đầy
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con

21


×