Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học phổ thông cẩm lý huyện lục nam tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 131 trang )

Đại học Quốc gia Hà Nội
Khoa S- phạm

NGUYN VN NINH

MT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CẨM LÝ
HUYỆN LỤC NAM - TỈNH BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Chuyên ngành : QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số : 60 14 05

Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS Bùi Văn Quân

HÀ NỘI – 2006


MỤC LỤC

Nội dung

Trang

Mở đầu

1

1. Lý do chọn đề tài


1

2. Mục đích nghiên cứu

3

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3

4. Giả thuyết khoa học

3

5. NhiƯm vơ nghiªn cøu

3

6. Giới hạn đề tài

4

7. Phương pháp nghiên cứu

4

8. Cấu trúc luận văn

4


Chương 1: Cơ sở lý luận của các giải pháp quản lý quá trình giáo
dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông

5

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

5

1.2. Các khái niệm cơng cụ

10

1.3. Q trình giáo dục đạo đức trong trường THPT

16

1.4. Quản lý quá trình giáo dục đạo đức trong trường THPT

25

Chương 2: Thực trạng công tác quản lý quá trình giáo dục đạo
đức ở trường THPT Cẩm Lý – Huyện Lục Nam hiện nay

35

2.1. Khái quát tình hình kinh tế xã hội và giáo dục của huyện Lục
Nam tỉnh Bắc Giang

35


2.2. Thực trạng công tác GDĐĐ học sinh của trường THPT Cẩm Lý

39

2.3. Đánh giá thực trạng quá trình giáo dục đạo đức và biện pháp
quản lý quá trình giáo dục đạo đức của nhà trường

54

Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức cho học sinh trường THPT Cẩm Lý

72


3.1. Các nguyên tắc đề xuất giải pháp

72

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
cho học sinh trường THPT Cẩm Lý

73

Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức cho các đối tượng tham gia quá
trình giáo dục đạo đức cho học sinh

73


Giải pháp 2: Nâng cao vị trí, vai trị của giáo viên chủ nhiệm

76

Giải pháp 3: Nâng cao ý thức tự tu dưỡng và phong trào tự quản của
học sinh

80

Giải pháp 4: Nâng cao vai trị của tổ chức Đồn thanh niên
trong nhà trường

83

Giải pháp 5: Nâng cao chất lượng các mơn học có ưu thế trong giáo
dục đạo đức

85

Giải pháp 6: Quản lý tốt các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp

89

Giải pháp 7: Nâng cao chất lượng giáo dục gia đình

93

Giải pháp 8: Quản lý các lực lượng xã hội tham gia giáo dục đạo
đức
trên địa bàn


95

3.3. Mối quan hệ hữu cơ giữa các giải pháp

97

3.4. Các điều kiện để đảm bảo tính khả thi của các giải pháp

98

3.5. Khảo nghiệm tính khả thi của các giải pháp

99

Kết luận và khuyến nghị

102

1. Kết luận

102

2. Khuyến nghị

104

Tài liệu tham khảo

106


Phụ lục


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BGH

Ban giám hiệu

CNH - HĐH

Cơng nghiệp hố - Hiện đại hoá

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CSVC

Cơ sở vật chất

ĐH - CĐ

Đại học - Cao đẳng

GD - ĐT

Giáo dục - Đào tạo


GDĐĐ

Giáo dục đạo đức

GDCD

Giáo dục công dân

GDTH

Giáo dục tiểu học

GDTX

Giáo dục thường xuyên

GS. VS

Giáo sư - Viện sĩ

GVCN

Giáo viên chủ nhiệm

HĐND

Hội đồng nhân dân

PGS. TS


Phó Giáo sư - Tiến sĩ

PTCS

Phổ thơng cơ sở

PTS

Phó tiến sĩ

TDTT

Thể dục thể thao

THCN

Trung học chuyên nghiệp

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TNCS

Thanh niên cộng sản


UBND

Uỷ ban nhân dân

VH - VN

Văn hoá- Văn nghệ

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

XHH

Xã hội hoá


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay ở Việt
Nam đã và đang đặt ra những nhiệm vụ rất nặng nề cho ngành Giáo dục và
Đào tạo. Vì vậy mục tiêu của giáo dục Việt Nam được ghi rõ trong điều 2
Luật giáo dục 2005 như sau: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình
thành và phát triển nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[25]
Giáo dục đạo đức là một trong những yếu tố vơ cùng quan trọng
trong việc hình thành và phát triển nhân cách cũng như tạo nên giá trị mỗi
con người nên được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng đầu, được thể chế

hố thành điều luật mang tính pháp lý cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh
tụ thiên tài, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta rất coi trọng giáo dục đạo
đức. Người cho rằng: “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng” và coi
giá trị mỗi con người gồm hai mặt: Đức và Tài. Người chỉ rõ: “Có đức mà
khơng có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà khơng có đức là người vơ
dụng” và: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì
sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân"[1]
Từ năm 1986 khi Đảng ta thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế
nước ta vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN đã tạo nên sự
chuyển biến mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực, tác động đến mọi mặt của
đời sống xã hội, trong đó có giáo dục. Trước xu thế mở cửa, hội nhập quốc
tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ, trở thành một quy luật và đòi hỏi tất yếu của
thời đại, một số giá trị và chuẩn mực đạo đức truyền thống gặp những thách

1


thức lớn trước sự xâm nhập của văn hoá nước ngoài, của lối sống Phương
Tây cũng như sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Tầng lớp thanh, thiếu niên vốn rất nhạy cảm với cái mới, nhưng
kinh nghiệm cuộc sống còn hạn chế nên rất dễ bị cuốn vào vịng xốy của
những cám dỗ về vật chất, dễ mắc các tệ nạn xã hội và sa vào vòng ảnh
hưởng của lối sống thực dụng, hưởng thụ vật chất, kích động bạo lực, tình
dục, muốn thốt ly sự kiểm sốt của gia đình, nhà trường, xã hội,... coi
thường và xa rời các chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc. Tình
trạng thanh thiếu niên mắc vào các tệ nạn xã hội, vi phạm đạo đức, vi phạm
pháp luật ngày càng gia tăng và có chiều hướng diễn biến phức tạp. Đặc
biệt là các tệ nạn và tiêu cực xã hội, tình trạng bạo lực, lối sống bng

thả,... bắt đầu xâm nhập học đường gây rất nhiều lo lắng cho các bậc phụ
huynh.
Trong những năm gần đây, dư luận xã hội rất bức xúc trước tình
trạng học sinh vơ lễ, vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật, tình trạng bạo
lực, quan hệ tình dục trước hơn nhân trong học đường,... ngày càng gia tăng
mà một trong những nguyên nhân quan trọng là do những vấn đề còn bất
cập trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, đặc biệt là học sinh bậc
THPT. Vậy chúng ta phải làm gì để khắc phục tình trạng trên, góp phần
thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam,
nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ cơng cuộc cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước?
Xuất phát từ tầm quan trọng của giá trị đạo đức và quá trình giáo dục
đạo đức đối với sự phát triển toàn diện của học sinh bậc THPT, từ thực
trạng công tác giáo dục đạo đức và chất lượng hiệu quả công tác giáo dục
đạo đức trong các trường THPT hiện nay còn nhiều bất cập.
Xuất phát từ yêu cầu của giáo dục đạo đức đòi hỏi sự tham gia và kết
hợp đồng bộ của mọi lưc lượng xã hội.

2


Nhận thức được vai trò tổ chức quản lý của nhà trường và gia đình
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh.
Trước những yêu cầu, kỳ vọng của gia đình - xã hội về chất lượng và
hiệu quả giáo dục đạo đức học sinh trong các trường THPT nói chung cũng
như ở trường THPT Cẩm Lý nói riêng hiện nay, tơi chọn đề tài nghiên cứu
luận văn:
“Một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng quá trình
giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPT Cẩm Lý - Huyện Lục Nam
- Tỉnh Bắc Giang”

2. Mục đích nghiên cứu
Xác định một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng quá
trình giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPT Cẩm Lý - Huyện Lục
Nam - Tỉnh Bắc Giang.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Lý luận và thực tiễn cơng tác quản lý q trình giáo dục ở trường
THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các giải pháp quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh của
trường THPT Cẩm Lý - Huyện Lục Nam - Tỉnh Bắc Giang.
4. Giả thuyết khoa học
Quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THPT Cẩm Lý Huyện Lục Nam - Tỉnh Bắc Giang vẫn còn những hạn chế. Một trong
những ngun nhân của hạn chế đó là cơng tác quản lý q trình này trong
nhà trường cịn những bất cập .
Nếu đề xuất được những giải pháp quản lý khoa học, khả thi sẽ góp
phần nâng cao chất lượng quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh của
trường THPT Cẩm Lý - Huyện Lục Nam - Tỉnh Bắc Giang.

3


5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về quá trình giáo dục đạo đức
và quản lý quá trình giáo dục đạo đức học sinh trong trường THPT.
- Nghiên cứu thực trạng quá trình giáo dục đạo đức và quản lý quá
trình giáo dục đạo đức học sinh trong trường THPT Cẩm Lý - Huyện Lục
Nam.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng quá
trình giáo dục đạo đức cho học sinh của trường THPT Cẩm Lý - Huyện

Lục Nam - Tỉnh Bắc Giang.
6. Giới hạn đề tài
- Nghiên cứu thực trạng quá trình giáo dục đạo đức của trường
THPT Cẩm Lý - Huyện Lục Nam trong 5 năm gần đây.
- Đề tài chủ yếu tập trung vào nghiên cứu các giải pháp quản lý của
nhà trường với chủ thể là Ban giám hiệu nhà trường.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài kết hợp các phương pháp sau đây:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc và phân tích tài liệu trong
và ngồi nước có liên quan đến đề tài quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Nghiên cứu các văn bản pháp quy, các văn kiện và chủ trương chính sách
của Đảng, Nhà nước về giáo dục nói chung cũng như giáo dục đạo đức nói riêng.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra,
phỏng vấn, phương pháp quan sát, phương pháp trao đổi tổng kết kinh
nghiệm, phương pháp lấy ý kiến chuyên gia, sử dụng thống kê toán học.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn được cấu trúc trong 3 chương.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của các giải pháp quản lý quá trình
giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông

4


Chƣơng2: Thực trạng cơng tác quản lý q trình giáo dục đạo
đức ở trƣờng THPT Cẩm Lý – Huyện Lục Nam hiện nay
Chƣơng3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục
đạo đức cho học sinh trƣờng THPT Cẩm Lý
Chƣơng 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nền văn minh Phương Đơng có ảnh hưởng khơng nhỏ đến văn hố
Việt Nam. Vì thế, cha ơng ta vốn rất coi trọng chữ “Đức” và coi đó là
một phẩm chất hàng đầu và không thể thiếu của mỗi con người, với triết
lý sống “tu nhân, tích đức” để tự răn mình, răn người. Đó chính là cội
nguồn của truyền thống nhân đạo, nhân ái, vị tha, thấm đượm tình
người,... rất tốt đẹp của dân tộc ta, truyền thống đó cịn tiếp nối tới ngày
nay và cịn mãi mãi về sau.
Hiện nay chúng ta đang thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế
nước ta vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên
cạnh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng còn khơng ít những vấn
đề bức xúc về đạo đức cần phải giải quyết. Đó là tác động tiêu cực của mặt
trái cơ chế thị trường, của lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, sẵn sàng
chà đạp lên nhân phẩm của người khác, hoàn toàn xa lạ với truyền thống
văn hố dân tộc. Đó cịn là ảnh hưởng của văn hố ngoại lai, hậu quả của
xu thế tồn cầu hố mà đáng lo ngại là sự xuống cấp về đạo đức của tầng
lớp thanh, thiếu niên, đặc biệt là các em học sinh bậc THPT, lứa tuổi chuẩn
bị bước vào đời, chủ nhân tương lai của đất nước.
Trước thực tế đó, ở Việt Nam đã có một số tác giả nghiên cứu về vấn
đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung cũng như cho học
sinh THPT nói riêng.

5


Trong tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 1997 - 2000 cho giáo
viên THPT: “Đạo đức học” các tác giả Phạm Khắc Chương và Trần Văn
Chương đã phân tích quá trình phát triển tâm sinh lý của học sinh THPT,
về tình bạn, tình yêu, khẳng định đại đa số học sinh hiếu học, ngoan ngỗn,
thơng minh và chỉ có một bộ phận học sinh hư mà người có lỗi lại là chính

người lớn chúng ta. Trong chương VI đề cập một số vấn đề cần quan tâm
trong giảng dạy và giáo dục đạo đức học sinh, trong đó các tác giả xây
dựng chuẩn mực về đạo đức mới trong gia đình, trong học tập, trong tình
bạn, tình yêu và trong giao tiếp. Trong chương VII đề cập đến việc học tập
, tu dưỡng đạo đức theo gương cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đặc biệt trong chươngVIII các tác giả đề xuất một số phương pháp
giảng dạy và giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường THPT bằng
một số nhóm phương pháp cụ thể và bằng hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp cũng như mối quan hệ giữa các phương pháp đó.
Tác giả Phạm Trung Thanh trong cơng trình nghiên cứu của mình đã
điều tra thực trạng đạo đức học sinh THCS của tỉnh Hải Dương. Căn cứ
vào kết quả đó, tác giả đưa ra 10 kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh đồng thời yêu cầu các nhà giáo và các
nhà quản lý giáo dục phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thường xuyên
đổi mới và đa dạng hoá các hoạt động nhằm thu hút học sinh tích cực tham
gia vào q trình giáo dục và rèn luyện đạo đức.
Tác giả Đặng Vũ Hoạt lại chú trọng đến cơng tác chủ nhiệm lớp,
khẳng định vai trị của giáo viên chủ nhiệm lớp trong quá trình giáo dục
đạo đức cho học sinh và nêu một số định hướng cho giáo viên chủ nhiệm
trong việc đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh
trong nhà trường THPT.

6


Tác giả Võ Huỳnh Ngọc Vân nghiên cứu các biện pháp chỉ đạo và
phối hợp giữa hiệu trưởng và tổ chức Đồn TNCS Hồ Chí Minh trong việc
nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh.
Tác giả Thái Duy Tun trong cơng trình nghiên cứu của mình:
“Những vấn đề cơ bản của giáo dục hiện đại” [29] trong phần đánh giá

về thực trạng đã tỏ ra rất lo lắng trước sự sa sút về đạo đức ngày càng gia
tăng cả về số lượng và mức độ nguy hại của một bộ phận học sinh.Tác giả
kết luận đạo đức học sinh đang trên đà giảm sút và cho rằng giáo dục đạo
đức là nhiệm vụ quan trọng của toàn xã hội. Cơng trình cũng đề cập đến
một số u cầu của gia đình trong cơng tác giáo dục đạo đức cho học sinh
cũng như phương hướng hoàn thiện giáo dục đạo đức trong nhà trường và
kiến nghị cần đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu về giáo dục đạo đức.
Trong tác phẩm: “ Về phát triển toàn diện con người thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hố” [14] của một nhóm tác giả do GS.VS Phạm
Minh Hạc làm chủ biên, trong chương VII nói về định hướng chiến lược
xây dựng đạo đức con người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện
đại hố cũng đã đánh giá thực trạng đạo đức học sinh, sinh viên hiện nay có
một khoảng cách khá xa mới tiếp cận được với mục tiêu giáo dục giá trị
đạo đức so với yêu cầu giáo dục của thời kỳ mới. Các tác giả tổng kết có 7
nguyên nhân dẫn đến thực trạng đạo đức học sinh như ở trên, đồng thời nêu
lên 3 mục tiêu giáo dục đạo đức, trên cơ sở đó đề ra 6 giải pháp giáo dục
đạo đức cho con người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước.
Trong cuốn: “ Văn hoá với thanh niên - Thanh niên với văn hoá”
[3] do Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương biên soạn tập hợp các bài viết
của nhiều tác giả, trong đó tác giả Hà Nhật Thăng trong bài viết của mình
đã nêu lên thực trạng đạo đức, tư tưởng chíng trị, lối sống của thanh niên

7


học sinh, sinh viên hiện nay và đi đến nhận định: Trong học sinh, sinh viên
có sự phân hố khá rõ rệt, tỉ lệ giữa các nhóm có đạo đức tốt, chậm tiến,
bình thường có sự chênh lệch khá lớn. Tuy nhiên các giá trị đạo đức, tư
tưởng chính trị, lối sống được đa số học sinh, sinh viên quan tâm vẫn là

những giá trị đạo đức cốt lõi của nhân cách con người Việt Nam; tuy nhiên
có những giá trị mới do yêu cầu của CNH, HĐH chưa được học sinh, sinh
viên coi trọng. Tóm lại, những giá trị đạo đạo đức truyền thống của dân tộc
vẫn được số đông học sinh, sinh viên coi trọng tuy vẫn chưa thể hiện qua
hành vi, hoạt động. Một bộ phận không nhỏ (khoảng 1/3 HS, SV) có sự dao
động về nhận thức, có những hành vi sai trái liên quan tới một số giá trị
quan trọng như: Trung thực, thẳng thắn, tinh thần trách nhiệm, lòng nhân
ái. Tác giả nêu lên có 4 nguyên nhân, có thể khái quát lên là cơng tác giáo
dục đạo đức cịn chưa được coi trọng đúng mức, chưa đồng bộ. Q trình
giáo dục cịn nặng về kết quả học tập văn hoá, coi nhẹ việc rèn luyện đạo
đức, hình thức giáo dục cịn khơ cứng, áp đặt, không phù hợp tâm lý lứa
tuổi. Từ thực trạng và nguyên nhân trên, tác giả đề xuất 8 giải pháp khắc
phục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên.
Các tác giả Lê Thu Hồng - Lê Ngọc Lan - Nguyễn Văn Thàng trong
cuốn: “ Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm” [19] đã khẳng định
quá trình hình thành những phẩm chất đạo đức của học sinh là một quá
trình phức tạp, bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khách quan, chủ quan và
chúng có quan hệ chằng chịt với nhau. Các tác giả khẳng định: Tổ chức
giáo dục của nhà trường có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục đạo đức
cho học sinh; khơng khí đạo đức của tập thể là môi trường phát sinh, điều
kiện tồn tại và củng cố hành vi đạo đức. Bên cạnh vai trò của nhà trường,
các tác giả đề cao nền nếp sinh hoạt và sự tổ chức giáo dục gia đình có ý

8


nghĩa đặc biệt trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh và coi sự tự tu
dưỡng là yếu tố quyết định trực tiếp trình độ đạo đức của mỗi học sinh.
Trong cơng trình nghiên cứu về cơng tác giáo dục đạo đức cho học
sinh, các tác giả Lê Trung Trấn - Nguyễn Dục Quang đề nghị cần phải đổi

mới hoạt động giáo dục đạo đức theo nguyên tắc phù hợp với sự phát triển
mới và yêu cầu của xã hội, giáo dục có hệ thống, tiếp cận phức hợp và xuất
phát từ học sinh.
Điểm lại các cơng trình nghiên cứu trên đây, mặc dù cịn có những
quan điểm chưa thống nhất nhưng tựu chung các tác giả đều khẳng định:
Đa số học sinh, sinh viên có phẩm chất đạo đức và lối sống tốt, ham hiểu
biết, ham học hỏi, tơn trọng đạo lý, vẫn giữ gìn được bản sắc và truyền
thống văn hoá của dân tộc, mặc dù nhận thức và hành động còn nhiều chỗ
chưa đạt những chuẩn mực đạo đức, luật pháp hiện nay. Đặc biệt đáng lo
ngại là một bộ phận thanh niên, học sinh sa sút về phẩm chất đạo đức, chạy
theo lối sống thực dụng, coi thường luân thường đạo lý, phai nhạt lý tưởng
XHCN, vi phạm pháp luật và sa vào các tệ nạn xã hội, có các hành vi xa lạ
với các chuẩn mực đạo đức và truyền thống văn hoá của dân tộc,... có chiều
hướng diễn biến phức tạp và ngày càng gia tăng.
Các cơng trình nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho học sinh khá nhiều
nhưng chưa cụ thể và khơng phù hợp với hồn cảnh thực tế của từng nhà
trường ở các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội rất khác nhau. Hơn nữa,
trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta đang thực hiện công cuộc đổi mới, mở
cửa hội nhập quốc tế ngày càng rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội và sự tác động của hoàn cảnh kinh tế - xã hội lên đời sống tâm lý của
con người, nhất là lớp trẻ ngày càng tăng, từ đó công tác giáo dục đạo đức cho
thanh, thiếu niên càng trở nên cấp thiết. Trong thời gian tới đây khi chúng ta
gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì nhu cầu nguồn nhân lực đáp

9


ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước đặt ra vô cùng gay gắt, khi
mà cạnh tranh quốc tế ngày càng trở nên quyết liệt. Nguồn nhân lực mới địi
hỏi vừa có trình độ Khoa học - Cơng nghệ và tay nghề cao, vừa phải có đạo

đức trong sáng, kiên định lý tưởng XHCN, yêu nước, có lòng nhân đạo cao
cả, ân nghĩa, biết yêu thương con người,...Tóm lại nguồn nhân lực mới phải
phát triển tồn diện cả “Đức và Tài”. Một điều khiến chúng ta trăn trở là: Tại
sao trong những năm gần đây, bên cạnh những thành tựu chúng ta đạt được về
mặt kinh tế thì tiêu cực và tệ nạn xã hội ngày càng diễn biến phức tạp, sự
xuống cấp về đạo đức của một bộ phận thanh niên học sinh ngày càng gia
tăng? Nguyên nhân của tình trạng trên là ở đâu? Trách nhiệm của các nhà
trường, đặc biệt là các trường THPT đến đâu nhằm hạn chế tình trạng trên và
nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh, một lực lượng chiếm tỷ lệ
cao trong xã hội, là chủ nhân tương lai của đất nước, góp phần đào tạo nguồn
nhân lực phát triển toàn diện đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế - xã
hội trong giai đoạn mới.
Những phân tích trên, cho thấy, việc nghiên cứu đề tài là cần thiết và
thiết thực góp phần tháo gỡ những bất cập trong quá trình thực hiện mục
tiêu giáo dục tồn diện cho sinh THPT.
1.2. Các khái niệm cơng cụ
1.2.1. Đạo đức
Đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội,
điều chỉnh hành vi trong các mối quan hệ giữa con người với con người,
con người với tự nhiên và xã hội, là sản phẩm của quá trình phát triển lịch
sử của xã hội và góp phần phản ánh sự tồn tại của đời sống tinh thần.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về đạo đức, có thể kể đến một số
định nghĩa sau:

10


Theo “Từ điển Tiếng Việt” [33] thì “đạo đức là những tiêu chuẩn,
nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của
con người đối với nhau và đối với xã hội”.

Theo tài liệu “Giáo dục cơng dân lớp 10” của một nhóm tác giả do
Mai Văn Bính chủ biên thì : “Đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực
xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù
hợp với lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội”.
Dưới góc độ triết học thì: “Đạo đức là một trong những hình thái
sớm nhất của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên lý, quy tắc, chuẩn mực,
điều tiết hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng
đồng. Căn cứ vào những quy tắc ấy, người ta ta đánh giá hành vi, phẩm
giá của của mỗi người bằng các quan niệm về thiện ác, chính nghĩa và phi
nghĩa, nghĩa vụ và danh dự...”(Hữu Ngọc - Từ điển Triết học giản yếu NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp - Hà Nội,1987)
Dưới góc độ đạo đức học: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội
đặc biệt, bao gồm một hệ thống các quan điểm, quan niệm, những quy tắc,
nguyên tắc, chuẩn mực xã hội” [20]
Dưới góc độ giáo dục học thì: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội, là hệ thống các quan điểm về cái thiện, cái ác trong các mối quan hệ
của con người với con người” (Phạm Viết Vượng - Giáo dục học Đại
cương - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996)
Theo GS.VS Phạm Minh Hạc thì: “Đạo đức, theo nghĩa hẹp, là luân
lý, những quy định, những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người.
Nhưng trong điều kiện hiện nay, chính quan hệ của con người cũng đã mở
rộng và đạo đức bao gồm những quy định, những chuẩn mực ứng xử của
con người với con người, với công việc và với bản thân, kể cả với thiên
nhiên và môi trường sống”

11


“Theo nghĩa rộng thì khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm
trù chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân
cách, phản ánh bộ mặt nhân cách của một cá nhân đã được xã hội hoá.

Đạo đức được biểu hiện ở cuộc sống tinh thần lành mạnh, trong sáng; ở
hành động góp phần giải quyết hợp lý, có hiệu quả những mâu thuẫn. Khi
thừa nhận đạo đức là một hình thái ý thức xã hội thì đạo đức của mỗi cá
nhân, mỗi cộng đồng, mỗi tầng lớp, giai cấp trong xã hội cũng phản ánh ý
thức chính trị của họ đối với các vấn đề đang tồn tại"[14]
Theo các tác giả: PTS Phạm Khắc Chương - Th.S Trần Văn Chương:
“Đạo đức là hệ thống những quy tắc chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong
quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng xã
hội, với tự nhiên và với cả bản thân mình”[10]
Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm đạo đức. Mỗi
một giai cấp, một hình thái kinh tế xã hội hay mỗi dân tộc lại có một chuẩn
mực đạo đức khác nhau, hay nói các khác đạo đức mang tính giai cấp, tính
dân tộc và tính thời đại. Vì vậy trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi hình thái ý
thức xã hội lại có những hình mẫu, những chuẩn mực đạo đức đặc trưng
của xã hội ấy. Chuẩn mực đạo đức không phải là bất biến mà một số có thể
thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên có một số chuẩn mực đạo đức lại có tính
bền vững cao do những chuẩn mực ấy có ý nghĩa tốt đẹp trong việc củng cố
mối quan hệ giữa con người với con người, với tự nhiên và xã hội. Theo đà
phát triển của lịch sử và sự phát triển đi lên của xã hội mà chuẩn mực đạo
đức qua cuộc đấu tranh, gạn lọc, kế thừa mà ngày càng tiến bộ.
Trong thời đại ngày nay, chúng ta đang tiến hành công cuộc xây
dựng chế độ XHCN thì điều đặt ra cấp bách là cần xây dựng một số chuẩn
mực đạo đức mới, nhằm phát triển tồn diện con người thời kỳ cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước, bên cạnh đó chúng ta cũng cần loại bỏ một số

12


chuẩn mực đạo đức cũ đã lạc hậu, lỗi thời. Các chuẩn mực đạo đức mới
được xây dựng trên cơ sở phải kế thừa được các truyền thống đạo đức tốt

đẹp của dân tộc, phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và xu thế phát triển của thời đại.
Với những phân tích trên, tác giả luận văn quan niệm: “ Đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội, tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực
xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong
quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin
cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”.
1.2.2. Quá trình giáo dục đạo đức
Dù ở thời đại nào, dưới chế độ nào thì việc giáo dục đạo đức cho thế
hệ trẻ cũng được toàn xã hội quan tâm đặc biệt.
Bản chất của giáo dục đạo đức là quá trình biến những hệ thống các
chuẩn mực đạo đức, từ những u cầu, địi hỏi bên ngồi của của xã hội về
hành vi đối với mỗi cá nhân thành những nhu cầu , đòi hỏi từ bên trong
của cá nhân trong các mối quan hệ, ứng xử hằng ngày đối với cộng đồng xã
hội, từ đó biến thành niềm tin, thói quen, nhu cầu của người được giáo dục.
Giáo dục đạo đức được thực hiện ở các môi trường khác nhau.
Trường học được xác định là môi trường, là lực lượng quan trọng trong
việc tổ chức giáo dục đạo đức. Trong nhà trường , giáo dục đạo đức được
tổ chức, được điều khiển một cách khoa học nên nó tồn tại với tư cách là
một quá trình.
Với tư cách là một quá trình, tác giả luận văn quan niệm quá trình
giáo dục đạo đức như sau:
Quá trình giáo dục đạo đức là quá trình tác động tới người học để
hình thành cho họ ý thức, tình cảm và niềm tin hành vi, đích cuối cùng
quan trọng nhất là tạo lập cho được những thói quen hành vi đạo đức.

13


Giáo dục đạo đức có quan hệ chặt chẽ với giáo dục chính trị tư

tưởng, giáo dục pháp luật, khoa học và tôn giáo.
Thực vậy, hành vi của mỗi con người trong cuộc sống hằng ngày
không chỉ được điều chỉnh bằng các chuẩn mực đạo đức, mà còn bằng chế
độ chính sách, bằng pháp luật và bằng hiểu biết về khoa học, về đức tin
trong tôn giáo.
- Quan hệ giữa giáo dục đạo đức và giáo dục chính trị:
Tư tưởng chính trị là một hình thái ý thức xã hội có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong đời sống xã hội. Nó xuất hiện trong lịch sử cùng với sự
xuất hiện của nhà nước cổ đại.
Tư tưởng chính trị của một thể chế xã hội là hệ thống quan điểm, tư
tưởng thể hiện lợi ích căn bản của một giai cấp nhất định. Vì vậy tư tưởng
chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với các hình thái ý thức xã hội khác,
trong đó có đạo đức. Theo Menvechiúyt: “ Đạo đức học sẽ khơng có nội
dung, nếu nó khơng hồ lẫn với chính trị và pháp chế”.
Quan hệ giữa đạo đức và chính trị thể hiện trước tiên là những quy
định cụ thể bằng văn bản về nghị quyết, đường lối chính sách, pháp luật
nhà nước có ý nghĩa luân lý.
Dưới chế độ XHCN, tư tưởng chính trị và nội dung đạo đức có mối
quan hệ thống nhất chặt chẽ với nhau, vì lợi ích chung của cả dân tộc.
- Quan hệ giữa giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật:
Đạo đức và pháp luật có quan hệ khăng khít với nhau, vì trước hết có
cùng mục đích và nhiệm vụ là điều chỉnh hành vi giữa con người với con
người, con người với tự nhiên và xã hội.
Tuy nhiên chúng cũng có sự khác biệt căn bản, cụ thể như sau:
Sự điều chỉnh hành vi của pháp luật là sự điều chỉnh mang tính bắt
buộc, có tính cưỡng chế. Đó là sự điều chỉnh thơng qua những yêu cầu

14



tối thiểu, được quy định bằng văn bản của Nhà nước, buộc các cá nhân
và tổ chức phải tuân theo để đảm bảo lợi ích của cơng dân hoặc lợi ích
chung của xã hội.
Trong khi đó, sự điều chỉnh hành vi của đạo đức lại mang tính tự
nguyện và thường là những yêu cầu cao của xã hội đối với con người.
Trong thực tế có những trường hợp hành vi của cá nhân tuy không vi
phạm pháp luật nhưng vẫn có thể bị lên án về mặt đạo đức.
1.2.3. Chất lượng q trình giáo dục đạo đức
Chất lượng nói chung và chất lượng giáo dục nói riêng là những khái
niệm có thể được nhìn nhận từ nhiều từ nhiều góc độ khác nhau. Khái niệm
chất lượng phản ánh thuộc tính đặc trưng, giá trị, bản chất của sự vật tạo
nên sự khác biệt (về chất) giữa sự vật này và sự vật khác.
Trong lĩnh vực giáo dục, chất lượng giáo dục với đặc trưng sản phẩm
là con người lao động, là kết quả đầu ra của quá trình đào tạo và được thể
hiện cụ thể ở các phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay
năng lực hành nghề của người tốt nghiệp.
Như vậy, chất lượng giáo dục chính là mức độ mà sản phẩm giáo dục
của nhà trường đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Quá trình giáo dục đạo đức góp phần tạo nên những nhân cách
theo yêu cầu của xã hội. Sản phẩm của q trình giáo dục đạo đức
chính là những nhân cách có hành vi, thói quen đạo đức phù hợp với
yêu cầu của xã hội.
Theo đó, chất lượng q trình giáo dục đạo đức là sự thoả mãn nhu
cầu xã hội về mặt phẩm chất đạo đức, nhân cách, năng lực, hành vi ứng xử
của học sinh - sản phẩm giáo dục đào tạo của nhà trường.
Như vậy chất lượng quá trình giáo dục đạo đức phải được biểu hiện qua
các hành vi ứng xử của học sinh trong quan hệ với xã hội, môi trường sống và

15



làm việc. Hành vi ứng xử đó phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội, phù
hợp với yêu cầu phẩm chất của người lao động mới. Hay nói cách khác là nhà
trường phải giúp học sinh hoàn thiện nhân cách - sức lao động phù hợp yêu
cầu của xã hội, của cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
1.2.4. Giải pháp quản lý
Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý lên khách thể
quản lý bằng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, nhằm đạt mục tiêu quản
lý một cách hiệu quả nhất.
Quản lý quá trình giáo dục đạo đức là một nội dung của quản lý tác
nghiệp trong nhà trường. Đó là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý tới
khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu giáo dục đạo đức một cách hiệu quả nhất.
Quản lý quá trình giáo dục đạo đức trong nhà trường là tổng hợp các
hoạt động sư phạm và bằng nhiều con đường, nhiều cách thức nhằm giúp
học sinh hoàn thiện và phát triển nhân cách, phù hợp với chuẩn mực đạo
đức xã hội và mục tiêu giáo dục đạo đức mà Đảng và nhà nước đã đề ra và
yêu cầu của xã hội về nguồn nhân lực cho công cuộc cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước.
Trong khoa học, khái niệm giải pháp là một khái niệm rộng, bao quát
hơn biện pháp, mang cả tính chất lý luận và có ý nghĩa định hướng cho
nhiều biện pháp nhằm giải quyết vấn đề theo mục đích nhất định. Khái
niệm giải pháp thường gần nghĩa với khái niệm phương pháp. Vì vậy, sự
phân biệt các khái niệm biện pháp, phương pháp, giải pháp chỉ có ý nghĩa
tương đối. Khái niệm giải pháp được diễn đạt như cách thức, con đường để
giải quyết một vấn đề nào nó mang tính khái qt và toàn cục.
Như vậy, tác giả luận văn quan niệm giải pháp quản lý là cách thức,
con đường quản lý để giải quyết những vấn đề mang tính khái quát, toàn
cục nảy sinh trong thực tiễn quản lý.

16



1.3. Quá trình giáo dục đạo đức trong trƣờng THPT
1.3.1. Đặc điểm chung của trường THPT
Trường THPT là bậc học cuối cùng của ngành học phổ thơng, là nơi
hồn thiện kiến thức phổ thơng cơ bản tồn diện cho học sinh.
Học sinh THPT là lớp người có độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi. Hầu hết
học sinh thể hiện hoài bão ước mơ của mình theo hướng tích cực, họ có
nhiều nỗ lực cá nhân, nhằm giải quyết các mâu thuẫn giữa năng lực bản
thân với yêu cầu của xã hội, để có thể tự lập trong bối cảnh phát triển kinh
tế - xã hội, nhất là trong điều kiện hội nhập ngày nay.
Bối cảnh kinh tế xã hội chi phối nguyện vọng của học sinh và tác
động lớn đến họ cũng như gia đình họ. Học sinh THPT hơm nay chính là
lực lượng lao động cơ bản trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa
của đất nước ta, đặc biệt là các yêu cầu phát triển của nền kinh tế tri thức,
giao lưu văn hóa, hội nhập quốc tế và khu vực,…trên nhiều lĩnh vực xã hội.
Thực tế trong những năm qua, hầu hết các bậc cha mẹ học sinh có nhận
thức đúng về yêu cầu nguồn nhân lực trong thời kỳ cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa của đất nước. Từ đó họ đã định hướng cho con em mình tích cực chuẩn bị
năng lực làm việc để bước vào đời, họ đã có những lo lắng thực sự và khơng ít
gia đình đã tìm mọi cách để đầu tư cho việc học hành của con cái họ, nhằm tạo
điều kiện để bản thân các em có năng lực và phẩm chất thích ứng với các yêu
cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Chính các đặc điểm về bậc học, về độ
tuổi, về gia đình, về yêu cầu nguồn nhân lực của xã hội đã tạo ra sự phân hóa
nguyện vọng của học sinh THPT theo hai xu hướng chính:
- Một là: đa số các em có nguyện vọng tiếp tục học lên ở bậc học cao hơn.
- Hai là: chấp nhận hòa nhập vào thị trường lao động của xã hội và
đón chờ cơ hội tiếp tục học thêm ( vì phần đông học sinh không thể tiếp tục
học lên ngay sau khi học xong THPT do năng lực của bản thân, điều kiện


17


kinh tế của gia đình họ và đặc biệt là họ không vượt qua được kỳ thi tuyển
sinh vào Đại học và Cao đẳng tổ chức hàng năm).
Trường THPT là cái nôi đào tạo nguồn nhân lực lao động phổ thông
cho nhiều ngành kinh tế. Những người lao động này phải có kiến thức phổ
thơng nhất định thì mới đáp ứng được yêu cầu lao động, hơn nữa trong
“Chiến lựơc phát triển giáo dục 2001-2010” đã chỉ rõ: “…Đảm bảo cho
học sinh có học vấn phổ thơng, cơ bản theo một chuẩn thống nhất, đồng
thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi bản thân học sinh,
giúp học sinh có những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp để
tạo điều kiện thuận lợi cho phân luồng sau trung học phổ thông để học sinh
vào đời hoặc chọn ngành nghề học tiếp sau khi tốt nghiệp. Tăng tỷ lệ học
sinh trong độ tuổi vào THPT từ 38% năm 2000 lên 45% vào năm 2005 và
50% vào năm 2010”.
Từ những đặc điểm trên và từ nhiệm vụ cơ bản của trường THPT đã
được ghi trong điều lệ trường THPT ta có thể nêu lên một số đặc trưng về
mục tiêu quản lý của Hiệu trưởng trường THPT đó chính là q trình quản
lý dạy - học là nhằm mục tiêu kép:
- Chuẩn bị cho học sinh có cơ hội tiếp tục học lên.
- Chuẩn bị cho học sinh hịa nhập vào mơi trường xã hội, đi vào cuộc
sống lao động, đóng góp sức lực và trí tuệ của mình vào sự phát triển kinh
tế - xã hội, có vị trí xứng đáng trong cộng đồng dân cư, phát huy khả năng
của mình để có ít nhất một nghề, có việc làm ổn định và học tập thường
xuyên hịa nhập với xã hội học tập.
Hình thành cho học sinh năng lực thích nghi với sự thay đổi của thực
tiễn cuộc sống để chủ động trong lao động và học tập nhằm hịa nhập với
mơi trường và cộng đồng.


18


Trường THPT là một bộ phận trong hệ thống GD - ĐT, giữ vai trị
xung kích trong việc thực hiện “Chiến lựơc phát triển giáo dục”.
1.3.2. Đặc điểm của học sinh THPT
- Đặc điểm cơ thể: Giai đoạn đầu của tuổi thanh niên cũng chính là thời
kỳ kết thúc tuổi thiếu niên, là giai đoạn các em đang là học sinh bậc học
THPT. Đây là giai đoạn đầu của sự phát triển về thể lực và đa số các em đã
đạt được sự tăng tưởng của mình. Hệ thần kinh có sự thay đổi quan trọng do
các chức năng của não phát triển. Tuổi thanh niên bắt đầu thời kỳ phát triển
tương đối êm ả về mặt sinh lý, đa số các em đã vượt qua thời kỳ phát dục.
Nhìn chung đây là lứa tuổi các em có cơ thể phát triển cân đối, khoẻ
mạnh và đẹp.
- Điều kiện xã hội của sự phát triển: Tuổi thanh niên vốn rất hiếu
động, ham hiểu biết, ham các hoạt động tập thể, hoạt động xã hôi. Do mới
bước vào ngưỡng cửa của người lớn nên các em rất muốn thể hiện vai trò
của người lớn, muốn hoạt động và thể hiện trách nhiệm của mình, mong
muốn được tự khẳng định mình. Trong gia đình, vai trị của các em cũng
tăng dần, được tham gia vào một số công việc của người lớn, không bị cha
mẹ coi là trẻ con nữa.
Ở trường , các em đủ tuổi gia nhập Đoàn thanh niên. Đến 18 tuổi các
em bắt đầu thực hiện quyền công dân của mình. Tuy nhiên ở những năm
học THPT, các em còn chưa hẳn được coi là người lớn, còn phụ thuộc vào
người lớn, bị người lớn chi phối các hoạt động chính của mình, chưa được
hoạt động độc lập theo ý mình. Cả ở trong và ngồi xã hội, thái độ của nười
lớn thường có tính hai mặt: Một mặt coi các em đã là người lớn, đòi hỏi các
em có tính trách nhiệm, độc lập, tự quyết,... Mặt khác lại khơng hồn tồn
tin tưởng, địi hỏi các em tn thủ sự chỉ đạo, điều khiển của người lớn,


19


của cha mẹ,...Điều đó tạo nên những nét tâm lý độc đáo của tuổi thanh
niên.
- Đặc điểm hoạt động học tập: Nội dung, tính chất học tập của thanh
niên có sự khác biệt nhiều so với lứa tuổi thiếu niên vì việc học tập ở lứa tuổi
này đã địi hỏi mức độ độc lập, tự giác cao hơn nhiều. Hơn nữa học sinh càng
trưởng thành thì kinh nghiệm sống càng phong phú nên các em đã tự ý thức
được trách nhiệm của mình trước nhiệm vụ học tập. Động cơ học tập của học
sinh cũng trở nên thực dụng hơn do các em bắt đầu có ý thức trong việc lựa
chọn nghề nghiệp, thi đại học sau này nên không ít em học lệch, chỉ chú trọng
đến các môn học liên quan đến việc lựa chọn nghề nghiệp mà các em đã lựa
chọn. Vì vậy nhiệm vụ của giáo viên là cần làm cho học sinh thấy rõ ý nghĩa
của kiến thức phổ thông đối với các môn học chuyên ngành và nghề nghiệp
sau này cũng như đối với việc xây dựng cuộc sống trong tương lai, để từ đó
các em xác định thái độ và động cơ học tập đúng đắn.
- Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ: Tri giác có mục đích đạt tới mức
khá cao, quan sát trở nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện hơn. Tuy
nhiên quan sát của thanh niên học sinh hiệu quả khơng cao nếu khơng có sự
hướng dẫn chỉ đạo của giáo viên. Ở tuổi thanh niên học sinh, ghi nhớ có
chủ định giữ vai trị chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, đồng thời vai trị của
ghi nhớ trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng. Từ đó hoạt động tư duy
của học sinh có sự thay đổi quan trọng về chất, khác với lứa tuổi trước chủ
yếu là thuộc lịng và ghi nhớ máy móc. Tư duy của các em có tính độc lập
hơn, có căn cứ và nhất quán hơn. Một số em có khả năng tư duy lý luận, tư
duy trừu tượng một cách sáng tạo trong các đối tượng đã được học, chưa
được học ở trường.

20



Tóm lại, tuổi thanh niên học sinh một số đặc điểm chung của con
người về mặt trí tuệ đã được hình thành nhưng chưa đầy đủ mà cịn phải
tiếp tục hồn thiện thêm.
1.3.3. Cấu trúc q trình giáo dục đạo đức trong trường THPT
* Mục tiêu giáo dục đạo đức.
Giáo dục đạo đức có 3 mục tiêu sau đây:
- Trang bị cho mọi người những tri thức cần thiết về tư tưởng chính
trị, đạo đức nhân văn, kiến thức pháp luật và văn hoá xã hội. Cần truyền tải
cho học sinh những hiểu biết về thước đo giá trị, định hướng giá trị trong
các lĩnh vực chính trị xã hội, truyền thống lịch sử văn hoá của dân tộc, lịch
sử cách mạng của Đảng ta, đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Giáo dục đạo đức phải gắn liền với giáo dục pháp luật, chính trị tư
tưởng, những tri thức về vốn sống qua các hoạt động: Giao tiếp ứng xử,
học tập, lao động, hoạt động xã hội,...
- Hình thành ở mọi cơng dân thái độ đúng đắn, tình cảm, niềm tin
đạo đức trong sáng đối với bản thân, mọi người, với sự nghiệp cách mạng
của Đảng, dân tộc và với mọi hiện tượng xảy ra xung quanh.
Đây là nhiệm vụ rất quan trọng vì chỉ khi có thái độ đúng đắn, có
tình cảm trong sáng, có niềm tin đạo đức đối với bản thân và xã hội thì mới
tạo ra động lực từ bên trong điều chỉnh nhận thức và hành vi của mỗi cá
nhân phù hợp chuẳn mực đạo đức chung của xã hội. Đặc biệt cần hình
thành niềm tin vào Đảng, vào sự nghiệp đổi mới, vào sự thành cơng của
cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Đây là nhân tố quan
trọng góp phần hình thành lý tưởng sống của mỗi cá nhân.
- Rèn luyện để mọi người tự giác thực hiện những chuẩn mực đạo
đức xã hội, có thói quen chấp hành quy định của pháp luật, nỗ lực học tập
rèn luyện, tích cực cống hiến sức lực, trí tuệ vào sự nghiệp cơng nghiệp hố


21


×