Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.22 KB, 62 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ KIM PHỤNG

PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHỐN
RIÊNG LẺ TẠI VIỆT NAM

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2012- LKD

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS.GVC. NGUYỄN THỊ THUẬN

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Được sự đồng ý của Bộ môn Luật Kinh Doanh cùng Giảng viên hướng
dẫn TS.GVC Nguyễn Thị Thuận, em đã thực hiện khóa luận với đề tài “Pháp
luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ tại Việt Nam”.
Để hồn thành khóa luận này, em xin chân thành cảm ơn các thầy cơ giáo đã tận
tình hướng dẫn và chỉ dạy trong suốt quá trình học tập và rèn luyện trong bốn
năm học tại Khoa Luật – ĐHQGHN.
Xin chân thành cảm ơn Cô giáo hướng dẫn – TS.GVC Nguyễn Thị Thuận đã tận
tình, chu đáo giúp em hồn thành khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong q trình thực hiện khóa luận nhưng với hạn
chế kiến thức cũng như kinh nghiệm của bản thân nên khóa luận của em khơng
thể tránh khỏi thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự góp ý của các quý
thầy cô giáo giúp bài tập lớn cuối cùng ở bốn năm giảng đường đại học của em


được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Nguyễn Thị Kim Phụng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 1
2.Mục đích của khóa luận ...................................................................................... 2
3.Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 2
4.Phương pháp sử dụng .......................................................................................... 2
5.Bố cục của khóa luận .......................................................................................... 2
CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN
RIÊNG LẺ ............................................................................................................ 3
1.1. Khái niệm về chứng khoán ............................................................................. 3
1.1.1 Khái niệm ...................................................................................................... 3
1.1.2. Phân loại ...................................................................................................... 4
1.1.3. Đặc điểm cơ bản .......................................................................................... 7
1.2. Chào bán chứng khoán .................................................................................... 8
1.2.1. Khái niệm về chào bán chứng khoán ........................................................... 8
1.2.2. Đặc điểm và phương thức chào bán chứng khoán ...................................... 9
1.3. Pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ ..................................................... 11
1.3.1. Khái niệm về pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ ...........................11
1.3.2. Nội dung về pháp luật về chào bán chứng khốn riêng lẻ.........................11
1.3.3. Vai trị của pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ ..........................17
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG
KHOÁN RIÊNG LẺ TẠI VIỆT NAM .............................................................20

2.1. Chủ thể của chào bán chứng khoán riêng lẻ ................................................. 22
2.1.1. Quy định về chủ thể chào bán cổ phiếu riêng lẻ ........................................22
2.1.2. Quy định về chủ thể chào bán trái phiếu riêng lẻ ...................................... 26
2.2. Quy định về điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ ................................. 26


2.2.1. Quy định về điều kiện chào bán cổ phần riêng lẻ ......................................26
2.2.2. Quy định về điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ ..................................32
2.3. Phương thức chào bán chứng khoán riêng lẻ ................................................ 35
2.3.1. Phương thức chào bán cổ phần riêng lẻ ....................................................35
2.3.2. Phương thức chào bán trái phiếu riêng lẻ .................................................36
2.4. Trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ .......................................... 37
2.4.1. Đối với chào bán cổ phiếu riêng lẻ ............................................................37
2.4.2. Đối với chào bán trái phiếu riêng lẻ ..........................................................41
CHƢƠNG 3 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GÓP PHẦN HỒN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHỐN RIÊNG LẺ Ở VIỆT NAM ...................43
3.1. Hoàn thiện sửa đổi bổ sung một số quy định pháp luật pháp luật ................ 43
3.1.1.Ban hành văn bản riêng về hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ ............43
3.1.2.Về điều kiện chào bán chứng khoán: ..........................................................43
3.1.3.Về trình tự, thủ tục chào bán chứng khốn:................................................45
3.1.4.Về trách nhiệm của doanh nghiệp và bảo vệ doanh nghiệp .......................47
3.1.5.Về giải quyết tranh chấp trong hoạt động chào bán chứng khốn riêng
lẻ……................................................................................................................... 49
3.2. Phát triển các cơng ty đánh giá hệ số tín nhiệm ............................................ 50
3.3. Xây dựng thị trường giao dịch cho chứng khoán chào bán riêng lẻ ............. 52
KẾT LUẬN .........................................................................................................54
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................55


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT


LCK

Luật Chứng Khoán

TTCK

Thị trường chứng khốn

DN

Doanh nghiệp

CTCP

Cơng ty cổ phần

Cơng ty TNHH

Cơng ty trách nhiệm hữu hạn

LDN

Luật Doanh nghiệp


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay hầu hết các quốc gia đều quản lý đất nước theo chế độ pháp
quyền, vì thế mơi trường pháp luật cũng có tác động vơ cùng quan trọng đến

hoạt động của doanh nghiệp (DN) và thị trường chứng khoán (TTCK). TTCK là
nơi huy động và phân phối luồng vốn trung hạn và dài hạn cho Nhà nước và các
doanh nghiệp trong để phát triển kinh tế. Thông qua hoạt động chào bán chứng
khoán, nhà nước và các DN thu hút, tạo lập vốn để mở rộng sản xuất, kinh
doanh, đây là kênh huy động vốn hữu hiệu nhất của bất cứ quốc gia nào có nền
kinh tế thị trường. Tại Việt Nam, những năm qua, hoạt động chào bán chứng
khoán đã trở thành giải pháp hiệu quả không chỉ giúp Nhà nước huy động, xử lý
nguồn vốn để phát triển kinh tế mà còn giúp các DN giải quyết vấn đề về vốn,
vấn đề hết sức quan trọng trong sự duy trì, phát triển, tồn tại của mình. Tham gia
hoạt động chào bán chứng khốn cịn tạo điều kiện cho các DN đổi mới hình
thức quản lý, quản trị DN, nâng cao năng lực cạnh tranh. Hoạt động chào bán
chứng khoán mang lại nhiều lợi ích kinh tế, xã hội như trên nên pháp luật của
các nước có TTCK đều ban hành những quy định về điều kiện phát hành, trong
đó có quy định về phát hành riêng lẻ nhằm hạn chế những rủi ro phát sinh từ
chính những lợi ích mà nó mang lại để đảm bảo một TTCK lành mạnh, công
bằng, bảo về nhà đầu tư.
Ngay từ khi mới khai trương TTCK (20/07/2000), Chính phủ Việt Nam
cũng đã ban hành quy định về phát hành chứng khốn trong đó có quy định về
phát hành riêng lẻ (Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khốn và thị trường
chứng khốn). Từ đó đến nay, qua hơn 15 năm hoạt động, pháp luật điều chỉnh
về hoạt động phát hành chứng khốn nói chung và về phát hành chứng khốn
riêng lẻ nói riêng đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhưng thực tế
các quy định pháp luật trên vẫn còn nhiều bất cập chưa thực sự tạo điều kiện để
các DN huy động vốn hữu hiệu cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình

1


trong đó có quy định về chào bán chứng khốn riêng lẻ. Do đó, để tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động phát hành, tạo lập, huy động nguốn vốn cho các DN

nhất là trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, việc cần thiết phải
sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động phát hành riêng
lẻ là cần thiết và cấp bách. Vì những lý do trên, em đã chọn đề tài“Pháp luật về
chào bán chứng khoán riêng lẻ tại Việt Nam” nhằm phân tích pháp luật và thực
trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ tại Việt Nam, góp phần hồn
thiện pháp luật về hoạt động chào bán chứng khốn riêng lẻ tại Việt Nam.
2. Mục đích của khóa luận
Phân tích những vấn đề cơ bản của pháp luật về chào bán chứng khoán
riêng lẻ tại Việt Nam;
Nhìn nhận thực trạng về hoạt động chào bán chứng khốn riêng lẻ tại Việt
Nam;
Đề xuất giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán
riêng lẻ tại Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Phạm vi: Các quy định pháp luật tại Việt Nam.
4. Phƣơng pháp sử dụng
Khóa luận có sự kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm:
duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, đối chiếu so sánh, tổng hợp, khái
quát hóa, logic để giải quyết nội dung khoa học của đề tài.
5. Bố cục của khóa luận
Khóa luận có bố cục gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Khái quát chung về chào bán chứng khoán riêng lẻ
Chương 2: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ tại Việt Nam
Chương 3: Một số đề xuất góp phần hồn thiện pháp luật về chào bán
chứng khoán riêng lẻ ở Việt Nam

2



CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN
RIÊNG LẺ
1.1. Khái niệm về chứng khoán
1.1.1 Khái niệm
Vào khoảng thế kỷ thứ 15, “chứng khốn” có thể được hiểu là những
chứng thư, chứng từ thay thế tiền bạc chi tiêu trong các giao dịch, nó được hình
thành trong hành trình nhiều ngày trên biển của một số thương gia,…
Về sau, khái niệm về “chứng khốn” được mở rộng hơn, đó là những giấy
tờ có giá và có khả năng chuyển nhượng, xác định số vốn đầu tư (tư bản đầu tư);
chứng khốn xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền địi nợ hợp pháp, bao gồm các
điều kiện về thu nhập và tài sản trong một thời hạn nào đó.
Theo Wiki thì: “Chứng khoán” là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích
hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành.
Chứng khoán được thể hiện bằng hình thức chứng chỉ, bút tốn ghi sổ hoặc dữ
liệu điện tử. Chứng khoán bao gồm các loại: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ
đầu tư, chứng khoán phái sinh. Thực chất chứng khoán là một loại hàng hóa đặc
biệt.
Có thể nói chứng khốn là một phương tiện hàng hóa trừu tượng có thể
thỏa thuận và có thể thay thế được, đại diện cho một giá trị tài chính. Chứng
khốn gồm các loại: chứng khốn cổ phần (ví dụ cổ phiếu phổ thơng của một
cơng ty), chứng khốn nợ (như trái phiếu nhà nước, trái phiếu cơng ty...) và các
chứng khoán phái sinh (như các quyền chọn, hợp đồng quy đổi - Swap, hợp
đồng tương lai, Hợp đồng kỳ hạn). Ở các nền kinh tế phát triển, loại chứng
khốn nợ là thứ có tỷ trọng giao dịch áp đảo trên các TTCK. Còn ở những nền
kinh tế nơi mà TTCK mới được thành lập, thì loại chứng khoán cổ phần lại

3



chiếm tỷ trọng giao dịch lớn hơn. Trong tiếng Việt, chứng khốn cịn được hiểu
theo nghĩa hẹp là chứng khốn cổ phần và các chứng khoán phái sinh.
1.1.2. Phân loại
Tùy theo tiêu chí lựa chọn mà người ta có thể phân loại chứng khoán
thành nhiều loại khác nhau. Với giới hạn của bài luận, em xin đề cập đến hai tiêu
chí cơ bản đó là, (a) theo tính chất của chứng khoán; (b) theo quan hệ giữa chủ
thể phát hành và chủ sở hữu chứng khốn.
Theo tính chất chứng khốn được chia thành ba loại là chứng khoán vốn,
chứng khoán nợ và các loại chứng khoán phái sinh.
Chứng khoán vốn là chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu
phần vốn góp và các quyền hợp pháp khác. Đại diện cho chứng khoán vốn là cổ
phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư.
Chứng khốn nợ: điển hình là trái phiếu, tín phiếu là một loại chứng
khốn quy định nghĩa vụ của người phát hành (người đi vay) phải trả cho người
đứng tên sở hữu chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền nhất địn bao gồm
cả gốc và lãi trong những khoảng thời gian cụ thể.
Chứng khoán phái sinh: là các cơng cụ tài chính có nguồn gốc từ chứng
khốn và có quan hệ chặt chẽ với các chứng khốn gốc. Các chứng khốn phái
sinh được hình thành do nhu cầu giao dịch của người mua và người bán và phát
triền phụ thuộc vào mức độ phát triển của TTCK. Có thể phân loại chứng khốn
phái sinh thành các loại (i) Quyền mua trước, (ii) Chứng khế, (iii) Hợp đồng kỳ
hạn, (iv) Hợp đồng tương lai, (v) Quyền chọn.
Theo quan hệ giữa chủ thể phát hành và chủ sở hữu chứng khoán
Căn cứ vào mối quan hệ giữa chủ thể phát hành và chủ sở hữu chứng
khốn có: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và một số chứng khoán phái
sinh như chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai.

4



Đây là cách phân loại phổ biến và thông dụng hiện nay vì nó thể hiện được đặc
trưng của chứng khốn theo tiêu chí phân loại nói trên.
Cổ phiếu: Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng
chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu cổ phiếu với các tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần, hay nói
cách khác cổ phiếu là một giấy chứng nhận việc đầu tư vốn của một chủ thể vào
cơng ty cổ phần. Đây là loại chứng khốn rất quan trọng cho việc tạo lập cũng
như đi vào hoạt động của TTCK. Có nhiều định nghĩa khác nhau về cổ phiếu.
Theo quy định của pháp luật hiện hành ở Việt Nam thì: “Cổ phiếu là loại chứng
khốn xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần
vốn góp cổ phần của tổ chức phát hành”. Trong thực tế, thường có nhiều loại cổ
phiếu như cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu đãi trong đó cổ phiếu ưu đãi được
chia thành nhiều lại cho nhà đầu tư những khả năng lựa chọn đồng thời tạo cơ
hội cạnh tranh cho tổ chức phát hành.
Trái phiếu: Trái phiếu là một loại chứng khoán nợ yêu cầu nhà phát hành
(người đi vay) phải trả cho nhà đầu tư trái phiếu (người cho vay) một khoản tiền
bao gồm tiền gốc và tiền lãi trái phiếu sau một thời gian nhất định. Đây là chứng
khoán nợ do DN hoặc Chính phủ phát hành xác nhận quyền của chủ sở hữu đối
với khoản nợ của chủ thể đó. Khoản nợ được tổ chức phát hành cam kết trả lại
cho chủ sở hữu tại một thời điểm trong tương lai với một khoản lãi nhất định.
Trái phiếu cũng có nhiều loại như trái phiếu DN, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
chính quyền địa phương.
Trái phiếu và cổ phiếu là hai loại chứng khốn phổ biến nhất hiện nay.
Mỗi loại có một ưu thế riêng, đem lại cho nhà đầu tư những khả năng lựa chọn
để phù hợp với nhu cầu của mình. Trái phiếu và cổ phiếu khác nhau ở một số
điểm sau đây:
Một là, về bản chất, nếu như cổ phiếu là một loại chứng khốn vốn thì trái
phiếu lại là chứng khoán nợ. Cổ phiếu xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành còn trái phiếu xác
5



nhận quyền và lợi ích của chủ sở hữu đối với phần vốn nợ. Như vậy chủ sở hữu
cổ phiếu là cổ đơng của tổ chức phát hành cịn chủ sở hữu trái phiếu là chủ nợ
của tổ chức đó. Hệ quả là cổ đơng có thể tham gia vào việc quản lý điều hành
doanh nghiệp cịn chủ nợ thì khơng có quyền này.
Hai là, về tính sinh lời, cổ phiếu có tính sinh lời cao hơn trái phiếu. Điều
này xuất phát từ bản chất của hai loại chứng khoán này. Cổ phiếu là chứng
khoán xác nhận phần vốn cổ phần vì vậy mà khả năng đem lại một khoản thu
nhập phụ thuộc trực tiếp vào tình hình sản xuất kinh doanh của chủ thể phát
hành. Một DN “ăn nên làm ra” “lãi mẹ đẻ lãi con” thì cổ phiếu của DN đó có giá
rất cao, người sở hữu cổ phiếu có thể thu được một khoản tiền khá lớn. Trái lại
khả năng sinh lời của trái phiếu bao giờ cũng ở một mức nhất định và khoản tiền
này thường khơng đáng kể.
Ba là, về tính thanh khoản. Xuất phát từ tính sinh lời, cổ phiếu có tính sinh
lời cao hơn trái phiếu nên nó cũng có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt nhanh
hơn.
Bốn là, về tính rủi ro. Cổ phiếu có tính rủi ro cao hơn trái phiếu. Chỉ cần
một biến động nhỏ của thị trường cũng có thể khiến giá cổ phiếu giảm mạnh,
thậm chí là vài lần. Trong khi đó, lãi suất của trái phiếu ln là một tỷ lệ nhất
định so với mệnh giá.
Năm là, về tính thời hạn. Nếu cổ phiếu có tính dài hạn thì thời hạn của trái
phiếu là ngắn hơn. Thơng thường kỳ hạn của trái phiếu Chính phủ và chính
quyền địa phương là năm năm.
Chứng chỉ quỹ đầu tư: Đây là một loại chứng khoán đặc biệt. Theo quy
định của pháp luật Việt Nam thì chứng chỉ quỹ đầu tư là “chứng khốn xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư đối với phần vốn góp của quỹ đại
chúng”. Chứng chỉ quỹ cũng có một số đặc điểm giống cổ phiếu và trái phiếu,
tuy nhiên nó lại khơng tham gia vào việc hình thành vốn của DN. Đồng thời chủ
sở hữu chứng chỉ quỹ không được tham gia vào việc quản lý, điều hành quỹ.

Pháp luật của các quốc gia khác nhau có những quy định khác nhau về chứng chỉ

6


quỹ và công ty quản lý quỹ nên quyền và lợi ích của chủ sở hữu là khác nhau.
Tuy nhiên về bản chất, chứng chỉ quỹ luôn là một loại chứng khốn vốn.
Ngồi ra nếu chia theo chủ thể phát hành thì cịn có chứng khốn do DN
phát hành và chứng khốn do chính phủ phát hành. Nội dung khóa luận dưới đây
em sẽ tập trung nghiên cứu về cổ phiếu và trái phiếu do DN phát hành.
1.1.3. Đặc điểm cơ bản
Chứng khốn là một tài sản tài chính có các đặc điểm cơ bản sau:
Tính thanh khoản (Tính lỏng): Tính lỏng của tài sản là khả năng chuyển
tài sản đó thành tiền mặt. Khả năng này cao hay thấp phụ thuộc vào khoảng thời
gian và phí cần thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của việc giảm sút giá trị của
tài sản đó do chuyển đổi. Chứng khốn có tính lỏng cao hơn so với các tài sản
khác, thể hiện qua khả năng chuyển nhượng cao trên thị trường và nói chung, các
chứng khốn khác nhau có khả năng chuyển nhượng là khác nhau.
Tính rủi ro: Chứng khốn là các tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu
tác động lớn của rủi ro, bao gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro khơng có hệ thống.
Rủi ro có hệ thống hay rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ hoặc
hầu hết các tài sản. Loại rủi ro này chịu tác động của các điều kiện kinh tế chung
như: lạm phát, sự thay đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất,… Rủi ro không hệ thống là
loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản hoặc một nhóm nhỏ các tài sản. Loại rủi
ro này thường liên quan tới điều kiện của nhà phát hành. Các nhà đầu tư thường
quan tâm tới việc xem xét, đánh giá các rủi ro liên quan, trên cơ sở đó đề ra các
quyết định trong việc lựa chọn, nắm giữ hay bán các chứng khoán. Điều này
phản ánh mối quan hệ giữa lợi tức và rủi ro hay sự cân bằng về lợi tức, người ta
sẽ không chịu rủi ro tăng thêm trừ khi người ta kỳ vọng được bù đắp bằng lợi
tức tăng thêm.

Tính sinh lợi: Chứng khốn là một tài sản tài chính mà khi sở hữu nó, nhà
đầu tư mong muốn nhận được một thu nhập lớn hơn trong tương lai. Thu nhập
này được bảo đảm bằng lợi tức được phân chia hàng năm và việc tăng giá chứng

7


khoán trên thị trường. Khả năng sinh lợi bao giờ cũng quan hệ chặt chẽ với rủi ro
của tài sản, thể hiện trong nguyên lý ở mức độ chấp nhận rủi ro càng cao thì lợi
nhuận kỳ vọng càng lớn.
Hình thức của chứng khốn: Hình thức của các loại chứng khốn có thu
nhập (cố định hoặc biến đổi) thường bao gồm phần bìa và phần bên trong.
Ngồi bìa ghi rõ quyền địi nợ hoặc quyền tham gia góp vốn. Số tiền ghi trên
chứng khoán được gọi là mệnh giá của chứng khốn. Đối với giấy tờ có giá với
lãi suất cố định bên trong có phiếu ghi lợi tức (Coupon) ghi rõ lãi suất hoặc lợi
tức sẽ được hưởng.
Đối với giấy tờ có giá mang lại cổ tức (cổ phiếu) bên trong chỉ ghi phần
thu nhập nhưng không ghi xác định số tiền được hưởng, nó chỉ đảm bảo cho
người sở hữu quyền yêu cầu về thu nhập do kết quả kinh doanh của công ty và
được phân phối theo nghị quyết của đại hội cổ đơng. Ngồi phiếu ghi lợi tức còn
kèm theo phiếu ghi phần thu nhập bổ sung (xác nhận phần đóng góp luỹ kế).
1.2. Chào bán chứng khoán
1.2.1. Khái niệm về chào bán chứng khoán
Chào bán chứng khoán là hoạt động phát hành chứng khoán để thu hút
vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn của chủ thể chào bán. Chào bán chứng
khoán được hiểu là việc đưa chứng khoán vào giao dịch tại TTCK sơ cấp. Tại
đây vốn của nhà đầu tư sẽ được chuyển giao cho tổ chức chào bán thông qua
việc nhà đầu tư mua chứng khốn. Phải nói rằng chỉ có hoạt động chào bán mới
làm tăng hàng hoá cho TTCK. Hơn thế, thông qua hoạt động chào bán, tổ chức
chào bán mới có thể thành lập, tăng vốn điều lệ phục vụ nhu cầu kinh doanh

hoặc bù đắp sự thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước.
Chào bán chứng khoán là tiền đề của các hoạt động khác liên quan đến
chứng khoán. Nếu so sánh chào bán chứng khoán và kinh doanh chứng khốn có
thể thấy điểm khác biệt sau, đó là hoạt động chào bán chứng khốn chỉ diễn ra
trên thị trường sơ cấp trong khi kinh doanh chứng khoán lại chỉ diễn ra trên thị

8


trường thứ cấp. Nếu như hoạt động kinh doanh chứng khốn có đối tượng là
chứng khốn cùng các dịch vụ khác liên quan đến chứng khốn thì hoạt động
chào bán chứng khốn có đối tượng là chứng khốn.
Đây cũng chính là những đặc điểm đặc thù của chào bán chứng khoán.
Được thể hiện ngay ở tên gọi, “chào bán riêng lẻ” có thể thấy được đây là đặc
điểm phân biệt rõ ràng nhất đối với “chào bán ra công chúng”.
Ở Hoa Kỳ, khái niệm về chào bán chứng khốn khơng được định nghĩa
trong Luật Chứng Khoán (LCK) 1933 và cũng khơng được định nghĩa bởi Tịa
Án. Hoạt động chào bán chứng khốn trong đó tất cả những người được chào
bán cần được bảo vệ thông qua việc đăng ký chào bán của chủ thể chào bán với
cơ quan quản lý nhà nước.
Với Trung Quốc thì khái niệm về chào bán chứng khoán được hiểu là
cuộc phát hành đáp ứng các điều kiên luật định và phải được báo cáo với cơ
quan quản lý chứng khoán xem xét và phê chuẩn.
1.2.2. Đặc điểm và phương thức chào bán chứng khoán
Chào bán chứng khốn có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể chào bán chứng khốn rất đa dạng: có thể là chính phủ,
chính quyền địa phương và đa dạng các loại hình DN.
Thứ hai, đối tượng của chào bán chứng khoán là chứng khoán. Chứng
khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối
với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khốn là hàng hóa

khơng thể thiếu của TTCK. Vì vậy, muốn TTCK đi vào hoạt động thì phải đưa
hàng hóa là chứng khốn vào lưu thơng tại thị trường này.
Thứ ba, chào bán chứng khoán chỉ được thực hiện trên thị trường sơ cấp.
Thị trường này là nơi diễn ra giao dịch trực tiếp giữa tổ chức chào bán và nhà
đầu tư. Theo đó, chứng khốn được bán lần đầu cho nhà đầu tư. Điều đó có

9


nghĩa là thông qua thị trường sơ cấp, những nguồn đầu tư mới thực sự chuyển
cho tổ chức chào bán.
Phương thức chào bán chứng khoán:
Phương thức chào bán chứng khoán là phương pháp và hình thức thực
hiện việc chào bán chứng khốn. Có hai phương thức chào bán chứng khốn là
chào bán chứng khốn ra cơng chúng và chào bán chứng khốn riêng lẻ.
Chào bán chứng khốn ra cơng chúng là việc mà chủ thể chào bán đưa
chứng khoán ra đại bộ phận công chúng đầu tư. Chào bán chứng khốn ra cơng
chúng có một số đặc trưng sau: (i) Việc chào bán chỉ được thực hiện sau khi chủ
thể phát hành đã đăng kí chào bán với cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lí
TTCK; (ii) Việc chào bán thường được tiến hành thông qua tổ chức trung gian là
các công ty bảo lãnh phát hành hoặc đại lí phát hành chứng khốn; (iii) Việc
chào bán thực hiện trên phạm vi lớn, thu hút số lượng lớn nhà đầu tư bỏ vốn để
mua chứng khoán trong đợt phát hành; (iv) Giá trị chứng khoán đã chào bán
thường phải đạt tới mức độ nhất định nhằm tập trung được lượng vốn lớn, giúp
chủ thể phát hành thực hiện được dự án mở rộng quy mô kinh doanh hoặc đầu tư
mới.
Chào bán chứng khoán riêng lẻ là hoạt động chào bán chứng khoán của
chủ thể phát hành cho các khách hàng đặc biệt, thường là các nhà đầu tư có tổ
chức và không bán rộng rãi ra công chúng. Chào bán chứng khốn riêng lẻ có
một số đặc trưng sau:

(i)Tính chuyên nghiệp của các nhà đầu tư. Tức là các nhà đầu tư được
chào bán chứng khoán riêng lẻ phải có khả năng tiếp cận cùng loại thơng tin về
việc chào bán, có khả năng tự hiểu và tự đánh giá được những thơng tin đó.
(ii)Tổ chức phát hành và bất kì tổ chức nào đại diện cho tổ chức phát hành
phải thực hiện những hành vi cần thiết để đảm bảo rằng thông tin cần thiết về tổ
chức phát hành và về chứng khoán sẽ chào bán đến với những người được chào
bán và người mua là đầy đủ và chính xác.

10


(iii)Có sự giới hạn về số lượng nhà đầu tư vì nếu số lượng lớn thì cuộc chào
bán có khả năng phải đăng kí dưới hình thức chào bán chứng khốn ra cơng chúng.
Việc phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng là để xác
định những người phát hành rộng rãi ra công chúng phải là những cơng ty có
chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, nhằm bảo vệ cho công chúng
đầu tư nói chung, nhất là những nhà đầu tư nhỏ thiếu hiểu biết. Đồng thời, đây
cũng là điều kiện để xây dựng một TTCK an tồn, cơng khai và có hiệu quả.
Hoạt động phát hành chứng khốn riêng lẻ thơng thường chịu sự điều
chỉnh của Luật Cơng ty. Chứng khốn phát hành dưới hình thức này khơng phải
là đối tượng được niêm yết và giao dịch trên TTCK sơ cấp.
Trong khuôn khổ của đề tài, em tập trung nghiên cứu pháp luật về chào
bán chứng khoán riêng lẻ.
1.3. Pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ
1.3.1. Khái niệm về pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ
Pháp luật về chào bán chứng khoán là tổng hợp các nguyên tắc, định
hướng cơ bản cho cơ chế của hoạt động chào bán chứng khoán, là tổng hợp
những quy phạm pháp luật do cơ quan có thẩm quyền bàn hành nhằm điều chỉnh
các hoạt động liên quan đến q trình chào bán chứng khốn. Thông thường các
quy định này bao gồm: Điều chỉnh về chủ thể chào bán, điều kiện phát hành

(chào bán), thẩm quyền chào bán,… của các tổ chức phát hành. Từ khái niệm
trên, có thể định nghĩa khái niệm chào bán chứng khoán riêng lẻ là tổng hợp các
quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ bao
gồm: chủ thể chào bán, điều kiện chào bán, phương thức phát hành, thẩm quyền
quyết định, trình tự - thủ tục chào bán,…
1.3.2. Nội dung về pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Một là, quy định về chủ thể phát hành: Pháp luật các nước có TTCK đều
quy định các điều kiện về chủ thể phát hành để đảm bảo chất lượng các chứng

11


khốn phát hành nhằm bảo về quyền và lợi ích của nhà đầu tư.
Việc hình thành nên số vốn ban đầu của công ty cổ phần (CTCP) được
thực hiện thông qua việc phát hành cổ phiếu. Người góp vốn vào CTCP được
thực hiện dưới hình thức mua cổ phiếu. Trong q trình hoạt động kinh doanh,
CTCP có thể phát hành thêm cổ phiếu để tăng thêm vốn kinh doanh. Người nắm
giữ cổ phiếu là chủ sở hữu của CTCP và được gọi là cổ đơng.
Có thể thấy, chính CTCP đã khai sinh ra cổ phiếu và chỉ CTCP mới có cổ
phiếu. Do vậy, có thể nói chủ thể phát hành cổ phiếu là CTCP.
Chủ thể phát hành trái phiếu riêng lẻ: là chủ thể phát hành theo quy định
của pháp luật và là một yếu tố quan trọng trong hoạt động phân tích đầu tư trái
phiếu, tác động đến mức sinh lời cũng như rủi ro không trả được nợ. Chủ thể
phát hành trái phiếu bao gồm: (a) Chính phủ: về mặt lý thuyết, trên thị trường
trái phiếu nội địa, trái phiếu chính phủ khơng có rủi ro khơng trả được nợ (còn
gọi là rủi ro vỡ nợ), do vậy trái phiếu chính phủ ln có lãi suất danh nghĩa thấp
hơn so với trái phiếu của các nhà phát hành khác có cùng điều kiện phát hành.
Chính phủ phát hành trái phiếu nhằm huy động vốn cho ngân sách nhà nước đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ. Trái phiếu được phát hành để bù đắp thâm
hụt ngân sách nhà nước, tài trợ cho các cơng trình cơng ích hoặc làm cơng cụ

điều tiết tiền tệ. (b) Chính quyền địa phương: trái phiếu do chính quyền địa
phương phát hành cũng nhằm mục đích huy động vốn đắp ứng nhu cầu chi tiêu
cho ngân sách địa phương. (c) Doanh nghiệp: trái phiếu DN là một loại trái
phiếu do các doanh nghiệp được phép phát hành theo quy định của pháp luật.
Như vậy có thể thấy rằng, về mặt chủ thể, thì chủ thể chào bán trái phiếu
riêng lẻ đa dạng hơn so với chào bán cổ phiếu riêng lẻ. Với giới hạn khóa luận,
em tập trung nghiên cứu pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của DN.
Hai là, quy định về điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ. Đây là quy
định quan trọng nhất để phân biệt chào bán chứng khoán riêng lẻ với chào bán
chứng khoán ra công chúng.

12


Đối với pháp luật mỗi quốc gia sẽ có những quy định riêng về điều kiện
chào bán chứng khoán riêng lẻ tùy theo điều kiện quản lý thị trường phát hành
của quốc gia mình. Tuy nhiên, các quy định thơng thường đối với chào bán cổ
phiếu riêng lẻ bao gồm: (i) điều kiện về chủ thể: chỉ CTCP hoặc các hình thức
cơng ty khác được chuyển đổi thành CTCP. Thường thì các chủ thể phát hành
này đã đi vào hoạt động ổn định và có tình hình tài chính lành mạnh. Phần lớn
pháp luật các nước không quy định chủ thể phát hành phải đạt mức vốn điều lệ
tối thiểu trong điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ. (ii) điều kiện về phạm vi
chào bán: cần xác định rõ số lượng nhà đầu tư hướng tới, cụ thể: thông thường là
dưới 100 nhà đầu tư không bao gồm nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp tùy
thuộc vào pháp luật quốc gia mà số lượng nhà đầu tư mà DN được phép chào
bán tới là khác nhau. (iii) điều kiện về nội dung: DN tiến hành chào bán phải có
phương án sử dụng số tiền có được sau khi chào bán và được cơ quan có thẩm
quyền quyết định.
Đối với chào bán trái phiếu riêng lẻ: (i) điều kiện về chủ thể: Chủ thể
được phép chào bán theo quy định của pháp luật, có thể là chính phủ, chính

quyền địa phương, DN, tổ chức tín dụng,… Thường thì những chủ thể này có
khả năng tài chính để thanh tốn đủ gốc, lãi trái phiếu, hạn chế tối đa các rủi ro
cho người sở hữu trái phiếu; (ii) điều kiện về kinh doanh: hoạt động kinh doanh
phải có lãi trong một số năm gần nhất; (iii) điều kiện về mục đích sử dụng vốn:
yêu cầu phải có phương án sử dụng vốn khả thi và được cơ quan có thẩm quyền
thơng qua; các báo cáo về tình hình tài chính của DN trong một số năm được
kiểm tốn; và (iv) có cam kết thực hiện nghĩa vụ đối với người sở hữu trái phiếu
được cơ quan có thẩm quyền thơng qua.
Ba là, quy định về phương án phát hành
Các chứng khoán được chào bán riêng lẻ có thể được chào bán thông qua
nhiều phương thức khác nhau: bán trực tiếp, thông qua các đại lý phát hành, bảo
lãnh phát hành hoặc chào bán thông qua đấu giá, đấu thầu...

13


Khi tiến hành lựa chọn phương thức chào bán chứng khoán riêng lẻ DN
cần lưu ý những quy định của pháp luật về điều kiện, cách thức phát hành, mục
đích phát hành, khả năng kiểm soát nhà đầu tư của tổ chức phát hành, điều kiện
về khoa học công nghệ, cơ sở vật chất, kỹ thuật và những đặc thù của DN, trình
độ, uy tín của tổ chức nhận đại lý, bảo lãnh phát hành... Đây là những yếu tố
quan trọng giúp DN lựa chọn phương thức chào bán phù hợp và bảo đảm thành
công cho đợt chào bán. Cụ thể:
(i)

Phương thức bán trực tiếp:
Là phương thức tổ chức phát hành thực hiện chào bán chứng khoán trực

tiếp cho nhà đầu tư không qua khâu trung gian. Đây là phương thức cổ điển
chứng khoán được mua bán như hàng hoá thơng thường. Tổ chức phát hành tự

mình thực hiện tất cả các cơng đoạn của q trình chào bán như chuẩn bị hồ sơ,
thủ tục, đăng ký chào bán, quảng cáo, phân phối chứng khốn... Phương thức
này địi hỏi tổ chức phát hành phải am hiểu thị trường, có hệ thống phân phối
rộng, nhu cầu huy động vốn không cấp bách. Khi đó chứng khốn sẽ đi thẳng từ
nhà phát hành đến tay nhà đầu tư, khơng có chi phí trung gian.
Ưu điểm của phương thức bán trực tiếp là tổ chức phát hành sẽ tối đa
được lợi nhuận, nắm bắt được nhu cầu thị trường. Nhưng tổ chức phát hành sẽ
gặp khó khăn trong việc kiểm sốt tổng lượng vốn lưu động, thời gian tập trung
vốn thường kéo dài nên phương thức này ẩn chứa nhiều rủi ro.
(ii)

Phương thức thông qua các đại lý phát hành:
Đại lý phát hành là phương thức một hoặc nhiều tổ chức đứng ra làm đại

diện phân phối chứng khoán cho tổ chức phát hành theo hợp đồng đại lý trong
đó có cam kết tỷ lệ hoa hồng (phí đại lý phát hành).
Thơng thường tổ chức đại lý phát hành là các công ty chứng khốn hay
các định chế tài chính khác theo quy định của pháp luật. Với trình độ chun
mơn và sự am hiểu thị trường, các đại lý phát hành sẽ tạo mạng lưới phân phối
rộng, số lượng chứng khoán bán ra lớn hơn so với bán trực tiếp. Nhưng tổ chức

14


phát hành gặp khó khăn trong việc xác định tổng lượng chứng khoán bán ra, phụ
thuộc vào khách hàng, bị động trong khả năng huy động vốn và chịu phí đại lý
phát hành. Các đại lý chỉ chịu trách nhiệm phân phối chứng khốn, khơng bảo
đảm thành cơng cho đợt chào bán.
(iii)


Phương thức chào bán thông qua đấu giá:

Là phương thức các tổ chức trung gian sẽ thực hiện đấu giá đối với số
lượng chứng khoán mà DN sẽ bán ra bên ngoài. Nhà đầu tư sẽ tham gia đấu giá
bằng cách đăng ký trước, việc trả giá chứng khoán được tiến hành bỏ phiếu kín.
Người tổ chức đấu giá, tổ chức phát hành sẽ ấn định giá tối thiểu và thực hiện
bán chứng khoán theo nguyên tắc ưu tiên về giá. Thông qua đấu giá, người mua
và người bán sẽ xác định được một mức giá phù hợp, khách quan và cơng bằng.
Giá chứng khốn được hình thành theo hai chiều: người mua cạnh tranh với
những người mua khác để mua được với giá thấp nhất, người bán cạnh tranh với
những người bán khác để bán được với giá cao nhất.
Có nhiều phương thức đấu giá, nếu căn cứ vào hình thức đấu giá, có đấu
giá trực tiếp, đấu giá gián tiếp, đấu giá tự động. Nếu căn cứ vào phương thức đấu
giá, có đấu giá định kỳ và đấu giá liên tục.
(iv)

Chào bán chứng khốn thơng qua đấu thầu:

Đấu thầu chứng khoán là phương thức một hoặc nhiều nhà thầu sẽ mua
tồn bộ số chứng khốn dự định phát hành, sau đó phân phối lại trên cơ sở phân
chia tỷ lệ phần trăm với tổ chức phát hành.
Phương thức này có ưu điểm là xác định tổng lượng vốn lưu động, thời
gian huy động vốn ngắn (thường chỉ từ 1- 6 tuần). Tuy nhiên, tổ chức phát hành
phải chịu chi phí trung gian. Khoản phí này do tổ chức phát hành thoả thuận với
tổ chức đấu thầu, tổ chức được uỷ quyền. Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính
quyền địa phương, trái phiếu kho bạc, trái phiếu cơng trình trung ương, trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh... thường chào bán bằng phương thức đấu thầu.

15



(v)

Chào bán chứng khốn thơng qua bảo lãnh phát hành:
Bảo lãnh phát hành là phương thức một hoặc nhiều tổ chức bảo lãnh cam

kết với tổ chức phát hành về việc thực hiện các thủ tục trước khi chào bán, phân
phối chứng khoán cho nhà đầu tư, nhận mua chứng khốn để bán lại và mua số
chứng khốn cịn lại chưa phân phối hết. Nghĩa là có một hoặc một số tổ chức
bảo lãnh sẽ đứng ra giúp tổ chức chào bán thực hiện các thủ tục trước khi chào
bán chứng khốn. Sau đó tổ chức bảo lãnh nhận mua số chứng khoán để bán lại
hoặc nhận mua số chứng khốn cịn lại sau đợt phát hành. Hiện nay các ngân
hàng đầu tư thường đứng ra bảo lãnh phát hành. Ưu điểm của bảo lãnh phát hành
là tổ chức chào bán đảm bảo huy động được nguồn vốn theo nhu cầu. Tuy nhiên
tổ chức chào bán phải trả cho tổ chức bảo lãnh một khoản chi phí trung gian.
Sự tham gia của tổ chức bảo lãnh giúp hoạt động chào bán chứng khoán
diễn ra thuận lợi hơn. Tổ chức bảo lãnh chuẩn bị hồ sơ, thủ tục cần thiết trước
khi chào bán và tiến hành phân phối chứng khoán. Tổ chức bảo lãnh có thể thành
lập tổ hợp bảo lãnh để phân tán rủi ro trong đợt chào bán.
Có nhiều phương thức bảo lãnh với mức độ cam kết khác nhau được ghi
rõ trong hợp đồng bảo lãnh. Những DN mới thành lập hoặc quy mơ nhỏ có thể
chọn hình thức bảo lãnh với cam kết chắc chắn để đảm bảo thành cơng cho đợt
chào bán. Nếu cơng ty có nhu cầu một số vốn nhất định cho chiến lược kinh
doanh mà khơng thể sử dụng số vốn ít hơn có thể chọn bảo lãnh theo phương
thức tất cả hoặc không. Những DN phát hành bổ sung thêm cổ phiếu, nếu có
những cổ đơng khơng muốn mua thêm cổ phiếu của cơng ty có thể áp dụng
phương thức bảo lãnh dự phịng cho những quyền mua khơng được thực hiện.
Nếu tổ chức bảo lãnh không bảo đảm khả năng phân phối hết số chứng khốn có
thể thoả thuận với tổ chức phát hành hình thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất.
Mỗi phương thức bảo lãnh đều có ưu và nhược điểm riêng. Do đó, tổ chức phát

hành cần lưu ý nhu cầu vốn và những đặc thù của doanh để lựa chọn phương
thức bảo lãnh phù hợp. nghĩa là có một hoặc một số nhà thầu được lựa chọn, cam
kết sẽ phân phối hết số chứng khoán với điều kiện nhà thầu được hưởng một tỷ

16


lệ phần trăm nhất định theo kết quả của đợt chào bán. Với phương thức này, tổ
chức chào bán sẽ đạt được mục tiêu huy động vốn trong một thời gian ngắn
nhưng đổi lại, họ phải chịu một khoản phí trung gian cao. Tuy vậy, phương thức
bán thông qua đấu thầu đặc biệt thích hợp với việc phát hành tín phiếu.
Bốn là, quy định về trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ
Thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ thường đơn giản hơn nhiều so với chào
bán chứng khốn ra cơng chúng. Chỉ bao gồm hai bước cơ bản như sau:
Bước một: Công bố thông tin trước khi chào bán chứng khoán riêng lẻ: Ở
các nước phát triển thì chủ thể chào bán chứng khốn riêng lẻ thường được miễn
áp dụng chế độ công bố thông tin. Nhà đầu tư vào chứng khoán riêng lẻ thường
là các tổ chức như các công ty bảo hiểm nhân thọ, quỹ hưu trí hay các ngân hàng
thương mại. Đây là những nhà đầu tư được đánh giá là chuyên nghiệp có khả
năng phân tích chuẩn xác trước khi đầu tư. Mặt khác với Việt Nam thì chủ thể
nhắm đến của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ thường là người lao
động trong DN – đây là những chủ thể được cho là những nhà đầu tư nghiệp dư
(không chuyên nghiệp) trong việc thu thập, nắm bắt thông tin cũng như khả năng
phân tích.
Tuy nhiên, dù là nhà đầu tư nào thì đều phải thực hiện việc cung cấp các
loại thông tin cần thiết. Theo pháp luật mỗi nước mà thông tin cần nhà đầu tư
cung cấp là khác nhau.
Bước hai: Phân phối chứng khoán: tương tự như hoạt động chào bán
chứng khốn ra cơng chúng, các chứng khốn được chào bán riêng lẻ thông qua
nhiều phương thức khác nhau gọi chung là phân phối chứng khốn. Các phương

thức đó bao gồm: bán trực tiếp, thông qua các đại lý phát hành, bảo lãnh chứng
khoán, đấu giá, đấu thầu.
1.3.3. Vai trị của pháp luật về chào bán chứng khốn riêng lẻ
Nền kinh tế thị trường đặc điểm cơ bản là thị trường đóng vai trị chính
trong sự phân bổ sử dụng các nguồn lực trong xã hội, còn nhà nước chỉ là người
17


tạo lập khung khổ - hành lang pháp lý và giám sát thực thi pháp luật của các chủ
thể tham gia thị trường. Chẳng hạn như việc ban hành và thực hiện Luật Doanh
nghiệp thống nhất, Luật chống độc quyền sẽ tạo ra mơi trường kinh doanh bình
đẳng cho các DN thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình hoạt động; tạo
điều kiện cho giá cả chứng khoán của các DN được hình thành theo cơ chế cạnh
tranh hơn trên thị trường. Luật thâu tóm, sáp nhập cơng ty có thể gây tác động
tích cực đến các cơng ty có chứng khốn niêm yết trên thị trường. Tương tự các
chính sách pháp luật, chính sách tài chính - tiền tệ liên quan đến hoạt động của
các DN cũng có tác động đến nhiều mặt hoạt động của TTCK và DN. Như vậy
có thể thấy mơi trường pháp lý có thể tác động mạnh mẽ, là điều kiện cần để
nâng cao hiệu quả hoạt động của DN và TTCK.
Trong thời đại ngày nay, bất kì quốc gia có nền kinh tế phát triển nào
cũng có kênh huy động vốn quan trọng: kênh huy động vốn gián tiếp thông qua
hệ thống ngân hàng theo nguyên tắc tín dụng và kênh huy động vốn trực tiếp
thông qua TTCK theo nguyên tắc đầu tư. Hiện nay chúng ta khơng thể phủ nhận
vai trị của TTCK đối với sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia. TTCK phản
ánh rõ nét nhất các quy luật của nền kinh tế thị trường. Người ta ví TTCK như
chiếc nhiệt kế đo “nhiệt độ” của nền kinh tế. Sự tăng trưởng của nền kinh tế
được đánh giá qua chỉ số giá chứng khoán của TTCK. Lịch sử phát triển nền
kinh tế thị trường ở các quốc gia phát triển đã khẳng định TTCK ngày càng có
vai trị quan trọng trong q trình vận hành nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng
như trong hệ thống kinh tế toàn cầu.

Pháp luật của bất cứ lĩnh vực nào ra đời cũng nhằm mục đích điều chỉnh
những hành vi, những hoạt động của cá nhân tổ chức theo đúng chuẩn mực và
những nguyên tắc cơ bản. Bởi vậy mà pháp luật về chào bán chứng khốn nói
chung và pháp luật về chào bán chứng khốn riêng lẻ nói riêng ra đời đóng góp
một vai trị quan trọng trong hoạt động của TTCK. TTCK có thể coi là một xã
hội kinh tế thu nhỏ mà ở đó các giao dịch liên tục diễn ra, tiền thường xuyên
được lưu thông trao đổi.

18


Nếu hoạt động chào bán này không được quản lý tốt bằng pháp luật sẻ có
tác động xấu, gây khủng hoảng cho TTCK, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư và
ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi pháp luật
chứng khoán đang trong q trình hồn thiện. Hoạt động chào bán chứng khoán
riêng lẻ vẫn chưa thực sự được quan tâm và giám sát đúng mức. Điều này đã gây
ra nhiều bất ổn cho TTCK trong thời gian qua cả về mặt lý luận và thực tiễn như:
các vụ việc xâm phạm quyền lợi của các cổ đông hiện hữu khi chào bán chứng
khoán riêng lẻ hay các văn bản pháp luật ban hành không rõ ràng khiến cho các
DN cũng như cơ quan áp dụng pháp luật lúng túng trong quá trình thực hiện.
Điều này đã làm chậm tiến độ huy động vốn của các DN, ảnh hưởng đến mục
tiêu phát triển kinh tế chung của cả nước. Hay sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa
các văn bản pháp luật…
Vì vậy, pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ là chìa
khóa đảm bảo cho TTCK nói chung và TTCK riêng lẻ nói riêng được vận hành
an tồn.

19



CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG
KHOÁN RIÊNG LẺ TẠI VIỆT NAM
Trong 10 năm trở lại đây, quy mô huy động vốn qua TTCK Việt Nam
đáp ứng khoảng 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tương đương gần 60% so với
cung tín dụng qua thị trường tiền tệ - tín dụng. Điều này cho thấy TTCK tại Việt
Nam đang ngày càng trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội, góp phần dần hình thành một hệ thống tài chính hiện
đại trên nền tảng hài hịa giữa TTCK và thị trường tiền tệ - tín dụng.
Để đáp ứng nhu cầu ngày một phát triển của TTCK Việt Nam, rất nhiều
luật cũng như nghị định, thông tư hướng dẫn được sửa đổi ban hành nhằm điều
chỉnh, quản lý kịp thời các hoạt động trên TTCK. Khóa luận tập trung nghiên
cứu các vấn đề liên quan đến pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ tại Việt
Nam sau năm 2009 (tức giai đoạn hậu khủng hoảng) nhằm tìm ra những bất cập
qua đó góp ý sửa đổi bổ sung các quy định về hoạt động này để tháo gỡ khó
khăn cho việc huy động vốn của các tổ chức phát hành trong giai đoạn hộ nhập
kinh tế thế giới hiện nay.
LCK ra đời nhưng lại bỏ sót khơng điều chỉnh hoạt động chào bán chứng
khoán riêng lẻ, đây là một thiếu sót lớn của LCK 2006, Nghị định 52/2006/NĐCP cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Trong khi hoạt động chào bán chứng khoán riêng
lẻ vẫn diễn ra hàng ngày, khối lượng và giá trị ngày càng tăng, diễn ra khá phức
tạp, đặt ra địi hỏi phải có sự điều chỉnh của nhà nước. Đáp ứng đòi hỏi của thực
tế, ngày 23/8/2008 thủ tướng chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 20/2008/CT-TTg
về tăng cường quản lý thị trường chứng khoán. Chỉ thị quy định cơ quan chịu
trách nhiệm quản lý hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ. Nhằm cụ thể hóa
chỉ thị của thủ tướng chính phủ về hoạt chào bán chứng khoán riêng lẻ quy định
tại Chỉ thị số 20/2008/CT-TTg, ngày 26/11/2008 Bộ tài chính và Uỷ ban chứng

20



×