Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng thế chấp tài sản theo pháp luật việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.52 KB, 108 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN HONG LONG

BảO ĐảM THựC HIệN HợP ĐồNG TíN DụNG NGÂN HàNG
BằNG THế CHấP TàI SảN THEO PHáP LUậT VIệT NAM HIệN HàNH

LUN VN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN HONG LONG

BảO ĐảM THựC HIệN HợP ĐồNG TíN DụNG NGÂN HàNG
BằNG THế CHấP TàI SảN THEO PHáP LUậT VIệT NAM HIệN HàNH

Chuyờn ngnh: Luật Kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM THỊ GIANG THU

HÀ NỘI - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Hồng Long


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG BẰNG THẾ
CHẤP TÀI SẢN ............................................................................... 8
1.1.
Một số vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng tín dụng ngân hàng..... 8
1.1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng ngân hàng ............................................ 8
1.1.2. Đặc trưng của hợp đồng tín dụng ngân hàng .................................... 11
1.2.


Một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo đảm tiền vay bằng thế
chấp tài sản ..................................................................................... 14
1.2.1. Khái niệm và bản chất của thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện
hợp đồng tín dụng ngân hàng ........................................................... 14
1.2.2. Đặc điểm của thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện hợp đồng tín
dụng ngân hàng ................................................................................ 20
1.3.

Sự cần thiết của thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện hợp đồng
tín dụng ngân hàng......................................................................... 21

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................. 29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG BẰNG THẾ
CHẤP TÀI SẢN Ở VIỆT NAM .................................................... 30
2.1.

Những nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về bảo đảm
thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng thế chấp tài sản
ở Việt Nam ...................................................................................... 30
2.1.1. Đối tượng của thế chấp tài sản ......................................................... 30
2.1.2. Phạm vi của thế chấp tài sản............................................................. 36


2.1.3. Điều kiện của tài sản thế chấp .......................................................... 40
2.1.4. Hợp đồng thế chấp tài sản ................................................................ 45
2.2.

Đánh giá những hạn chế, khó khăn khi áp dụng pháp luật về

đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hằng bằng thế
chấp tài sản ..................................................................................... 63

2.2.1. Chưa có sự thống nhất cách hiểu giữa Hợp đồng thế chấp, Hợp
đồng bảo lãnh ................................................................................... 63
2.2.2. Những khó khăn, vướng mắc về đăng ký giao dịch bảo đảm ............ 64
2.2.3. Những khó khăn, vướng mắc về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của Bên thế chấp là Bên thứ ba ........................................................ 65
2.2.4. Những khó khăn, vướng mắc khi xử lý tài sản thế chấp ................... 67
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................. 71
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG BẰNG THẾ
CHẤP TÀI SẢN Ở VIỆT NAM .................................................... 72
3.1.

Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện hoạt
động tín dụng Ngân hàng bằng thế chấp tài sản........................... 72

3.2.

Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện
hợp đồng tín dụng Ngân hàng bằng thế chấp tài sản ................... 77

3.3.

Một số nội dung cụ thể, cơ bản cần hoàn thiện pháp luật bảo
đảm thực hiện hợp đồng tín dụng Ngân hàng bằng thế chấp
tài sản .............................................................................................. 80
3.3.1. Về nội dung quy định về thế chấp tài sản ......................................... 80
3.3.2. Về quy định biện pháp bảo đảm bằng vật quyền và biện pháp bảo

đảm bằng trái quyền ......................................................................... 83
3.3.3. Về quy định liên quan đến hình thức của hợp đồng thế chấp tài sản .... 85
3.3.4. Hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm......................... 86
3.3.5. Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm ................................. 88
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ............................................................................. 93
KẾT LUẬN ................................................................................................. 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 97


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự

TCTD

Tổ chức tín dụng

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đề ra một trong các nhiệm vụ trọng tâm là “Chú trọng giải quyết
tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước,
xử lý nợ xấu và bảo đảm an tồn nợ cơng” [21], trong đó có thể thấy nhiệm
vụ “xử lý nợ xấu” được đánh giá là một nhiệm vụ quan trọng không kém so
với các nhiệm vụ “cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước”, “cơ cấu lại ngân sách
nhà nước”, “bảo đảm an toàn nợ công” là những vấn đề ở tầm vĩ mô, thể hiện
sự quan tâm của Đảng trong việc xử lý nợ xấu, một vấn đề đang rất nhức nhối
trong xã hội hiện nay.
Những khoản nợ xấu nói trên là hậu quả không mong muốn trong hoạt
động cho vay của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng (TCTD),
thơng qua hình thức pháp lý chủ yếu là hợp đồng tín dụng ngân hàng. Thật
vậy, tín dụng là hoạt động luôn tiềm ẩn rủi ro rất cao nên các TCTD thường
yêu cầu một hoặc nhiều biện pháp bảo đảm cho những khoản cấp tín dụng
này vì một trong các chức năng của nó là có thể giúp các TCTD thu hồi được
nợ trong trường hợp khách hàng không trả nợ. Trong các biện pháp đó, bảo
đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng thế chấp tài sản chiếm vị trí
quan trọng. Muốn xử lý được nợ xấu thì một phần quan trọng là phải xử lý
được các biện pháp bảo đảm tương ứng đối với các khoản nợ xấu đó, và vì
vậy phải xử lý được các tài sản thế chấp trong các hợp đồng thế chấp tài sản.
Những năm gần đây, để tạo cơ chế pháp lý phù hợp đảm bảo an toàn
cho các giao dịch dân sự, kinh tế và thương mại, Nhà nước đã quan tâm xây
dựng pháp luật về giao dịch bảo đảm nói chung và bảo đảm hợp đồng tín
dụng ngân hàng (bảo đảm tiền vay) nói riêng. Trong đó, thế chấp tài sản bảo

1


đảm hợp đồng tín dụng ngân hàng cũng là một bộ phận của hệ thống pháp

luật bảo đảm nghĩa vụ dân sự nói chung và được điều chỉnh một cách thống
nhất từ Bộ luật dân sự. Sự hình thành các quy định pháp luật về các biện pháp
bảo đảm tiền vay nói chung và các quy định về bảo đảm tiền vay bằng thế
chấp tài sản nói riêng cùng đặt trong một thể thống nhất với các quy định của
pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là một bước phát triển của
Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện
hợp đồng tín dụng ngân hàng cho thấy, nội dung của bộ phận pháp luật này
cịn có nhiều bất cập với yêu cầu của cuộc sống, hiệu quả áp dụng còn rất
thấp. Đặc biệt bức xúc ở các lĩnh vực như: Xác định loại tài sản thế chấp,
đăng ký tài sản thế chấp, xử lý tài sản thế chấp... dẫn đến hậu quả là hàng
nghìn tỷ đồng tiền vốn cho vay của các ngân hàng thương mại và các TCTD
khác khó thu hồi hoặc không thu hồi được. Những thực tiễn đó bắt nguồn từ
nguyên nhân trực tiếp là các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này vừa tản
mạn, vừa chồng chéo thậm chí mâu thuẫn nhau, chưa hình thành một hệ thống
văn bản pháp luật hoàn chỉnh; đặc biệt là các quy định về hợp đồng (trong đó
có hợp đồng thế chấp tài sản) trong Bộ luật dân sự. Trước yêu cầu đặt ra, năm
2015, Quốc hội đã ban hành Bộ luật dân sự 2015 để khắc phục những tồn tại
và bất hợp lý của Bộ luật dân sự 2005 (trong đó có nội dung về “thế chấp tài
sản”), và 02 năm sau đó, vào năm 2017, Quốc hội lại hành tiếp Nghị quyết số
42/2017/QH14 ngày 21 tháng 6 năm 2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ
chức tín dụng. Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi bổ sung năm
2017 khơng có quy định về thế chấp tài sản, tại Điều 95 của Luật này chỉ có
quy định về việc các tổ chức tín dụng có quyền xử lý nợ, tài sản bảo đảm tiền
vay theo hợp đồng cấp tín dụng, hợp đồng bảo đảm và quy định của pháp luật
khi khách hàng không trả được nợ đến hạn mà các bên không có các thỏa
thuận khác [32, 40].

2



Chính vì vậy, việc tác giả lựa chọn hướng nghiên cứu, luận giải những
vấn đề lý luận và thực tiễn trong phạm vi đề tài "Bảo đảm thực hiện hợp đồng
tín dụng ngân hàng bằng thế chấp tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện hành"
góp phần hồn thiện các quy định về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín
dụng nói riêng và hồn thiện các quy định pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ dân
sự nói chung là cần thiết, có tính thời sự, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do pháp luật về bảo đảm tiền vay nói chung và pháp luật về thế chấp
tài sản nói riêng có vai trị đặc biệt quan trọng đối với hoạt động cho vay và
thu hồi vốn của các ngân hàng thương mại và các TCTD khác nên đây là vấn
đề được một số nhà nghiên cứu quan tâm. Nhiều cơng trình nghiên cứu đã
được cơng bố cho thấy, nhiều vấn đề liên quan đến đề tài này hoặc đang bị bỏ
ngỏ hoặc chưa giải quyết một cách triệt để, hoặc đã nghiên cứu giải quyết
nhưng khơng cịn phù hợp với sự vận động của xã hội hiện nay.
Có thể nêu một số cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố có liên quan
trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài "Bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
ngân hàng bằng thế chấp tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện hành" như:
sách chuyên khảo: Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ
chức tín dụng do TS. Lê Thu Thủy làm chủ biên, NXB Tư pháp 2006; Hoàn
thiện các quy định về quản lý và xử lý tài sản thế chấp, Xây dựng lại hệ thống
pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ trên cơ sở lý thuyết vật quyền và trái quyền,
PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, Tạp chí nghiên cứu và lập pháp điện tử, Hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ
luật học của Ngô Quốc Kỳ (2003); Địa vị pháp lý của ngân hàng thương mại
quốc doanh, Luận án tiến sĩ luật học của Trần Đình Triển; Những vấn đề pháp
lý về bảo lãnh ngân hàng, Luận văn thạc sĩ luật học của Trần Thu Lan (2011);

3



Pháp luật về hợp đồng tín dụng ngân hàng ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật
học của Nguyễn Thị Hồng Thúy (2008);
Kết quả nghiên cứu thể hiện trong các cơng trình trên đây cho thấy: Các
tác giả tập trung phần lớn vào việc phân tích, trình bày nội dung của các quy
định có liên quan của luật thực định hiện hành ở những mức độ khác nhau; có
thể đã chỉ ra một số cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định pháp luật,
những tồn tại vướng mắc khi áp dụng chế định này trên thực tế và đề xuất
phương hướng khắc phục. Mặc dù vậy, nhiều vấn đề lý luận hoặc là còn nhiều
ý kiến, quan điểm khác nhau hoặc là đang bỏ ngỏ; nhiều vấn đề thực tiễn hiện
nay đã khơng cịn tính thời sự và khơng cịn phù hợp với những thay đổi về
pháp luật trong những năm gần đây, với sự xuất hiện của những chính sách
pháp luật và các văn bản pháp luật mới, ví dụ như BLDS 2015 và Nghị quyết
số 42 của Quốc hội.
Các cơng trình nói trên là những tư liệu quý giá giúp tác giả trong quá
trình nghiên cứu đề tài của mình. Đề tài mà tác giả lựa chọn là lĩnh vực hẹp và
chuyên sâu, lĩnh vực nhạy cảm liên quan đến nhiều vấn đề của pháp luật về
giao dịch bảo đảm nói chung và bảo đảm tiền vay nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn đặt ra mục đích làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của quan
hệ thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng theo
pháp luật Việt Nam hiện hành, từ đó nêu ra những bất cập của pháp luật hiện
hành. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra các kiến nghị góp phần hồn thiện pháp
luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng thế chấp tài sản
ở Việt Nam.
Từ mục đích nghiên cứu như vậy, luận văn đặt ra các nhiệm vụ cụ
thể như sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về cơ sở khoa học và thực tiễn
bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng thế chấp tài sản.

4


- Đánh giá phần nào về thực trạng pháp luật về thế chấp tài sản để bảo
đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ở Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật về thế chấp tài
sản bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng ở Việt Nam.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy phạm pháp luật về thế
chấp tài sản và việc áp dụng những quy phạm pháp luật đó trong lĩnh vực tín
dụng ngân hàng. Đồng thời, luận văn cũng trình bày ở mức độ nhất định về
thực tiễn xét xử của Tòa án về thế chấp tài sản trong bảo đảm hợp đồng tín
dụng ngân hàng để làm rõ những nhận định, đánh giá về thế chấp tài sản bảo
đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng ở Việt Nam.
Do khuôn khổ của luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu những vấn đề cơ bản
nhất về thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng ở Việt
Nam. Đối với thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng ở
Việt Nam có yếu tố nước ngồi sẽ không được đề cập trong luận văn này; thực
tiễn xét xử, khó khăn, vướng mắc của hệ thống Tịa án; thực tiễn hoạt động và
những khó khăn của hệ thống ngân hàng trong việc thực hiện hợp đồng đồng tín
dụng có thế chấp tài sản cũng chỉ được nghiên cứu ở mức độ hạn hẹp.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác - Lênin, đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đặc biệt là đường lối, chính sách về
phát triển hệ thống ngân hàng và hoạt động ngân hàng trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
Tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp so sánh, phân tích, hệ thống
hóa và tổng hợp để giải quyết từng vấn đề trong nội dung luận văn.

Lĩnh vực “thế chấp tài sản” là một lĩnh vực rất rộng và phức tạp, có liên
5


quan đến nhiều chính sách pháp luật và các luật, các bộ luật qua nhiều giai
đoạn thời gian, cả ở Việt Nam và trên thế giới. Vì vậy, để bảo đảm tính cụ
thể, tính rõ ràng, tính thời sự và tính ứng dụng của đề tài trong phạm vi luận
văn này, tác giả tập trung nghiên cứu để lảm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản
về thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng và hệ
thống các văn bản pháp luật đang có hiệu lực điều chỉnh các vấn đề liên quan
đến thế chấp tài sản bảo đảm hợp đồng tín dụng ngân hàng tại thời điểm
nghiên cứu. Do điều kiện nghiên cứu, giới hạn và quy mô của một Luận văn
thạc sĩ nên một số vấn đề lý luận, một số chính sách và văn bản pháp luật đã
hết hiệu lực, các quy định liên quan đến đề tài ở các quốc gia khác, tác giả chỉ
nghiên cứu và có đề cập ở một mức độ nhất định mà không đi sâu làm rõ.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn có một số đóng góp mới sau đây:
- Làm rõ phần nào một số vấn đề lý luận cơ bản về thế chấp tài sản
để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng về khái niệm, đặc
điểm của hợp đồng tín dụng cũng như của thế chấp tài sản, sự cần thiết
phải áp dụng biện pháp thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng
tín dụng ngân hàng.
- Đánh giá khoa học về thực tiễn pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực thế
chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng, phân tích sự
bất hợp lý, chồng chéo của các văn bản pháp luật; trình bày nguyên nhân của
thực trạng đó liên quan đến việc nhìn nhận quan hệ thế chấp tài sản như là
quan hệ vật quyền bảo đảm, những vấn đề về đăng ký giao dịch bảo đảm, xử
lý tài sản bảo đảm.
- Đưa ra những định hướng cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật và các
giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân

hàng bằng thế chấp tài sản, trong đó có các quy định liên quan đến việc đăng
ký giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm.

6


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 9 mục.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín
dụng ngân hàng bằng thế chấp tài sản
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín
dụng ngân hàng bằng thế chấp tài sản ở Việt Nam
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín
dụng ngân hàng bằng thế chấp tài sản ở Việt Nam.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG BẰNG THẾ CHẤP TÀI SẢN
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng là một hoạt động quan trọng và đặc trưng của ngân
hàng thương mại và các TCTD khác. Hoạt động này có đóng góp lớn cho nền
kinh tế khi giúp đỡ trong việc luân chuyển được nguồn vốn trong xã hội. Hoạt
động tín dụng nếu vận hành tốt sẽ đem lại lợi ích khơng chỉ cho hệ thống ngân
hàng nói riêng mà cả nền kinh tế nói chung.
Tín dụng, tiếng Anh là Credit, xuất phát từ gốc chữ La tinh Creditum

có nghĩa là tin. Hoạt động tín dụng địi hỏi lịng tin khơng chỉ từ người cho
vay, mà còn từ cả người vay khi người đó phải tin tưởng vào khả năng thanh
tốn được nợ của chính mình. Bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn
giữa người cho vay và người đi vay. Họ là những người khác nhau trong nền
kinh tế, gặp nhau ở điểm cân bằng giữa nhu cầu vay vốn và khả năng đáp ứng
nhu cầu này theo sự tổ chức của pháp luật và những nguyên tắc tín dụng
tương ứng. Bản chất kinh tế của tín dụng là quan hệ phân phối lại của cải theo
nguyên tắc hoàn trả, kèm theo là lợi tức, tính có hồn trả này phân biệt tín
dụng với các phương thức phân phối của cải khác.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín
dụng khác với các doanh nghiệp và các cá nhân. Ngân hàng và các tổ chức tín
dụng ở đây có thể đóng vai trò là người đi vay, khi nhận tiền nhàn rỗi từ các
nguồn trong xã hội, phát hành chứng chỉ tiền gửi hay trái phiếu để huy động
vốn. Ngược lại, ngân hàng và các tổ chức tín dụng lại cũng là người cho vay,
khi cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân. Từ đó thấy được tính chun

8


nghiệp của tín dụng ngân hàng, khi hoạt động này do các tổ chức kinh doanh
tiền tệ thực hiện một cách liên tục và cũng lấy đó làm ngành nghề chính. Các
tổ chức này là các tổ chức tín dụng, trong đó tổ chức cung ứng tín dụng chủ
yếu là các ngân hàng nên hoạt động tín dụng này được gọi là tín dụng ngân
hàng. Đây là một trong những kênh hình thành vốn lưu động và vốn cố định
quan trọng của các doanh nghiệp và cá nhân trong nền sản xuất hàng hóa.
Vậy bản chất của hợp đồng tín dụng ngân hàng là gì? Hiện tại vẫn cịn
nhiều quan điểm tranh cãi về bản chất của hợp đồng tín dụng ngân hàng.
Quan điểm thứ nhất cho rằng hợp đồng tín dụng ngân hàng là một dạng của
hợp đồng vay tài sản; bên cạnh đó, quan điểm khác lại cho rằng hợp đồng tín
dụng ngân hàng là một dạng độc lập trong pháp luật hợp đồng.

Để làm rõ vấn đề này, cần thiết phải làm sáng tỏ đối tượng của hợp
đồng tín dụng ngân hàng. Theo cá nhân tác giả thì đối tượng của hợp đồng tín
dụng ngân hàng là tài sản. Dù bằng hình thức này hay hình thức khác, chung
quy lại vẫn là ngân hàng cung cấp hay chuyển giao cho khách hàng một tài
sản nhất định (hầu hết các trường hợp là một số tiền) để khách hàng sử dụng.
Trong một số trường hợp, ngân hàng không chuyển giao số tiền này dưới
dạng vật chất là tiền mặt, mà có thể bằng hình thức chuyển khoản, bút tệ...,
Tuy nhiên, trong các trường hợp đó, khách hàng vẫn có thể sử dụng khoản
vay này dưới dạng tiền mặt. Vì vậy, bản chất của đối tượng của hợp đồng tín
dụng ngân hàng vẫn là tài sản.
Xem xét đến quan điểm về hợp đồng vay tài sản được định hình từ Bộ
luật dân sự (BLDS) La Mã thì hợp đồng vay tài sản là quan hệ mà theo đó, một
bên (người cho vay) chuyển giao tài sản cho bên khác (bên vay) một số lượng
tiền hay một số vật cùng loại (đồng loại), khi hết hạn thỏa thuận trong hợp đồng,
bên vay có nghĩa vụ trả lại cho người vay số tiền hay hiện vật đã vay (Theo
quyển 44, mục 7, đoạn 1, Điều 2). Như vậy, có thể thấy rằng, hợp đồng tín dụng

9


ngân hàng hội tụ đủ điều kiện để được xem như là một dạng của hợp đồng vay
tài sản. Điều này được thể hiện ở đối tượng của hợp đồng là tài sản (chủ yếu là
tiền vay có thể bằng hình thức này hay hình thức khác như đã nêu ở trên) và một
nguyên tắc cơ bản của hợp đồng này, đó là bên vay phải hồn trả lại tài sản hoặc
tiền vay cho bên cho vay (ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng).
Như vậy, có thể thấy, về bản chất pháp lý, hợp đồng tín dụng ngân
hàng là một dạng của hợp đồng vay tài sản. Việc nhìn nhận bản chất pháp lý
này sẽ dẫn đến việc suy ra hệ quả là khi ngân hàng chuyển giao tiền hoặc tài
sản vay cho bên vay là chuyển giao quyền sở hữu tiền vay hoặc tài sản vay
đó. Điều này được ghi nhận trong BLDS ở nhiều nước, cụ thể ở Việt Nam là

Điều 463 BLDS 2015: “Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên,
theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải
hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và
chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Ngồi ra, hợp đồng tín dụng ngân hàng là một hợp đồng có vai trị quan
trọng trong nền kinh tế, mang tính chất thương mại, trong đó các bên tham gia
hợp đồng đều mong muốn được nhận lại một lợi ích về mặt kinh tế. Từ đó,
muốn làm rõ được hợp đồng tín dụng ngân hàng cũng cần phải xem xét và
làm rõ dưới góc độ bản chất về khía cạnh kinh tế. Điều này được thể hiện ở
chỗ, khoản tiền vay (hay tài sản) được chuyển giao và thanh toán giữa các bên
là để nhằm làm mục đích thỏa mãn lợi ích về mặt vật chất của các bên tham
gia quan hệ. Mang trong mình cốt lõi là một dạng của hợp đồng vay tài sản,
hợp đồng tín dụng ngân hàng làm phát sinh quan hệ phân phối vốn giữa ngân
hàng với các tổ chức, cá nhân vay vốn. Vì vậy, quá trình giao kết, thực hiện
những hợp đồng này không chỉ liên quan đến lợi ích của các bên tham gia hợp
đồng, mà cịn liên quan đến lợi ích của người gửi tiền, lợi ích chung của cả
nền kinh tế, lợi ích của xã hội, lợi ích của Nhà nước.

10


1.1.2. Đặc trưng của hợp đồng tín dụng ngân hàng
Chung quy lại, có thể hiểu hợp đồng tín dụng ngân hàng là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó, ngân hàng chuyển giao vốn cho bên vay theo các
phương thức được pháp luật quy định, đi kèm với đó là điều kiện có hồn trả
gốc và lãi vay khi đến thời hạn nhất định. Vì vậy, đặt bên cạnh các loại hợp
đồng khác, hợp đồng tín dụng ngân hàng có các dấu hiệu đặc trưng riêng:
Thứ nhất, khác với hợp đồng thông thường chủ thể là các tổ chức, cá
nhân có năng lực pháp luật và năng lực hành vi, trong hợp đồng tín dụng ngân
hàng, ln ln có một bên tham gia (chủ thể) là tổ chức tín dụng được thành

lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, đóng vai trị là bên cho vay, cịn
bên vay là các tổ chức, cá nhân thoả mãn các điều kiện vay vốn. Ngoài ra,
một số tổ chức khác cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng tín dụng ngân
hàng với tư cách là bên cho vay nếu được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp
phép hoạt động ngân hàng. Khi tham gia quan hệ hợp đồng này, ngân hàng
thực hiện hành vi cho vay mang tính chuyên nghiệp, điều kiện của các chủ thể
được quy định chặt chẽ nhằm bảo đảm sự an toàn về tài sản cho các chủ thể
trong quan hệ hợp đồng cũng như lợi ích cho tồn xã hội. Dấu hiệu này cho
phép phân biệt hợp đồng tín dụng ngân hàng với hợp đồng vay tài sản trong
các giao dịch dân sự thông thường khác.
Thứ hai, đối tượng của hợp đồng tín dụng ngân hàng thường là một
khoản tiền. Khoản tiền vay mà ngân hàng chuyển cho khách hàng có thể dưới
hình thức bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản. Khoản tiền vay này phải được
xác định trong hợp đồng tín dụng ngân hàng (về số lượng), nếu khơng thì hợp
đồng này sẽ trở nên vơ hiệu vì khơng có đối tượng.
Thứ ba, quan hệ hợp đồng tín dụng ngân hàng là một loại quan hệ có
quy định về thời gian nhất định (thường là khoảng thời gian từ một tháng trở
lên, thậm chí vài năm). Chính tính chất này của quan hệ hợp đồng tín dụng

11


ngân hàng tạo ra một nguy cơ rủi ro lớn trong việc thu hồi vốn đã cho vay của
các ngân hàng đối với các hợp đồng có thời gian dài. Tính rủi ro của hợp đồng
tín dụng cịn được thể hiện ở chỗ rủi ro có tính dây chuyền. Việc khơng thu
hồi được vốn vay của tổ chức tín dụng không chỉ ảnh hưởng đến kết quả kinh
doanh của tổ chức tín dụng mà cịn ảnh hưởng đến lợi ích của những người
gửi tiền. Khác với các hợp đồng cho vay thông thường, bên cho vay dùng tiền
thuộc sở hữu của mình để cho vay thì trong hợp đồng tín dụng các tổ chức tín
dụng chủ yếu dùng tiền từ nguồn vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân trong

xã hội. Do đó, nếu khoản cho vay khơng thu hồi được vốn, tổ chức tín dụng
sẽ có nguy cơ mất khả năng chi trả cho người gửi tiền, đe doạ đến sự sống cịn
của các tổ chức tín dụng và có tác động dây chuyền đến tồn bộ nền kinh tế.
Thứ tư, hợp đồng tín dụng ngân hàng ln nhằm mục đích thu lợi
nhuận (hợp đồng có lãi suất). Trong giao kết và thực hiện hợp đồng tín
dụng, tổ chức tín dụng thu lợi nhuận khơng chỉ nhằm mục đích bù đắp
những chi phí kinh doanh mà cịn nhằm bù đắp những rủi ro có thể xảy ra
cho tổ chức tín dụng và người gửi tiền. Trong khi đó, khơng phải tất cả hợp
đồng vay tài sản đều địi hỏi phải có lợi nhuận (khi nội dung hợp đồng do sự
tự thỏa thuận của các bên).
Thứ năm, thời hạn của hợp đồng tín dụng ln được xác định trước và
ghi trong hợp đồng tín dụng. Tuỳ theo mục đích sử dụng vốn vay mà thời hạn
hợp đồng có thể ngắn hạn (dưới một năm), trung hạn (từ một đến năm năm)
hoặc dài hạn (trên năm năm). Đây chính là khoảng thời gian mà bên vay có
thể sử dụng nguồn vốn vay từ tổ chức tín dụng. Hết khoảng thời gian này, bên
đi vay phải trả khoản tiền cả gốc và lãi cho tổ chức tín dụng. Có thể nói rằng
mục đích của quy định này nhằm xác định rõ ràng trách nhiệm của người đi
vay và bảo tồn vốn cho tổ chức tín dụng.

12


Thứ sáu, hợp đồng tín dụng ngân hàng ln tồn tại dưới dạng văn bản.
Xuất phát từ tính rủi ro cao và tầm quan trọng của hợp đồng tín dụng, Luật
Ngân hàng của hầu hết các nước trên thế giới đều quy định như trên. Ở Việt
Nam, quy định này được ghi nhận trong Khoản 1 Điều 23 Thông tư
39/2016/TT – NHNN ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ngân hàng Nhà nước
quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngồi đối với khách hàng. Đây là một quy định bắt buộc nhằm bảo
đảm tính chặt chẽ, rõ ràng trong thoả thuận của các bên về quyền và nghĩa

vụ, hạn chế rủi ro có thể xảy ra và là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết
tranh chấp, nếu có.
Thứ bảy, hợp đồng tín dụng ngân hàng của các tổ chức tín dụng bao giờ
cũng phải thực hiện trước để tạo cơ sở pháp lý cho bên vay thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình. Sau đó, các TCTD và Bên vay đều phải lập thêm
các Khế ước nhận nợ, từ đó các TCTD mới giải ngân và Bên vay mới nhận
được số tiền vay theo hợp đồng. Điều này khác với những loại hợp đồng khác
khi quyền và nghĩa vụ của các bên thường xuất hiện đồng thời, đối với hợp
đồng tín dụng ngân hàng, tổ chức tín dụng chỉ có quyền yêu cầu bên vay thực
hiện các nghĩa vụ đã cam kết theo hợp đồng khi chứng minh được rằng họ đã
chuyển tiền cho bên vay theo đúng cam kết.
Như vậy, hợp đồng tín dụng ngân hàng là hình thức pháp lý của quan
hệ cho vay giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng vay. Xuất phát từ tính
chất riêng và tầm quan trọng đối với các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp
đồng và nền kinh tế mà hợp đồng tín dụng ngân hàng mang những nét đặc thù
riêng. Vì thế, trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng các bên phải thoả
mãn tất cả các điều kiện đặt ra với hợp đồng tín dụng ngân hàng nhằm bảo
đảm hiệu lực cũng như giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra trong tương lai.

13


1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo đảm tiền vay bằng thế
chấp tài sản
1.2.1. Khái niệm và bản chất của thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện
hợp đồng tín dụng ngân hàng
Thế chấp là một từ có nguồn gốc Hán Việt. Theo từ điển Hán Việt:
“Thế là bỏ đi, thay cho” còn “Chấp là cầm, giữ, bắt” [1]. Từ điển Tiếng Việt
giải thích: Thế chấp (tài sản) là dùng vật bảo đảm thay thế cho số tiền vay nếu
khơng có khả năng trả đúng hạn [47]. Như vậy, chúng ta có thể hiểu thế chấp

là một biện pháp do các bên thỏa thuận lựa chọn để dung một tải sản để bảo
đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của một bên. Thế chấp tài sản là một biện
pháp bảo đảm phổ biến trong các giao dịch dân sự nói chung, đặc biệt là trong
các quan hệ tín dụng là vì trong quan hệ thế chấp tài sản, bên thế chấp không
phải chuyển giao tài sản và vẫn được khai thác tài sản, đồng thời vẫn bảo vệ
được quyền lợi của bên nhận thế chấp vì bên nhận thế chấp đã nắm giữ toàn
bộ hồ sơ pháp lý của tài sản do bên thế chấp chuyển giao. Hồ sơ pháp lý này
có thể là giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản hoặc giấy tờ là điều kiện để
chuyển nhượng tài sản. Việc bên nhận thế chấp nắm giữ những giấy tờ này
đồng nghĩa với việc bên thế chấp không thể định đoạt được tài sản theo ý chí
của mình mà khơng được sự đồng ý của bên kia.
Biện pháp thế chấp tài sản với vai trò là một biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự xuất hiện từ thời La Mã cổ đại và đã được quy định
trong Luật La Mã với nền tảng pháp lý là lý thuyết về vật quyền bảo đảm.
Những quy định của Luật La Mã về thế chấp tài sản đã ảnh hưởng và chi phối
đến sự ra đời, thay đổi của các quy định pháp luật về thế chấp ở các nước theo
hệ thống luật Civil Law như Pháp, Nhật Bản. Tính chất vật quyền thể hiện ở
chỗ nó cho phép bên nhận thế chấp có quyền tác động trực tiếp đến tài sản thế
chấp mà khơng phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ chủ thể nào khi chứng minh
được bên thế chấp có (hoặc sẽ có) quyền sở hữu tài sản thế chấp hoặc được ủy

14


quyền định đoạt tài sản thế chấp, có giao kết hợp đồng thế chấp và bên có
nghĩa vụ có sự vi phạm nghĩa vụ. Cụ thể, bên nhận thế chấp có quyền truy địi
tài sản thế chấp từ sự chiếm giữ của bất kỳ ai (trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác) để xử lý tài sản và có quyền ưu tiên thanh toán trước từ số tiền thu
được khi xử lý tài sản thế chấp. Những quy định được xây dựng trên cơ sở lý
thuyết về vật quyền bảo đảm tạo nên ưu thế cho người nhận thế chấp trong

việc xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm cho quyền lợi của mình với sự trợ giúp
của một hệ thống pháp luật hoàn thiện, hệ thống đăng ký tài sản bảo đảm phát
triển và sự minh bạch cao (để hỗ trợ cho bên nhận thế chấp trong việc đăng ký
giao dịch thế chấp và cơng khai hóa quyền của bên thế chấp với tài sản thế
chấp đối với người thứ ba).
Bản chất của "thế chấp tài sản" là việc một chủ sở hữu tự hạn chế
quyền tuyệt đối của mình đối với tài sản và cung cấp cho người khác một
quyền nhất định đối với tài sản đó, với mục đích nhằm bảo đảm cho việc thực
hiện một nghĩa vụ, trong lúc đó vẫn giữ được quyền khai thác, sử dụng và thu
được những hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp. Điều này được cụ thể hóa
bằng cách bên nhận thế chấp sẽ nắm giữ những chứng thư chứng minh quyền
sở hữu đối với tài sản thế chấp mà không trực tiếp chiếm hữu chúng. Ở đây có
một nét gì đó khá tương đồng với "cầm cố tài sản" trong một số trường hợp cụ
thể vì khi cầm cố tài sản, bên nhận cầm cố có thể giữ hoặc khơng giữ tài sản
cầm cố. Trong trường hợp khơng giữ tài sản cầm cố, thì bên nhận cầm cố sẽ
thực hiện việc chiếm hữu tài sản cầm cố của mình thơng qua việc chiếm hữu
những chứng thư, giấy tờ xác định quyền sở hữu tài sản. Tuy vậy, có thể nhận
thấy rằng, nếu đem thế chấp tài sản, thì bên thế chấp vẫn có quyền khai thác,
sử dụng và thu hoa lợi, lợi tức từ tài sản; cịn nếu đem cầm cố thì khơng, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận. Điều này chính là một trong các sự khác
biệt giữa thế chấp tài sản và cầm cố tài sản.

15


Hậu quả pháp lý của thế chấp tài sản đó chính là bên nhận thế chấp sẽ
có được thêm một “vật quyền” (quyền đối với tài sản thế chấp) nhằm đảm bảo
cho một trái quyền (quyền đối nhân-người có quyền yêu cầu người có nghĩa
vụ thực hiện nghĩa vụ cho mình). Tính chất phụ thuộc được thể hiện ở chỗ,
nếu người có nghĩa vụ (thụ trái) thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cho người có

quyền (trái chủ) thì vật quyền sẽ không phát sinh, ngược lại, khi thụ trái
không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ với trái chủ, thì trái chủ sẽ có quyền
đối với vật thế chấp để thu hồi nợ cho mình. Trên cơ sở này, bên nhận thế
chấp sẽ có quyền chi phối lên tài sản thế chấp và sẽ có được quyền được ưu
tiên thanh toán nợ trước so với các chủ nợ khác từ tài sản thế chấp.
Khi một người có thể đem tài sản của mình đi thế chấp để bảo đảm
thực hiện cho nhiều nghĩa vụ thì quyền lợi giữa các chủ nợ sẽ bị ảnh hưởng.
Điều này đặt ra một nhu cầu về việc cơng khai hóa các giao dịch về thế chấp
tài sản. Trong trường hợp cụ thể về thế chấp tài sản, biện pháp cơng khai hóa
thường được áp dụng nhất là các bên đem giao dịch bảo đảm này đi đăng ký,
và qua đó sẽ có thể công bố công khai các giao dịch bảo đảm này. Khi việc
thế chấp tài sản như vậy đã được đăng ký một cách đầy đủ và hợp lệ, thì
những giao dịch, cam kết bảo đảm sẽ có hiệu lực pháp luật. Hiệu lực này sẽ
được duy trì cho đến khi việc thế chấp tài sản được xóa đăng ký các giao dịch
bảo đảm (được coi như là các giao dịch bảo đảm thế chấp tài sản đã được giải
chấp), không phụ thuộc vào việc nghĩa vụ đã được thực hiện hay chưa. Nói
một cách khác, tài sản thế chấp vẫn bị chi phối bởi các quyền của bên nhận
thế chấp, mà khơng phụ thuộc vào tình trạng pháp lý về quyền sở hữu đối với
tài sản đó, dù tài sản đó vẫn cịn đang thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp
hay đã chuyển nhượng cho chủ thể khác. Vì lẽ đó, ở một số nước, ví dụ như ở
Pháp, tài sản thế chấp vẫn được cho phép chuyển nhượng và khơng nhất thiết
phải có quy định hạn chế những giao dịch có liên quan.

16


Về nguyên tắc, khi thế chấp tài sản thì quyền sở hữu của bên thế chấp tài
sản đối với tài sản thế chấp sẽ bị chi phối và hạn chế trong chừng mực nhất
định bởi bên nhận thế chấp nhằm đảm bảo cho việc thu hồi nợ và khả năng
thực hiện nghĩa vụ, nhưng vẫn duy trì khả năng khai thác và sử dụng tài sản

đang thế chấp cũng như giao dịch tài sản trên thị trường. Mức độ chi phối và
hạn chế đến đâu đối với quyền sở hữu của bên thế chấp tài sản đối với tài sản
thế chấp sẽ do các bên thỏa thuận và quyết định. Như vậy, có thể thấy, biện
pháp bảo đảm bằng thế chấp tài sản với tính chất là một vật quyền đối với tài
sản có thể vừa bảo đảm cho Bên nhận thế chấp quyền được ưu tiên thanh toán
nợ, thu hồi vốn vay trước so với các chủ nợ khác từ tài sản thế chấp, nhưng vẫn
duy trì cho Bên thế chấp khả năng khai thác và sử dụng tài sản đang thế chấp.
Như vậy, thế chấp tài sản là một biện pháp bảo đảm được xác lập trên
một tài sản xác định. Cách nhìn nhận, diễn giải về bản chất thế chấp tài sản
như trong Luật La Mã (được kế thừa, phát triển và thể hiện trong BLDS Pháp,
BLDS Nhật Bản) đã thể hiện được sự hợp lý và cũng đang là xu thế phát triển
của các hệ thống pháp luật khác trên thế giới. Về bản chất, ta cần xác định thế
chấp tài sản là một biện pháp bảo đảm có tính chất vật quyền nhằm bảo đảm
cho quan hệ trái quyền (quyền của bên có quyền – bên nhận thế chấp đối với
bên có nghĩa vụ) với căn cứ là sự thỏa thuận của các bên tham gia giao dịch.
BLDS năm 2015 sắp xếp các quy định về thế chấp tài sản trong Phần
“Nghĩa vụ và Hợp đồng” cho thấy các nhà làm luật đã vấn đề thế chấp tài sản
dưới giác độ là một giao dịch dưới dạng hợp đồng dựa trên cơ sở nền tảng của
lý thuyết trái quyền. Tuy nhiên, một số quy định của BLDS năm 2015 cũng
đã mang “dáng dấp” của vật quyền bảo đảm, ví dụ như Điều 297 về “Hiệu lực
đối kháng với người thứ ba”, Điều 298 về “Đăng ký biện pháp bảo đảm”,
Điều 308 về “Thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận tài sản bảo

17


đảm”, dù cịn chưa tồn diện và triệt để. Có thể thấy, việc quy định thế chấp
với bản chất mang hơi hướng là một quan hệ trái quyền như BLDS hiện hành
có ưu điểm là dễ hiểu, dễ áp dụng trong đời sống, nhưng điểm hạn chế nhất là
hiệu quả thực thi các quy định về bảo vệ quyền lợi của bên nhận thế chấp còn

thấp và thiếu triệt để. Theo quy định tại Điều 301 BLDS năm 2015, bên nhận
bảo đảm có quyền yêu cầu bên đang giữ tài sản bảo đảm bàn giao tài sản bảo
đảm để xử lý, nếu người này không bàn giao theo đúng nghĩa vụ thì bên nhận
bảo đảm chỉ có quyền u cầu Tịa án giải quyết, mà khơng được áp dụng bất
kỳ hình thức thu hồi nào khác lên tài sản bảo đảm, trừ trường hợp luật liên
quan có quy định khác.
Thế chấp tài sản trong đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng
chính là thế chấp tài sản khi bên nhận thế chấp là các ngân hàng. Đó là một
trong các biện pháp nhằm bảo đảm tiền vay bằng tài sản rất hữu hiệu và được
các TCTD thường xuyên áp dụng trong hoạt động kinh doanh của mình.
Tóm lại, từ việc phân tích các quan điểm khoa học và quy định của
pháp luật, ta có thể nêu định nghĩa thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp
đồng tín dụng ngân hàng như sau:
Thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng là
việc một bên thế chấp tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng, tổ chức tín dụng và khơng giao tài sản cho
các tổ chức tín dụng.
Người thế chấp tài sản có thể là người vay tiền hoặc khơng phải là
người vay tiền, và mục đích của việc thế chấp này đều là nhằm đảm bảo cho
khoản vay đối với một TCTD, và tuân theo các quy định của pháp luật về thế
chấp tài sản, với tư cách là một "vật quyền" của các TCTD. Việc xác lập quan
hệ thế chấp tài sản phải dựa trên sự thỏa thuận của các chủ thể gồm Bên thế

18


chấp tài sản, Bên nhận thế chấp tài sản – các TCTD, từ đó xác lập các quyền,
nghĩa vụ của các bên đối với tài sản thế chấp nhằm mục đích đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ trả tiền vay (cả gốc và lãi) của bên vay cho bên cho vay
(TCTD). Vì vậy, bản chất của quan hệ thế chấp tài sản là quan hệ hợp đồng và

phụ thuộc vào sự tự do ý chí của các bên. Các thỏa thuận về thế chấp tài sản
phải bảo đảm xác định được nghĩa vụ được bảo đảm, tài sản bảo đảm, quyền và
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thế chấp tài sản, các biện pháp xử lý tài sản
bảo đảm..., cũng như bị chi phối bởi các quy định của pháp luật về hợp đồng
nói chung như điều kiện về chủ thể, nội dung và hình thức hợp đồng, v.v.
Thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng có
thể là một điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng ngân hàng. Hợp đồng
thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng thực chất là
một hợp đồng về giao dịch bảo đảm gắn với hợp đồng tín dụng nhằm bảo đảm
việc thực hiện hợp đồng tín dụng mà việc thiết lập do các bên thỏa thuận hoặc
pháp luật quy định. Hợp đồng thế chấp tài sản có sự độc lập với hợp đồng tín
dụng. Mối quan hệ giữa hai hợp đồng này có thể được các bên thỏa thuận và
có hiệu lực nếu các thỏa thuận này khơng bị vơ hiệu theo quy định của pháp
luật, ví dụ như các bên có thể quy định giao dịch thế chấp tài sản là một điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng ngân hàng, hoặc có thể gộp hai hợp
đồng trên và chỉ giao kết một hợp đồng, trong đó có chứa cả nội dung về quan
hệ tín dụng và quan hệ về thế chấp tài sản.
Từ những phân tích nêu trên, có thể kết luận:
Bản chất của quan hệ thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng
tín dụng ngân hàng là quan hệ hợp đồng, theo đó một bên thế chấp tài sản
thuộc sở hữu của mình để bảo đảm việc thực hiện một nghĩa vụ trả nợ cho tổ
chức tín dụng và khơng giao tài sản cho bên kia.

19


×