Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Bảo vệ người làm chứng, người bị hại trong luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1015.46 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỒN NGỌC SƠN

B¶O VƯ NGƯờI LàM CHứNG, NGƯờI Bị HạI
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)

LUN VN THC S LUT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỒN NGỌC SƠN

B¶O VƯ NGƯờI LàM CHứNG, NGƯờI Bị HạI
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH. LÊ VĂN CẢM

HÀ NỘI - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên
cứu của riêng tơi. Các kết quả trong Luận văn chưa được
cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, khách
quan, trung thực.
Người cam đoan

Đồn Ngọc Sơn


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƢỜI
LÀM CHỨNG, NGƢỜI BỊ HẠI TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM ....................................................................... 7
1.1.
Khái niệm, đặc điểm bảo vệ ngƣời làm chứng, ngƣời bị hại
trong tố tụng hình sự .......................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm bảo vệ người làm chứng, người bị hại trong tố tụng
hình sự .................................................................................................. 7
1.1.2. Các đặc điểm của bảo vệ người làm chứng, người bị hại trong tố
tụng hình sự ........................................................................................ 12

1.2.
Ý nghĩa của việc bảo vệ ngƣời làm chứng, ngƣời bị hại trong
tố tụng hình sự .................................................................................. 14
1.3.
Cơ sở của việc quy định chế định bảo vệ ngƣời làm chứng
trong TTHS Việt Nam...................................................................... 16
1.3.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................... 16
1.3.2. Cơ sở pháp lý...................................................................................... 17
1.3.3. Cơ sở thực tiễn ................................................................................... 22
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 25
Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƢỜI
LÀM CHỨNG, NGƢỜI BỊ HẠI TRONG PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
(GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2012-2017) ............................................... 26
2.1.
Các quy định về bảo vệ ngƣời làm chứng, ngƣời bị hại trong
tố tụng hình sự hiện hành ................................................................ 26


2.1.1. Quy định của BLTTHS năm 2003 về bảo vệ người làm chứng,
người bị hại......................................................................................... 26
2.1.2. Quy định của BLTTHS năm 2015 về bảo vệ người làm chứng,
người bị hại......................................................................................... 28
Thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2003 về
bảo vệ ngƣời làm chứng, ngƣời bị hại trên địa thành phố Hải
Phòng từ năm 2012 đến năm 2017 .................................................. 39
2.2.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo vệ người làm chứng,
người bị hại tại thành phố Hải Phòng từ năm 2012 đến năm 2017 ... 39
2.2.2. Những hạn chế trong việc áp dụng các quy định của BLTTHS về

bảo vệ người làm chứng, người bị bị hại ........................................... 45
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc bảo vệ người tố
giác, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác
trong TTHSVN................................................................................... 48
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 57
2.2.

Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO VỆ NGƢỜI LÀM CHỨNG,
NGƢỜI BỊ HẠI ................................................................................ 59
3.1.

Định hƣớng nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về bảo vệ ngƣời làm chứng,
ngƣời bị hại ....................................................................................... 59

Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của BLTTHS năm
2015 về bảo vệ ngƣời làm chứng, ngƣời bị hại .............................. 63
3.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện BLTTHS năm 2015.............................. 63
3.2.2. Giải pháp khác .................................................................................... 75
3.2.

KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS:


Bộ luật tố tụng hình sự

CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
ĐTV:

Điều tra viên

TTHS:

Tố tụng hình sự.


DANH MỤC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1

Số liệu các vụ phạm pháp hình sự thụ lý của Cơng an
thành phố Hải Phòng từ năm 2012 đến năm 2017

40

Số liệu các vụ án được đưa ra xét xử tại TP Hải Phòng
từ năm 2012 đến năm 2017


41

Bảng 2.2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người làm chứng, người bị hại trong các vụ án hình sự là những người
đưa ra lời khai hoặc cung cấp các thông tin, kết luận khoa học về những vấn
đề liên quan đến việc giải quyết vụ án, góp phần làm sáng tỏ sự thật và giải
quyết đúng đắn vụ án. Vì vậy họ có nguy cơ bị người phạm tội hoặc thân
nhân của người phạm tội, đồng phạm chưa bị phát hiện của người phạm tội đe
dọa, gây thiệt hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp nhằm gây cản trở cho
việc điều tra hoặc trả thù. Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người
làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác trọng các vụ
án hình sự nói chung, nhằm thu thập được đầy đủ chứng cứ chứng minh từ
những người này, các cơ quan tiến hành tố tụng cần thiết phải áp dụng các
biện pháp bảo vệ, tạo điều kiện cho họ tham gia cung cấp các thông tin đầy đủ
chính xác, khơng bị ràng buộc bởi bất cứ sự đe dọa, mua chuộc, khống chế
nào. Việc áp dụng đầy đủ các biện pháp bảo vệ người làm chứng, người bị hại
có hiệu quả trước những nguy cơ bị trả thù hoặc đe dọa có thể xảy ra đối với
họ không những thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân mà cịn góp phần tạo lập và củng cố
niềm tin của quần chúng nhân dân vào Nhà nước, trước hết là vào các cơ quan
bảo vệ pháp luật từ đó khuyến khích quần chúng nhân dân tham gia ngày
càng tích cực hơn vào cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Bộ luật TTHS năm 2003 khẳng định mọi cơng dân đều có quyền được
pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản; Người
bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân

thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự,
nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng
những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật. Đây là quy

1


định mang tính nguyên tắc, việc triển khai và thực hiện nguyên tắc này thiếu
những quy định cụ thể, Bộ luật TTHS năm 2003 chưa quy định về các biện
pháp bảo vệ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, lực lượng tiến hành bảo vệ… Vì
vậy, những quy đinh
̣ của pháp lu ật TTHS năm 2003 về b ảo vệ người làm
chứng, người bị hại chưa thực sự đi vào đời số ng. Thực tiễn trên cho thấ y viê ̣c
áp dụng các quy đ ịnh của Bộ luật TTHS năm 2003 về b ảo vệ người làm
chứng, người bị hại đã bô ̣c lô ̣ nhiề u vướng mắ c, bấ t câ ̣p.
Bộ luật TTHS năm 2015 đã được Quố c hô ̣i thông qua ngày 27/11/2015
với những ghi nhâ ̣n mới mang tính hồn thi

ện, khắc phục những hạn chế

vướng mắc trong quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 về bảo vệ người làm
chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác. Trong bối cảnh Bộ
luật TTHS năm 2015 mới được ban hành và có hiệu lực áp dụng trên thực tiễn
từ ngày 01/01/2018. Vì vậy việc nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận, phân tích đánh giá các quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về bảo vệ
người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác, đồng
thời chỉ ra những hạn chế trong quy định của Bộ luật TTHS năm 2015, trên
cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của Bộ luật TTHS
về bảo vệ người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng
khác, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân là một nhu cầu

mang tính cấp thiết.
Vì những lý do trên , tác giả chọn đề tà i “Bảo vệ người làm chứng,
người bị hại trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn số liệu
thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)” để làm lu ận văn tố t nghiê ̣p thạc
sỹ luật của min
̀ h.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bảo vệ người làm chứng, người bị hại và người tham gia tố tụng
khác là một trong những nội dung quan trọng, được quy định thành một

2


chương riêng biệt (chương XXXIV) trong Bộ luật TTHS năm 2015. Liên
quan đến chế định này đã nhận được sự quan tâm của công luận và được
nhiều học giả tiếp cận nghiên cứu ở các góc độ khác nhau với những định
hướng khác nhau. Có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến
việc bảo vệ người làm chứng, người bị hại như:
Nguyễn Văn Cừ (2006), “Bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm
chứng, người bị hại”- Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (số 70).
Trần Đình Nhã (2010), “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về bảo vệ người tố
giác, người làm chứng, bị hại trong vụ án hình sự”- Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp (số 12).
Phạm Mạnh Hùng (2012), “Vấn đề bảo vệ nhân chứng, người tố giác
và những người tham gia tố tung khác trong các vụ án tham nhũng” - Tạp chí
Kiểm sát (số 7).
Nguyễn Hải Ninh (2011), “Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự nhằm bảo vệ người làm chứng khi tham gia tố tụng” - Tạp chí Luật
học (số 12).
Ngô Thị Mỹ Linh (2011), “Bảo đảm quyền của người làm chứng trong

tố tụng hình sự Việt Nam” - Luận văn thạc sĩ luật học (Trường Đại học Luật
TP. Hồ Chí Minh).
Nguyễn Quang Hiền (2011), “Bảo vệ quyền con người của bị hại trong
tố tụng hình sự” – Tạp chí Tòa án nhân dân (số 13).
Võ Thị Kim Oanh, Đinh Văn Đoàn (2015), “Hoàn thiện quy định của
bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm
chứng, người bị hại” – Tạp chí Khoa học Pháp lý, Trường Đại học Luật Tp.
Hồ Chí Minh (số 08).
Nhìn chung, các cơng trình này đã đưa ra một số vấn đề lý luận cũng
như các giải pháp pháp lý, các giải pháp thực tế và ở mức độ nhất định, giá trị

3


khoa học mà các đề tài mang lại là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, một số đề
tài đã thực hiện trong thời gian đã lâu và chưa đặt trong bối cảnh sửa đổi Bộ
luật TTHS năm 2003. Một số tác giả cũng chỉ nghiên cứu, nhìn nhận một
cách riêng biệt mà chưa đặt trong tổng thể chung, chuyên sâu, toàn diện về
trường hợp bảo vệ người làm chứng, người bị hại và người tham gia tố tụng
khác. Riêng đề tài “Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại” của
02 tác giả: Võ Thị Kim Oanh và Đinh Văn Đoàn đã đặt trong giai đoạn sửa
đổi BLTTHS với những kiến nghị hoàn thiện BLTTHS năm 2003 và những
kiến nghị mới trong Dự thảo BLTTHS sửa đổi. Chính vì những kiến nghị của
những bài nghiên cứu trên, BLTTHS năm 2015 đã được ban hành và chế định
bảo vệ người tố giác, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác
được quy định riêng biệt, tuy nhiên với những sửa đổi, bổ sung lần này liên
quan đến vấn đề trên còn tồn tại một số hạn chế nhất định.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, lần đầu tiên nội dung, mục tiêu và
định hướng này sẽ được tác giả tiếp cận nghiên cứu một cách tương đối

toàn diện và đầy đủ qua đề tài: “Bảo vệ người làm chứng, người bị hại
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa
bàn thành phố Hải Phòng)”.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là từ nghiên cứu các vấn đề lý luận
và thực tiễn bảo vệ người bị hại, người làm chứng, đưa ra các kiến nghị hoàn
thiện pháp luật và các cơ chế thực hiện hiệu quả việc bảo vê người bị hại,
người làm chứng trong tố tụng hình sự Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn hướng đến giải
quyết các nhiệm vụ cơ bản sau:

4


1) Phân tích, làm sáng tỏ nội dung lý luận của vấn đề bảo vệ người làm
chứng, người bị hại trong tố tụng hình sự.
2) Nghiên cứu và đánh giá một cách khái quát về các quy định của luật
thực định cũng như thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự
đối với vấn đề bảo vệ người bị hại, người làm chứng ở Thành phố Hải phòng
trong những năm gần đây, nhằm phác họa một “bức tranh” chân thực về thực
trạng công tác bảo vệ người bị hại, người làm chứng ở Thành phố Hải Phòng
trong giai đoạn hiện nay.
3) Đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm của luật tố
tụng hình sự đối với vấn đề bảo vệ người làm chứng, người bị hại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lý luận và thực tiễn quy định đối
với vấn đề bảo vệ người làm chứng, người bị hại ở TP Hải Phòng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến bảo vệ
người làm chứng, người bị hại. Thời gian khảo sát thực tiễn của luận văn từ
năm 2012 đến năm 2017.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả dựa trên cơ sở phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm
phương pháp luận để nghiên cứu, triển khai đề tài luận văn.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn bao gồm:
Phương pháp phân tích: được sử dụng để làm sáng tỏ lý luận về các
vấn đề có liên quan đến bảo vệ người làm chứng, người bị hại;
Phương pháp tổng hợp: sử dụng để hệ thống hóa các quan điểm khoa
học khác nhau về các các vấn đề có liên quan đến bảo vệ người làm chứng,
người bị hại;

5


Phương pháp thống kê và vụ việc điển hình: sử dụng để làm rõ thực
tiễn áp dụng luật tố tụng hình sự đối với các các vấn đề có liên quan đến bảo
vệ người làm chứng, người bị hại.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về ý nghĩa lý luận: Luận văn được nghiên cứu nhằm góp phần
hồn thiện cơ sở lý luận về các vấn đề có liên quan đến bảo vệ người làm
chứng, người bị hại ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Về ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đánh giá một cách khách quan,
trung thực các quy định về các vấn đề có liên quan đến vệ người làm chứng,
người bị hại, cũng như việc áp dụng các quy định này ở Hải Phòng trong giai
đoạn hiện nay cũng như đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật tố tụng hình sự đối với vấn đề này.
7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp lý về bảo vệ người làm
chứng, người bị hại trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2. Các quy định của pháp luật về bảo vệ người làm chứng,
người bị hại trong tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố
Hải Phòng (giai đoạn 2012-2017).
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của pháp luật Tố tụng hình sự đối với vấn đền bảo vệ người làm chứng,
người bị hại.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƢỜI LÀM CHỨNG,
NGƢỜI BỊ HẠI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm bảo vệ ngƣời làm chứng, ngƣời bị hại
trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm bảo vệ người làm chứng, người bị hại trong tố tụng
hình sự
Người làm chứng, người bị hại là những người tham gia tố tụng.
Những người này trước hết là cơng dân, do đó họ có quyền bất khả xâm
phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi
ích hợp pháp khác. Bảo vệ người làm chứng, người bị hại trong tố tụng hình
sự chính là bảo vệ các quyền con người đã được thừa nhận một cách rộng rãi
và được xem là giá trị chung của tồn nhân loại. Vì vậy, việc nhận thức rõ
khái niệm về những chủ thể tham gia tố tụng này sẽ tạo tiền đề cho chúng ta
làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm về bảo vệ người làm chứng,người bị hại
trong tố tụng hình sự.

1) Về khái niệm người làm chứng
Theo từ điển Luật học, “Người làm chứng” là “người nào biết được
những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm
chứng” [22, tr.343]. Khái niệm này chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa khái
niệm người làm chứng với điều kiện để trở thành một người làm chứng.
Theo Giáo trình Luật TTHS trường Đại học Luật Hà Nội thì người làm
chứng được định nghĩa như sau: “Người làm chứng là người biết được những
tình tiết có liên quan đến vụ án và được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để
khai báo về những sự việc cần xác minh trong vụ án” [30, tr.145]. Đây có thể
coi là một định nghĩa khá hồn chỉnh về người làm chứng vì đã nêu lên những

7


vấn đề cơ bản về điều kiện để một người trở thành người làm chứng cũng như
là nhiệm vụ khai báo của họ khi được triệu tập để tham gia tố tụng. Tuy
nhiên, việc chỉ nêu cơ quan có thẩm quyền triệu tập người làm chứng chỉ là
CQTHTT là chưa đầy đủ, vì ngồi ra cịn có cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, Bộ
đội biên phịng...
Theo Giáo trình Luật TTHS của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh thì người làm chứng được định nghĩa: “Người làm chứng là người
biết được tình tiết có liên quan đến vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng triệu tập tham gia tố tụng” [31, tr.189]. Với quan điểm này thì
người làm chứng là người biết về các thơng tin, tình tiết liên quan đến vụ án,
được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập họ tham gia vào
các hoạt động tố tụng, có thể là tham gia vào các hoạt động điều tra hay tham
gia vào q trình xét xử của Tịa án.
Bộ luật TTHS năm 2003 cũng không đưa ra khái niệm rõ ràng về người
làm chứng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 55, “Người làm chứng” là “Người
nào biết được những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập

đến làm chứng” [14, tr.21]. Quy định này mang tính chất khái qt: biết được
tình tiết liên quan đến vụ án và được triệu tập đến làm chứng.
Bộ luật TTHS năm 2015 quy định về người làm chứng tại khoản 1
Điều 66: “Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến
nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng triệu tập đến làm chứng” [21, tr.36]. Đây là một quy định có sự thay đổi
cơ bản về người làm chứng, đồng thời chúng ta thấy có điểm giống so với
một số quan điểm trên là để một người được thừa nhận là người làm chứng
trong vụ án hình sự thì có các điều kiện sau:
Thứ nhất, họ là người biết được các tình tiết liên quan đến nguồn tin về
tội phạm, về vụ án (có thể biết trực tiếp hoặc biết gián tiếp) và họ biết được

8


các tình tiết này là một thực tế khách quan, vì vậy họ có thể được triệu tập đến
để khai báo. Như vậy, người làm chứng có tư cách tố tụng và tham gia từ khi
cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm.
Thứ hai, được cơ quan có thẩm quyền triệu tập đến để lấy lời khai theo
trình tự, thủ tục, thẩm quyền của pháp luật tố tụng.
Thứ ba, người làm chứng là người có thể khai báo chính xác, khách
quan, trung thực tất cả những thơng tin mà họ biết về vụ án.
Tóm lại, người làm chứng giữ một vai trò quan trọng trong những vụ
án hình sự. Việc nhận thức đúng về người làm chứng sẽ có ý nghĩa to lớn
trong xác định sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo xử lý đúng người, đúng
tội, không để lọt tội phạm, không làm oan, sai người vơ tội. Từ những phân
tích nêu trên, theo tác giả, chúng ta có thể hiểu khái niệm người làm chứng
như sau: “Người làm chứng là người biết được các tình tiết, thơng tin liên
quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án hình sự và được cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng triệu tập để lấy lời khai của họ về những sự việc,

thông tin, tình tiết cần xác minh, làm rõ trong vụ án hình sự”.
2) Về khái niệm người bị hại
Theo cách hiểu thơng thường, người bị hại có thể hiểu là con người cụ
thể trong xã hội, chịu sự tác động tiêu cực của sự việc, hành vi hoặc bất kỳ sự
tác động nào khác gây thiệt hại, mất mát, tổn thương cho chính họ. Thiệt hại
này có thể là thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì người bị hại là “Người bị
thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị
hại có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần
hoặc về tài sản chứ không thể là pháp nhân” [28, tr.198].
Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật TTHS năm 2003: “Người bị
hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”.

9


Trước khi Bộ luật TTHS năm 2003 được sửa đổi, khái niệm người bị
hại không thống nhất với nhau, tồn tại những cách hiểu khác nhau. Cách
hiểu thứ nhất, được sử dụng khá phổ biến và chính thống trong hệ thống
giáo trình, tài liệu giảng dạy cho bậc đại học, sau đại học ở Việt Nam, cho
rằng người bị hại chỉ có thể là cá nhân. Giáo trình của trường Đại học Luật
Hà Nội [29, tr.118] khẳng định: “con người cụ thể bị hành vi phạm tội trực
tiếp xâm hại. Thể chất, tinh thần, tài sản của họ là đối tượng của tội phạm”
hoặc một số sách chuyên khảo, bình luận Bộ luật TTHS cũng khẳng định:
“Người bị hại trong TTHS chỉ có thể là một con người cụ thể, bị hành vi
phạm tội gây thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản” [1, tr.87]. Cách hiểu
thứ hai – đây cũng chính là quan điểm của các tác giả, cho rằng người bị hại
trong TTHS không chỉ bao gồm cá nhân (thể nhân) mà còn bao gồm tổ chức
(pháp nhân). Tiêu biểu cho quan điểm này là PGS.TS. Trần Hữu Tráng cho
rằng: “nạn nhân của tội phạm là những cá nhân, tổ chức phải chịu những hậu

quả thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tinh thần, tình cảm, tài sản hoặc các
quyền và lợi ích khác mà những hậu quả thiệt hại này là do hành vi phạm tội
trực tiếp gây ra” [26, tr.50]. Các quan điểm khác của Lê Tiến Châu, Lê
Nguyên Thanh đều phân tích và khẳng định người bị hại bao gồm cả cơ quan,
tổ chức bị thiệt hại về uy tín, danh dự, tài sản hoặc các quyền và lợi ích khác
do tội phạm gây ra.
Tác giả thống nhất với quan điểm thứ hai, vì nếu khơng cơng nhận
pháp nhân là người bị hại, đã vi phạm đến nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tịa án. Việc phân biệt khơng cơng nhận người bị hại là pháp nhân
đã khiến cho pháp nhân không được sử dụng quyền của người bị hại mà phải
có đơn mới được tham gia với tư cách là nguyên đơn dân sự, gây bất bình
đẳng giữa người tham gia tố tụng là cá nhân và pháp nhân.
Do đó, Bộ luật TTHS năm 2015 quy định tại khoản 1 Điều 62: “Bị hại

10


là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan,
tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”.
Sự sửa đổi này đã thay thuật ngữ “người bị hại” thành “bị hại”, theo đó xác
định ngồi cá nhân thì cơ quan, tổ chức cũng là đối tượng bị tội phạm xâm
hại. Đây là một điểm mới cơ bản trong cuộc cải cách lần này, vì trong thực tế
hành vi phạm tội khơng chỉ gây thiệt hại cho cá nhân mà cịn gây ra cho tổ
chức. Thiệt hại này có thể là về tài sản, thương hiệu, uy tín trong kinh doanh...
Trong q trình đi tìm sự thật vụ án, những thơng tin, tài liệu do người
làm chứng, bị hại cung cấp có vai trị hết sức quan trọng. Vậy nên, để thu
thập đầy đủ, chính xác các nguồn thơng tin từ họ, Nhà nước phải bảo vệ họ
tránh khỏi sự xâm hại hoặc đe dọa xâm hại từ người phạm tội hoặc nhân
thân người phạm tội.
Theo quy định của Hiến pháp 2013 và pháp luật TTHS, cơ quan, tổ chức

và cá nhân có trách nhiệm trong đấu tranh phịng, chống tội phạm. Tổ chức, cá
nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội phạm. Chính vì
vậy, người làm chứng, người bị hại có trách nhiệm tham gia vào quá trình tố
tụng, phối hợp với cơ quan có thẩm quyền vì mục đích đi tìm sự thật khách
quan vụ án hình sự. Và ngược lại, người phạm tội ln ln với suy nghĩ và
mong muốn thốt khỏi sự trừng phạt, răn đe, giáo dục của pháp luật nên trên
thực tế người làm chứng, người bị hại bị tội phạm hoặc thân nhân của người
phạm tội mua chuộc bằng lợi ích vật chất; đe dọa, khống chế bằng việc lợi
dụng những điểm yếu về thể chất, bí mật đời tư hay trả thù, gây thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản cho người làm chứng, người bị hại và người thân thích
của họ dẫn đến trong nhiều vụ án hình sự người làm chứng, người bị hại tỏ ra e
ngại, bất hợp tác hoặc hợp tác không tích cực với các cơ quan có thẩm quyền
trong các khâu phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm và đó là một trong những
nguyên nhân khiến cho một số vụ án không được giải quyết triệt để.

11


Như vậy từ những phân tích trên có thể hiểu: Bảo vệ người làm chứng,
người bị hại là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật TTHS, áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người làm
chứng, người bị hại khi có căn cứ xác định tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh
dự, nhân phẩm của họ bị xâm hại hoặc đe dọa xâm hại do việc cung cấp
chứng cứ, tài liệu, thông tin liên quan đến tội phạm nhằm mục đích khuyến
khích và nâng cao vai trị của họ nói riêng và người dân nói chung trong q
trình đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.1.2. Các đặc điểm của bảo vệ người làm chứng, người bị hại trong
tố tụng hình sự
Như vậy, từ khái niệm trên chúng ta có thể nhận thấy, việc bảo vệ
người làm chứng, người bị hại và người tham gia tố tụng khác bao gồm các

đặc điểm sau:
Một là, chủ thể được bảo vệ. Trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự,
một bên là đại diện của cơ quan mang quyền lực nhà nước và một bên là
người tham gia tố tụng với tư cách là cá nhân, tổ chức. Hai bên đều có quyền
và nghĩa vụ khác nhau. Tuy nhiên, xét vai trị, vị trí mỗi bên, phía người
tham gia tố tụng là đối tượng rất dễ bị tội phạm xâm hại, mà cụ thể là người
làm chứng, người bị hại. Bởi khi tham gia vào q trình đấu tranh phịng,
chống tội phạm, người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố
tụng khác cố gắng thực hiện nghĩa vụ của mình nhưng việc thực hiện nghĩa
vụ này của họ lại phải chịu sự đe dọa xâm hại từ phía người phạm tội. Chính
vì thế pháp luật tố tụng hình sự quy định những chủ thể trên là đối tượng cần
được bảo vệ.
Hai là, chủ thể có trách nhiệm bảo vệ. Một cơ chế bảo vệ người làm
chứng, người bị hại được đưa ra thì cũng phải có chủ thể thực thi cơ chế này.
Đó là những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền (Cơ quan điều tra, Viện kiểm

12


sát, Tòa án và những cơ quan nhà nước liên quan). Thực hiện công tác bảo vệ
này là cả một q trình địi hỏi sự chính xác, nhanh chóng, kịp thời, do đó yêu
cầu cả những cơ quan ở cấp cơ sở cùng nhau phối hợp triển khai công tác này
để kiểm tra, giám sát, bảo vệ những đối tượng trên, nhằm bảo vệ tốt nhất
những quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi họ tham gia vào quá trình đấu
tranh phịng, chống tội phạm và cũng đồng thời bảo đảm q trình giải quyết
vụ án nhanh chóng, hiệu quả.
Ba là, các biện pháp bảo vệ. Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thực thi
cơng tác bảo vệ người làm chứng, người bị hại và áp dụng những biện pháp
bảo vệ cụ thể. Tùy từng trường hợp, tình huống thực tế, việc xem xét, phân
tích, đánh giá những yếu tố có thể ảnh hưởng đến người được bảo vệ mà áp

dụng biện pháp bảo vệ hợp lý, linh hoạt để đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của họ tốt nhất. Các biện pháp bảo vệ này được quy định trong Thông tư
liên tịch số 13/2013/TTLT-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC ngày 26 tháng
12 năm 2013, Bộ Cơng an, Bộ Quốc phịng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
và Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự 2003 về bảo vệ tính mạng, sức khỏe và tài sản của người làm chứng,
người tố giác tội phạm, người bị hại trong vụ án hình sự, và được luật hóa
trong BLTTHS năm 2015.
Bốn là, quyền và lợi ích của người được bảo vệ. Trong pháp luật tố
tụng hình sự, người làm chứng, người bị hại và người tham gia tố tụng khác
có khả năng bị tội phạm xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại. Và khách thể mà tội
phạm muốn tác động đến sẽ liên quan tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự,
nhân phẩm của một cá nhân được bảo vệ. Bảo vệ người, người làm chứng,
người bị hại chính là bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp cho họ và đó cũng
chính là bảo vệ các quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự.

13


Năm là, mục đích bảo vệ. Bảo vệ người làm chứng, người bị hại là
thực thi một số các nguyên nguyên tắc tiến bộ được thừa nhận chung của
pháp luật TTHS trong nhà nước pháp quyền (như: pháp chế, quyền con
người, quyền bất khả xâm phạm thân thể…) nhằm mục đích làm cho các quy
định của pháp luật TTHS quốc gia phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật
quốc tế. Từ đó làm cho quy định của pháp luật TTHS được tuân thủ, chấp
hành và áp dụng một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và triệt để bởi các cơ
quan tiến hành tố tụng cũng như những người có chức vụ của các cơ quan
này trong thực tiễn. Bên cạnh đó, bảo vệ người làm chứng, người bị hại phải
nhằm mục đích góp phần tạo nên lịng tin của cơng dân và sự nghiêm minh
của pháp chế, sức mạnh và uy tín của hệ thống tư pháp hình sự, cũng như

tính nhân đạo và dân chủ của nhà nước pháp quyền. Và một điều quan trọng
là nội dung của việc bảo vệ người làm chứng, người bị hại không thể đơn
giản là chỉ ghi nhận một cách chung chung, trừu tượng để không thực thi
được, mà nhất thiết cần phải được thể hiện một cách cụ thể và rõ ràng thông
qua các quy phạm pháp luật tương ứng.
1.2. Ý nghĩa của việc bảo vệ ngƣời làm chứng, ngƣời bị hại trong tố
tụng hình sự
Thực tiễn cho thấy chế định bảo vệ người làm chứng, người bị hại rất
quan trọng, cần thiết phải được quy định một cách rõ ràng, cụ thể. Mục đích
hướng đến của Đảng và Nhà nước ta là ngăn chặn, hạn chế, đẩy lùi tội phạm,
người làm chứng, người bị hại hay người thân của họ bị trả thù, bị xâm phạm
quyền và lợi ích hợp pháp diễn ra sẽ làm giảm đi mục đích mà chúng ta đang
hướng tới. Chính vì vậy, việc quy định chi tiết chế định bảo vệ người làm
chứng, người bị hại và người thân của họ có ý nghĩa to lớn trong cơng cuộc
đấu tranh, phịng chống tội phạm. Điều này được thể hiện:

14


Thứ nhất, bảo vệ người làm chứng, người bị hại cũng chính là bảo vệ
quyền con người của những chủ thể tham gia tố tụng nói chung. Họ sẽ được
đảm bảo an tồn về tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm và các
quyền, lợi ích khác. Nếu rơi vào trường hợp bị xâm phạm hoặc bị đe dọa xâm
phạm đến các quyền kể trên thì chế định này là cơ sở pháp lý chặt chẽ về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tổ chức có thẩm quyền; về các
biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn những mối nguy hiểm có khả năng xảy ra
trên thực tế xâm hại hoặc đe dọa xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Thứ hai, bảo vệ người làm chứng, người bị hại và người thân thích của
họ khơng chỉ dừng lại ở việc bảo đảm an tồn cho họ thực hiện quyền và
nghĩa vụ khi tham gia vào q trình tố tụng mà cịn hướng đến góp phần hạn

chế hành vi vi phạm pháp luật, tránh được những thiệt hại cho lợi ích nhà
nước, xã hội và các cá nhân khác, đảm bảo kỷ cương pháp luật và trật tự an
toàn xã hội, đảm bảo việc giải quyết vụ án hình sự diễn ra một cách đúng đắn.
Thông qua việc quy định các biện pháp bảo đảm an toàn cho người làm
chứng, người bị hại và người thân thích của họ thì chế định này cũng là cơng
cụ răn đe các đối tượng đang có ý đồ, mục đích xâm phạm đến các quyền và
lợi ích hợp pháp của người làm chứng, người bị hại và người thân thích của
họ, đồng thời xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong việc cản trở, trả thù
những chủ thể trên.
Thứ ba, khi tham gia vào quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm
người làm chứng, người bị hại và người thân thích của họ ln ở vị thế bị
động, họ khó có thể lường trước được những mối nguy hiểm có thể xảy ra
với họ. Do đó, việc cụ thể hóa chế định này trong pháp luật tố tụng hình sự
thể hiện sự quan tâm, bảo đảm an toàn cao nhất từ Nhà nước dành cho họ,
đồng thời phản ánh bản chất nhân đạo của Nhà nước, của chế độ Xã hội chủ
nghĩa. Bên cạnh đó, tạo niềm tin và khuyến khích họ nói riêng, tồn dân nói

15


chung chủ động, sẵn sàng, tích cực tham gia vào cơng cuộc đấu tranh phịng,
chống tội phạm.
1.3. Cơ sở của việc quy định chế định bảo vệ ngƣời làm chứng
trong TTHS Việt Nam
1.3.1. Cơ sở lý luận
Lịch sử nhân loại đã chứng minh ở mỗi thời đại, mỗi hình thái kinh tế,
xã hội nhất định, lòng khao khát tự do, bất khả xâm phạm về thân thể, bình
đẳng về cơng lý và cơng bằng xã hội ln là cái đích mỗi con người hướng
tới, nhu cầu được bảo vệ cũng là một nhu cầu hết sức tự nhiên của con người.
Quyền con người nói chung và quyền của người làm chứng, người bị hại

trong tố tụng hình sự nói riêng đã được thừa nhận một cách rộng rãi và được
xem là giá trị chung của toàn nhân loại.
Đảng và nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo vệ những giá trị cao quý về
quyền con người, thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng. Trong đó văn kiện
của Đảng thể hiện đậm nét định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
bảo đảm quyền con người đó là Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005
về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định:
Củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước trong việc xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức
thực thi các pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên về quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực dân
sự, chính trị, kinh tế, văn hố - xã hội [4].
Trong nhà nước pháp quyền, các quyền con người được pháp luật đảm
bảo thực hiện và được bảo vệ không bị xâm phạm. Ghi nhận và bảo vệ các
quyền con người trên thực tế là thể hiện của một nhà nước nhân bản, tiến bộ,
dân chủ, văn minh. “Bảo vệ quyền con người không chỉ là nội dung, bản chất

16


mà còn trở thành mục tiêu cao nhất trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở nước ta” [10, tr.97].
1.3.2. Cơ sở pháp lý
Ở bình diện quốc tế, Tun ngơn tồn thế giới về nhân quyền 1948,
Tun ngôn về những Nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử đối với nạn
nhân của của tội phạm và nạn nhân của sự lạm dụng quyền lực do Liên hợp
quốc ban hành ngày 29/11/1985, Công ước chống tham những của Liên hợp
quốc, Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về Chống tra tấn và các hình thức
trừng phạt hay đối xử khác tàn bạo, vô nhân đạo hoặc dùng nhục hình năm

1984, cùng hai Cơng ước quốc tế về quyền con người (Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị 1966, Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế,
xã hội và văn hóa 1966) ghi nhận những nội dung liên quan đến bảo vệ quyền
con người nói chung, quyền của người bị tố giác, người làm chứng, người bị
hại trong tố tụng hình sự nói riêng. Các văn bản pháp lý quốc tế này được
xem như khuôn mẫu chung cho các quốc gia trong sự nghiệp bảo vệ quyền
con người của mình, là tiếng nói chung cho tồn thể nhân loại trên thế giới.
Ở Việt Nam, trải qua các bản Hiến pháp của Việt Nam, nội dung về bảo
vệ quyền con người luôn được chú trọng, cụ thể hóa một cách rõ ràng. Đặc
biệt, Hiến pháp 2013 là một bước đột phá, thể hiện sự tiến bộ trong tư duy
pháp lý của một nhà nước pháp quyền. Theo đó: Các quyền con người, quyền
cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Mọi người có quyền bình
đẳng trước pháp luật, khơng ai bị phân biệt đối xử. Mọi người có quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và
nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm. Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật

17


gia đình; bí mật thư tín, điện thoại [20, tr.4-9]... Nhà nước có trách nhiệm đảm
bảo cũng như bảo vệ các quyền đó trên thực tiễn. Do đó, hơn bao giờ hết cần
phải có những cơ chế bảo vệ thích đáng xuất phát từ chính yêu cầu khách
quan của đời sống pháp luật về bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân nói
chung và bảo vệ người làm chứng, bị hại nói riêng, Việt Nam cần phải nghiên
cứu và hồn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về bảo vệ người
làm chứng, người bị hại.
Trong pháp luật TTHS Việt Nam, lần đầu tiên Bộ luật TTHS năm 2003

đã bổ sung một nội dung mới, quan trọng, mang tính nguyên tắc là người bị
hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân
thích của họ mà bị đe doạ đến tính mạng, sức khoẻ, bị xâm phạm danh dự,
nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng
những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật. Nội dung
của nguyên tắc này không chỉ khẳng định quyền được bảo vệ về tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người bị hại, người làm chứng và
người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà còn xác
định rõ trách nhiệm bảo vệ các quyền và lợi ích của người bị hại, người làm
chứng và người tham gia tố tụng thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Toà án. Quy định này đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ các chủ thể này
trên thực tiễn.
Để cụ thể hơn các quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, ngày 26/12/2013,
Bộ Công an được giao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan đã ban
hành Thơng tư liên tịch số 13/2013/TTLT-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC
hướng dẫn thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003 về bảo vệ tính
mạng, sức khỏe và tài sản của người làm chứng, người tố giác tội phạm,
người bị hại trong vụ án hình sự. Thơng tư đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động
bảo vệ những chủ thể trên với quy định:

18


×