Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Di sản dùng vào việc thờ cúng theo quy định của pháp luật việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.93 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TỐNG VIẾT NAM

DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN HÀNH
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS BÙI ĐĂNG HIẾU

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

TỐNG VIẾT NAM




MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1.

Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1

2.

Tình hình nghiên cứu .............................................................................. 3

3.

Phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 4

4.

Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 4

5.

Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ..................................... 5

6.

Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn ......................................... 5


Kết cấu của luận văn ............................................................................... 6
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI SẢN DÙNG VÀO
7.

VIỆC THỜ CÚNG ................................................................................ 7
1.1.

Khái niệm di chúc, quyền của người lập di chúc.................................... 7

1.1.1. Khái niệm di chúc ................................................................................... 7
1.1.2. Quyền của người lập di chúc .................................................................. 9
1.2.

Khái niệm di sản ................................................................................... 12

1.3.

Khái niệm về thờ cúng và di sản dùng vào việc thờ cúng .................... 13

1.3.1. Khái niệm về thờ cúng .......................................................................... 13
1.3.2. Di sản dùng vào việc thờ cúng .............................................................. 18
1.4.

Khái lươ ̣c qui đinh
̣ của pháp luật dân sự Việt Nam về di sản dùng
vào việc thờ cúng qua các thời kỳ ........................................................ 19

1.5.


Ý nghĩa qui đinh
̣ của pháp luâ ̣t về di nsảdùng vào việc thờ cúng ............ 28

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG .................................. 33
2.1.

Căn cứ xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng theo Bộ luật dân sự
năm 2005 ............................................................................................... 33


2.2.

Tỉ lệ di sản dùng vào việc thờ cúng ...................................................... 34

2.3.

Di sản dùng vào việc thờ cúng theo di chúc ......................................... 38

2.4.

Người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng ...................................... 40

2.4.1. Về người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng được chỉ định trong
di chúc ................................................................................................... 40
2.4.2. Về người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng không được chỉ
định trong di chúc mà do những người đồng thừa kế cử ra .................. 43
2.5.

Quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng ........ 46


2.6.

Căn cứ thay đổi người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng và
người có quyền yêu cầu thay đổi .......................................................... 52

2.7.

Căn cứ chấm dứt di sản dùng vào việc thờ cúng .................................. 54

Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG, NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN
NHỮNG TRANH CHẤP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DI
SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG ................................................. 59
3.1.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về di sản dùng vào việc thờ cúng trong
những năm qua ...................................................................................... 59

3.2.

Nguyên nhân dẫn đế nnhững tranh chấ p về di sản dùng vào việc thờ cu
..́ ng
71

3.3.

Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về di
sản dùng vào việc thờ cúng................................................................... 73


KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam từ cổ xưa đã bao hàm: Tín ngưỡng
phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người.
Trong tín ngưỡng sùng bái con người, phổ biến nhất là tục thờ cúng tổ tiên,
nó gần như trở thành một tôn giáo của người Việt Nam (ở miền Nam gọi là
đạo ông bà). Việt Nam trọng ngày mất là dịp cúng giỗ hơn ngày sinh. Nhà
nào cũng thờ Thổ công, là vị thần trông coi gia cư, giữ gìn họa phúc cho cả
nhà. Làng nào cũng thờ Thành hoàng, là vị thần cai quản, che chở cho cả làng
(thường tơn vinh những người có cơng khai phá, lập nghiệp cho dân làng,
hoặc các anh hùng dân tộc đã được sinh ra hay mất ở làng). Cả nước thờ vua
Tổ, hằng năm có ngày giỗ Tổ chung (Hội đền Hùng, vua Hùng Vương).
Với đời sống tâm linh của dân tộc Á Đông, sự tuân thủ các quy tắc gia
phong, tinh thần dòng tộc đã ăn sâu vào máu thịt người dân. Khi còn sống,
mỗi người đều được dạy bảo về nề nếp sống, đạo đức thảo hiếu làm con, tơn ti
trật tự của mỗi gia đình. Theo đó, việc thờ cúng tổ tiên ơng bà ln là trách
nhiệm thiêng liêng của con cháu từ đời này sang đời khác, người già chết thì
người trẻ phải tuân thủ trách nhiệm đó. Nhân dân ta, nhất là vùng nông thôn,
việc thờ cúng không chỉ là tục lệ tổ tiên để lại mà cịn là một hình thức của đời
sống tâm linh khơng thể thiếu.
Thật vậy, gia đình Việt Nam được quan niệm trước hết như là một tập
hợp các truyền thống văn hóa, kinh tế và các giá trị đạo đức, được tạo ra bởi
người sáng lập và được gìn giữ, phát huy bởi các thế hệ con cháu. Phát huy
các truyền thống gia đình là một nghĩa vụ đặc biệt thiêng liêng đối với con
cháu trực hệ. Vả lại, theo tín ngưỡng truyền thống thì ơng, bà, cha, mẹ quá cố,
mặc dù đã kết thúc kiếp sống vật chất, nhưng luôn tồn tại trong tâm tưởng của


1


con cháu. Sự thành đạt của những người còn sống thể hiện kết quả tích lũy
phúc đức của người đã chết. Vì thế, cần bày tỏ lịng biết ơn đối với người đã
chết bằng cách chăm sóc nơi yên nghỉ cũng như thỏa mãn những nhu cầu của
họ trong “cuộc sống của thế giới bên kia”. Riêng việc thỏa mãn nhu cầu của
người đã chết được thực hiện một cách tượng trưng dưới hình thức tổ chức lễ
giỗ. Tục lệ thừa nhận rằng, người đã chết chỉ có những nhu cầu “tối thiểu”.
Điều đó giải thích việc tiến hành lễ giỗ theo các nghi thức long trọng: Các
món ăn nóng đặt trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh những nén hương và những
ngọn nến thắp sáng..., người thân thuộc càng đơng thì lễ giỗ càng tốn kém. Để
người tổ chức cúng viếng khơng bị đẩy vào tình thế khó khăn do phải sử dụng
tài sản riêng vào việc ấy, “tổ tiên” - người đã mất đều ln có trách nhiệm
chuẩn bị một khả năng vật chất cụ thể để đảm bảo sự hòa thuận và ổn định
trách nhiệm của con cháu đời sau, từ đó khái niệm di sản dùng vào việc thờ
cúng manh mún ra đời.
Trong suốt quá trình phát triển của đời sống kinh tế - xã hội con người,
cho đến nay, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của xã hội loài người đã
phát triển một cách vượt bậc. Thêm vào đó, ở nước ta hiện nay, sự đa dạng và
phức tạp của nền kinh tế thị trường đã tác động mạnh mẽ đến nề nếp sống của
mỗi gia đình, dịng tộc nên đơi lúc vấn đề thờ cúng khơng cịn ngun nghĩa
“bản chất đời sống tâm linh nữa” mà ở một khía cạnh nào đó nó bị xen lẫn các
mối quan hệ kinh tế. Vì thế, trong những năm gần đây, các cơ quan tư pháp đã
“vất vả” với vấn đề này trong việc giải quyết tranh chấp di sản thừa kế.
Do sự phát triển nhanh của xã hội nên đất “hương hỏa” ngày càng trở
thành một trong những “điểm nóng” về tranh chấp thừa kế. Hơn nữa, do sự
đa dạng về tính chất cũng như diện tích đất “hương hỏa” cho nên loại đất
này, những người thừa kế không chỉ dùng vào việc thờ cúng mà cịn tận

dụng nó để khai thác lợi ích kinh tế. Trong điều kiện giá đất bất thường

2


trong những năm vừa qua, cộng với sự tác động của lợi ích kinh tế đã khiến
khơng ít người có trách nhiệm thờ cúng khơng những khơng làm trịn nghĩa
vụ của mình mà cịn gây ra nhiều việc mâu thuẫn, tranh chấp giữa những
người thừa kế trong gia đình.
Nhận thức được sự phức tạp của vấn đề này, Nhà nước ta đã có những
quy định tương đối cụ thể về di sản dùng vào việc thờ cúng, tuy nhiên do sự
phát triển quá nhanh của đời sống xã hội khiến lĩnh vực này mau chóng thay
đổi và trở nên quá phức tạp.
Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Di sản dùng
vào việc thờ cúng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Do tầm quan trọng của vấn đề thừa kế nên nội dung này đã được rất
nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm, nghiên cứu, như các đề tài: "Thừa kế
theo di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam" của Tiến sĩ Phạm
Văn Tuyết; Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện là tác giả của 2 cuốn "Bình luận khoa
học về thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam" và "Một số suy nghĩ về thừa
kế trong luật dân sự Việt Nam"; Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Thanh - Trần
Hữu Biền có tác phẩm "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế"; Tiến sĩ Phùng Trung
Tập với cuốn sách chuyên khảo Luật Thừa Kế Việt Nam và Th.S Trần Thị
Huệ với "Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự của một số nước trên thế
giới". Ngoài ra, cịn có nhiều bài viết về đề tài này được đăng tải trên các
sách báo, tạp chí. Đặc biệt, cịn có rất nhiều cử nhân, học viên chọn nội dung
này làm đề tài cho các luận văn tốt nghiệp của mình. Ở nước ta, việc nghiên
cứu đề tài về thừa kế cũng như vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng đã có

từ xa xưa. Chúng ta có thể kể đến nhiều bộ luật như: Bộ luật Hồng Đức, Bộ
luật Gia Long, Dân luật Bắc Kỳ, Dân luật Trung Kỳ, Dân luật Nam Kỳ...

3


Tất cả các cơng trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng, mang tính
tồn diện, bao qt cả chế định pháp luật về thừa kế, và đưa ra những kiến
nghị để ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về thừa kế. Riêng với
đề tài ""Di sản dùng vào việc thờ cúng theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành",
", chúng tôi tập trung đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung, bản chất
cũng như thực tiễn áp dụng vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng được quy
định trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến
nghị mang tính giải pháp để ngày càng hồn thiện hơn những quy định về nội
dung này trong pháp luật Việt Nam hiện hành.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài, nội dung của luận văn tập trung nghiên cứu
chuyên sâu những quy định của pháp luật về di sản dùng vào việc thờ cúng
cũng như liên hệ qua các thời kỳ của đất nước để thấy rõ hơn vấn đề này dựa
trên cơ sở những tài liệu nghiên cứu liên quan đến đề tài.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm đáp ứng mục đích nghiên cứu đề tài, chúng tơi dựa trên cơ sở lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về pháp luật. Đặc biệt là quan điểm của
Đảng và Nhà nước về thừa kế trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập. Để
hồn thiện đề tài, chúng tơi đã sử dụng các phương pháp: phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương
pháp khoa học chuyên ngành khác như: phương pháp logíc, phương pháp
tổng hợp, phương pháp phân tích và các phương pháp khoa học khác để giải

quyết những vấn đề mà đề tài đã đặt ra. Ngồi ra, chúng tơi cịn chọn lọc một
số vụ án giải quyết tranh chấp về di sản dùng vào việc thờ cúng để bình luận
nhằm giúp việc nghiên cứu được toàn diện và sâu sắc hơn.

4


5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích: Việc nghiên cứu đề tài khơng ngồi mục đích học hỏi, rèn
luyện, nâng cao trình độ của bản thân. Đồng thời thông qua đề tài, chúng tôi
hy vọng có thể đóng góp một vài ý kiến giúp giải quyết những bất hợp lý còn
tồn tại trong lý luận và thực tiễn của vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Nhiệm vụ: Đề tài hướng đến việc nghiên cứu một cách có hệ thống từ
cơ sở lý luận đến thực tiễn trong việc áp dụng những quy phạm pháp luật
trong lĩnh vực thừa kế, đặc biệt là vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng. Qua
đó, thấy được những vướng mắc thường gặp phải trong quá trình áp dụng
pháp luật và tìm ra những nguyên nhân dẫn đến việc tranh chấp về thừa kế.
Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm góp phần xây dựng hệ
thống pháp luật ngày càng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng chúng
trong thực tiễn.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Từ trước đến nay đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến
lĩnh vực thừa kế. Có những cơng trình khoa học nghiên cứu vấn đề này một
cách toàn diện, bao quát, nhưng cũng có những cơng trình chỉ nghiên cứu một
khía cạnh nhỏ của chế định thừa kế trong luật. Tuy nhiên, chưa có cơng trình
nào nghiên cứu chi tiết, cụ thể về di sản dùng vào việc thờ cúng theo quy định
của pháp luật Việt Nam. Đây là luận văn ở cấp độ thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu
về di sản dùng vào việc thờ cúng gắn với từng quy định của mỗi giai đoạn
lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, chúng tơi nghiên cứu làm sáng

tỏ những quy định của pháp luật hiện hành để tìm ra những vướng mắc cịn
tồn tại trên thực tế và đề xuất một số kiến nghị để các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành những văn bản hướng dẫn cần thiết, sửa đổi điều luật
nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về di sản dùng vào việc thờ cúng theo Bộ
luật dân sự 2005.
5


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về di sản dùng vào việc thờ cúng
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về di sản dùng
vào việc thờ cúng
Chương 3: Thực tiễn áp dụng, nguyên nhân dẫn đến những tranh chấp
và kiến nghị hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt Nam về di sản
dùng vào việc thờ cúng

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG
1.1. Khái niệm di chúc, quyền của người lập di chúc
1.1.1. Khái niệm di chúc
Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của cá nhân để định đoạt tài sản
của mình khi cịn sống cho người khác sau khi chết.
Điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về Di chúc như sau:
“Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình
cho người khác sau khi chết”. Di chúc là sự thể hiện ý chí của một người định

đoạt tài sản của mình, tồn bộ hoặc một phần tài sản của người đó sẽ chuyển
cho ai hoặc những ai sau khi người đó chết. Sự bày tỏ ý chí này được thể hiện,
hoặc bằng giấy tờ để viết (hay chúc thư), hoặc bằng lời nói miệng mà thường
là lời dặn dò, lời trăn trối khi hấp hối (di chúc miệng). Hành vi bày tỏ ý chí
này bằng giấy tờ, hoặc lời nói miệng được gọi là lập di chúc.
Từ định nghĩa nêu trên có thể rút ra một vài nhận xét về đặc điểm của
di chúc trong luật thực định.
- Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương. Tức là, chỉ có sự thể hiện ý
chí của một bên là người lập di chúc, chứ không phải bởi sự “gặp gỡ” của hai
hay nhiều ý chí tại một thời điểm như trong quan hệ hợp đồng. Nó là giao
dịch pháp lý một bên, theo đó người có tài sản quyết định chuyển giao khơng
có đền bù một phần hoặc tồn bộ tài sản của mình cho một hay nhiều người
khác mà khơng cần biết đến ý chí của người thụ hưởng việc chuyển giao ấy.
Ngay cả trong trường hợp di chúc do vợ chồng cùng lập, tính chất một bên
của giao dịch vẫn không mất nếu di chúc được lập vì lợi ích của người thứ ba.
Về mặt lý thuyết, không loại trừ khả năng vợ và chồng, khi lập di chúc chung
chỉ định lẫn nhau làm người hưởng di sản của người chết trước. Khi đó, di chúc

7


trở thành một hợp đồng mà việc phát sinh hiệu lực của hợp đồng ấy bị hoãn lại
cho đến thời điểm mở thừa kế của một trong hai bên giao kết, đây có thể xem là
một trường hợp ngoại lệ.
- Di chúc chỉ được thực hiện sau khi người lập di chúc chết. Cần hiểu
rằng, cho đến khi người lập di chúc chết, người được thụ hưởng di sản theo di
chúc khơng có bất cứ một quyền nào trên bất kỳ tài sản nào của người lập di
chúc và họ cũng không chắc được hưởng di sản về sau này. Di chúc chỉ ghi
nhận cho họ một quyền nào đó trong di sản của người lập di chúc, tức là một
quyền đối với các tài sản mà người sau này sẽ để lại (nếu có để lại). Người

thừa kế theo di chúc khơng thể địi hỏi sự bảo đảm quyền lợi gắn liền với tư
cách đó và thậm chí, cả sự bảo đảm cho việc duy trì tư cách đó, vì di chúc có
thể bị sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ theo ý chí của người lập ra nó.
- Di chúc có thể bị sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ. Quyền này
được chính thức thừa nhận trong điều 662 Bộ luật dân sự năm 2005. Đó là hệ
quả của một trong những đặc điểm cơ bản của di chúc: sự bày tỏ ý chí sau
cùng của người có di sản. Trừ khi trút hơi thở cuối cùng, người có di sản có
quyền sửa đổi những dự tính của mình, những quyết định của mình mà chưa
có hiệu lực và chưa được cơng bố. Tuy nhiên, trong trường hợp vợ và chồng
lập di chúc chung, việc sửa đổi, bổ sung, thay thế và hủy bỏ di chúc chỉ có thể
được thực hiện với sự đồng ý của cả hai người. Nếu một người đã chết, thì
người cịn sống chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc có liên quan đến phần tài
sản của mình và nhất là không thể thay thế hoặc hủy bỏ di chúc chung được
nữa (theo điều 664 Bộ luật dân sự năm 2005).
Quy định trên có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn như sau:
- Người lập di chúc không bị ràng buộc bởi di chúc đã lập ra. Người đó
có thể sửa đổi di chúc hoặc hủy bỏ di chúc đã lập bằng một di chúc khác
lập ra sau này.

8


- Khơng có sự ràng buộc giữa người lập di chúc và người được chỉ định
là người thừa kế theo di chúc, trong thời gian người lập di chúc còn sống.
- Sau khi người lập di chúc chết, người được chỉ định là người thừa kế
theo di chúc đó sẽ bày tỏ ý chí của mình nhận hay khơng nhận tài sản của
người lập di chúc để lại. Đây là hành vi pháp lý đơn phương của người thừa
kế nhận di sản theo di chúc.
Người lập di chúc chỉ định một hoặc nhiều người trong di chúc và cho
họ hưởng một phần hoặc tồn bộ tài sản của mình. Nếu trong di chúc có nhiều

người, mỗi người được hưởng bao nhiêu phụ thuộc vào ý chí của người có tài
sản. Người có tài sản thể hiện ý chí của mình (bằng việc lập di chúc) nhưng ý
chí đó có được thực hiện hay khơng phụ thuộc vào hình thức biểu lộ ý chí. Vì
vậy, một người muốn định đoạt tài sản của mình bằng di chúc, cần phải tuân
thủ các quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc. Căn cứ quy định của
pháp luật về thừa kế thì di chúc phải được lập thành văn bản; nếu khơng thể
lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Việc lập di chúc phải
tuân theo trình tự, thủ tục luật định.
1.1.2. Quyền của người lập di chúc
Quyền của người lập di chúc được quy định tại Điều 648 và Điều 662
Bộ luật dân sự năm 2005, người lập di chúc có các quyền sau đây:
1. Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
Người lập di chúc có quyền để lại di sản cho bất cứ cá nhân hoặc tổ
chức nào. Người được nhận di sản có thể là cá nhân trong hay ngoài diện thừa
kế theo quy định của pháp luật hoặc cũng có thể là Nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội,... Quyền định đoạt của người lập di chúc cịn được thể hiện
thơng qua việc họ có thể truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo
pháp luật như: cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, em ruột... mà không nhất thiết
phải nêu lý do, tức là trong di chúc, người lập di chúc có thể chỉ định một hay
nhiều người thừa kế theo pháp luật khơng được hưởng di sản thừa kế của mình.
9


2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
Quyết định người thừa kế theo di chúc được hưởng di sản như thế nào
(một phần di sản là bao nhiêu, một số hiện vật nhất định hoặc một số tiền nhất
định trong khối di sản,...). Nếu chỉ định nhiều người thừa kế theo di chúc thì
người lập di chúc cần phân định rõ mỗi người được hưởng một phần di sản
trong khối di sản như thế nào? Người lập di chúc có quyền phân chia di sản
cho mỗi người không nhất thiết phải ngang nhau mà không cần phải nêu lý do

tại sao. Nếu người lập di chúc không phân định rõ phần quyền của mỗi người
thừa kế, thì những người thừa kế được hưởng phần tài sản ngang nhau trong
khối di sản thừa kế.
3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
Dành một phần tài sản trong khối di sản để tặng cho người khác sau khi
người lập ra di chúc chết. Tài sản tặng cho này gọi là vật di tặng.
Người lập di chúc cịn có thể dành một phần tài sản trong khối di sản để
dùng vào việc thờ cúng (vấn đề này được đề cập ở phần sau).
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản;
Người lập di chúc có quyền giao nghĩa vụ cụ thể cho người thừa kế
(như giao cho người thừa kế phải trả một khoảng nợ của Nhà nước mà người
để lại di sản chưa trả,...). Người lập di chúc có thể giao nghĩa vụ cho một
người mà không cho họ hưởng di sản. Trường hợp này không bắt buộc người
được giao nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đó. Nếu giao nghĩa vụ và cho
hưởng di sản thì người được giao nghĩa vụ đó phải thực hiện nghĩa vụ trong
phạm vi di sản được thừa kế.
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản;
Để đảm bảo di chúc không bị thất lạc, nhất là sau khi người lập di chúc
chết, Bộ luật dân sự năm 2005 quy định người lập di chúc có quyền chỉ định
trong di chúc người giữ di chúc đó. Thơng thường, sau khi người để lại di sản

10


chết một thời gian, di sản mới được phân chia cho những người thừa kế. Để
giữ gìn tài sản khơng bị hư hỏng, để đề phòng trường hợp tài sản có thể bị
người khác tẩu tán, chiếm đoạt thì người lập di chúc có thể chỉ định trong di
chúc người quản lý di sản sau khi người lập di chúc chết và cũng có thể chỉ
định cả người phân chia di sản. Việc chỉ định người giữ di chúc, người quản
lý di sản, người phân chia di sản là hoàn tồn theo ý chí tự nguyện của người

lập di chúc. Người lập di chúc có thể cử một người vừa giữ di chúc, đồng thời
vừa quản lý di sản và phân chia di sản. Nhưng người lập di chúc vẫn có thể cử
nhiều người, mỗi người làm một việc riêng (như cử ông A giữ di chúc, anh B
quản lý tài sản, chị C phân chia di sản,...). Người lập di chúc có quyền chỉ
định người thừa kế, người được chỉ định có thực hiện hay khơng tùy thuộc ý
chí chủ quan của họ. Đây không phải là nghĩa vụ pháp lý mà nó biểu hiện tinh
thần tự nguyện, đồn kết giúp đỡ người khác.
6. Ngoài ra người lập di chúc cịn có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế,
hủy di chúc.
- Sửa đổi di chúc: Là việc người lập di chúc thay thế một phần quyết
định cũ của mình đối với các phần trong di chúc trước đó.
- Bổ sung di chúc: Người lập di chúc có quyền “bổ sung” di chúc đã
lập. Phần bổ sung là phần thêm vào nội dung của di chúc. Nếu người lập di
chúc bổ sung di chúc, mà phần di chúc bổ sung vẫn hợp pháp, thì di chúc đã
lập và phần di chúc bổ sung đều có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, trong
trường hợp: nếu phần di chúc đã lập và phần di chúc bổ sung mâu thuẫn với
nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
- Thay thế di chúc: Là việc người để lại di sản lập di chúc khác thay thế
cho di chúc cũ vì họ cho rằng những quyết định của mình trong di chúc trước
khơng cịn phù hợp với ý chí của họ nữa. Do đó, di chúc trước coi như khơng
có vì chính người lập di chúc hủy bỏ (nếu như việc thay thế di chúc trong lúc

11


họ còn minh mẫn sáng suốt). Trong trường hợp một người lập nhiều di chúc
vào các thời điểm khác nhau mà nội dung của các di chúc không phủ định lẫn
nhau thì tất cả di chúc đều có hiệu lực. Ngược lại, nếu nội dung phủ định lẫn
nhau thì coi đó là thay thế di chúc.
- Hủy bỏ di chúc: Là việc người để lại thừa kế từ bỏ di chúc của mình

bằng cách khơng cơng nhận di chúc do mình lập ra là có giá trị. Trường hợp
này được coi như là khơng có di chúc. Do vậy, di sản thừa kế sẽ được giải
quyết theo quy định của pháp luật. Việc hủy bỏ di chúc có thể được thực hiện
dưới các hình thức sau:
+ Người lập di chúc tự tiêu hủy tất cả di chúc đã lập.
+ Người lập di chúc lập một di chúc khác tuyên bố hủy di chúc đã lập
(văn bản hủy bỏ di chúc chỉ cần thiết khi người lập di chúc yêu cầu cơ quan
Nhà nước, công bố di chúc).
1.2. Khái niệm di sản
Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Điều 634. Di sản: Di sản bao gồm
tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với
người khác.
Theo Từ điển Luật học của Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, di sản là
"Tài sản mà người đã chết để lại, bao gồm:
1. Tài sản mà người đã chết chủ sở hữu, gồm có:
a. Tài sản riêng như: tư liệu sinh hoạt (ví dụ: Quần áo, chăn màn,
giường tủ, máy thu thanh, máy thu hình, vv.); tư liệu sản xuất, vốn sản xuất
hoặc kinh doanh hợp pháp; nhà ở; tài sản được thừa kế, tặng cho; tiền mua
trái phiếu; tiền tiết kiệm gửi ngân hàng hoặc quỹ tín dụng; các thu nhập khác
(ví dụ: Tiền cơng lao động, tiền nhuận bút, tiền thưởng, tiền trúng xổ số, vv.).
b. Phần tài sản của người đã chết trong khối tài sản chung với người
khác (ví dụ: Sở hữu chung một ngôi nhà, một cơ sở sản xuất, kinh doanh, vv.).

12


c. Những quyền về tài sản do người chết để lại (ví dụ: Địi nợ, địi tài
sản cho th hoặc cho mượn, chuộc lại tài sản đã cầm cố, đòi bồi thường thiệt
hại trong hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng,...).
2. Quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật (X. Thừa kế

quyền sử dụng đất)".
Khái niệm di sản trong Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam: Di sản là
"Tài sản (tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, các thu nhập hợp pháp khác) của
người chết để lại, gồm: những tài sản thuộc sở hữu của người chết, phần tài
sản của người chết trong tài sản chung với người khác, quyền và nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại. Người chết không những để lại các quyền về tài sản
(như quyền đòi nợ, quyền đòi bồi thường thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức
khoẻ...) mà cịn có thể để lại cả những nghĩa vụ về tài sản (như phải trả nợ,
phải trả công lao động hoặc bồi thường thiệt hại). Tuy nhiên, người thừa kế
chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản mà mình đã nhận được.
Trong trường hợp vợ hoặc chồng chết thì một nửa tài sản chung của vợ chồng
thuộc về Di sản của người chết (được quy định tại Điều 637 Bộ luật dân sự)".
Theo chúng tôi, di sản không bao gồm cả nghĩa vụ về tài sản. Từ điển
bách khoa toàn thư Việt Nam đưa nghĩa vụ về tài sản vào trong khái niệm di
sản là không hợp lý và không đúng với ý nghĩa của Bộ luật dân sự quy định
về di sản. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 634 thì di sản chỉ bao gồm tài sản của
người chết để lại. Điều 163 quy định tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá
và các quyền về tài sản. Như vậy, nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại chỉ
có thể là quyền về tài sản của những người mà người chết có nghĩa vụ đối với
họ, chứ không thể là di sản.
1.3. Khái niệm về thờ cúng và di sản dùng vào việc thờ cúng
1.3.1. Khái niệm về thờ cúng
Thờ cúng tổ tiên đã xuất hiện từ xa xưa của lịch sử nhân loại, đã từng

13


tồn tại ở nhiều châu lục và các quốc gia. Ở nước ta đã và đang dung dưỡng
một hệ thống tín ngưỡng dân gian rất phong phú, đa dạng, nhưng tiêu biểu
hơn cả vẫn là tín ngưỡng Thờ cúng tổ tiên. Tín ngưỡng này, tồn tại ở các

thành phần dân tộc; ở nhiều giai tầng, xuyên suốt các giai đoạn lịch sử, thu
hút đại đa số dân cư. Thờ cúng tổ tiên đan xen vào các tơn giáo, thậm chí trở
thành những thành tố quan trọng của một số tôn giáo; thẩm thấu vào các loại
hình tín ngưỡng dân gian. Ở nước ta, dù là tín đồ của tơn giáo nào, Cao đài
hay Hòa Hảo, Phật giáo hay Khổng giáo, kể cả Công giáo - đã là người dân
gốc Việt - họ đều hướng về vùng đất Tổ, đều coi trọng người sinh thành và
dưỡng dục mình nên người. Thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam là một tín ngưỡng
có sức sống lâu bền, có gốc rễ sâu xa trong cộng đồng người Việt. Do đó, Thờ
cúng tổ tiên là hiện tượng xã hội có tính phổ biến. Một thời gian khơng ngắn,
tín ngưỡng Thờ cúng tổ tiên chưa được hiểu đầy đủ, nên ứng xử với loại hình
tín ngưỡng này chưa thật thỏa đáng. Cho dù có thời kỳ lịch sử, ai đó đã từng
phê phán, thậm chí cịn liệt kê thờ cúng tổ tiên vào loại “mê tín dị đoan” đi
nữa thì cho đến đầu thế kỷ XXI, thờ cúng tổ tiên lại trỗi dậy. Điều đó nói lên
sức sống trường tồn của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong lòng dân tộc. Cùng
với sự đổi mới tư duy về tơn giáo nói chung, gần đây thờ cúng tổ tiên được xã
hội nhìn nhận, đánh giá theo quan điểm mới. Trong Nghị quyết số 25-NQ/TW
ngày 12/03/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, có ghi: "Giữ gìn và
phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tơn vinh
những người có cơng với Tổ quốc và nhân dân”.
Tuy nhiên, khái niệm thờ cúng Tổ tiên đang còn nhiều ý kiến khác
nhau. Một số người cho rằng, thờ cúng tổ tiên là một phong tục, là luật
tục. Phan Kế Bính coi mỗi nước có phong tục riêng. Phong tục ấy ban đầu
thuộc một vài người rồi bắt chước nhau thành thói quen… dần dần tiêm
nhiễm thành tục. Cụ khẳng định: "Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là

14


thành kính, ấy cũng là một lịng bất vong bản, ấy cũng là một việc nghĩa của
người. Cây có gốc mới nở ngành xanh ngọn, nước có nguồn mới bề rộng sông

sâu" [Theo Toan Ánh và một số tác giả khác khẳng định
thờ cúng tổ tiên là một phong tục [Theo Trong Nghị quyết
số 25-NQ/TW ngày 12/03/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, coi
là “truyền thống”. Còn Giáo sư Hà Đình Cầu cho rằng: “Việc Thờ cúng
tổ tiên không phải là một tôn giáo mà là một luật tục” [Theo
Trong khi ở miền Nam nước ta, thờ cúng tổ tiên được
nhiều người gọi chung với một cái tên là đạo ơng bà, cịn Nguyễn Đình Chiểu
gọi là đạo nhà: “Thà đui mà giữ đạo nhà còn hơn sáng mắt ông cha không
thờ”. Ở miền Bắc nước ta, nhiều người gọi thờ cúng tổ tiên hay là đạo thờ tổ
tiên. Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu cho rằng, dân chúng quan niệm
“đạo” ở đây không có nghĩa là một tơn giáo, như đạo Cơng giáo, đạo Phật,
đạo Hồi... mà phải hiểu nó như là đạo lý làm người, đạo làm con, đạo hiếu
nghĩa. Trong tác phẩm Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, tác giả
Ngô Đức Thịnh nêu lý do ông gọi Thờ cúng tổ tiên là đạo vì: “Khái niệm đạo
ở đây, theo ý nghĩa là “con đường”, “cách thức” đưa con người đạt tới niềm
tin vào cái thiêng liêng, siêu nhiên. Như vậy, đạo theo nghĩa rộng nó có thể
bao gồm cả một số hình thức tín ngưỡng và tơn giáo, còn đạo theo nghĩa hẹp
hơn là chỉ một số hình thức tín ngưỡng phát triển có xu hướng trở thành tôn
giáo sơ khai hay là tôn giáo dân gian” [Theo Một số nhà
nghiên cứu khác lại cho rằng, Thờ cúng tổ tiên là một tôn giáo. Chẳng hạn,
nhà dân tộc học nổi tiếng người Nga - X.A. Tocarev khẳng định: “Sự Thờ

15


cúng tổ tiên là một hình thức tơn giáo, từ lâu đã được thừa nhận trong khoa
học. Vì thế khơng cần phải chứng minh sự tồn tại của nó với tư cách là một
hình thức tơn giáo riêng biệt” [Theo Theo quan điểm
trên của X.A.Tơcarev thì thờ cúng tổ tiên là một loại hình tơn giáo ngun
thuỷ mang tính sơ khai. GS. Đặng Nghiêm Vạn cho rằng, thờ cúng tổ tiên ở

Việt Nam nằm trong hệ thống tôn giáo dân tộc. Ơng cịn khẳng định, đó chính
là một tơn giáo chính thống của người Việt Nam, tuy nó: “Khơng có tổ chức
chặt chẽ, nhưng dường như tồn bộ cộng đồng quan niệm tiến hành các lễ
thức giống nhau và là tâm linh chủ yếu của cộng đồng là lực hút các yếu tố
ngoại sinh hay là những yếu tố ra nhập vào các tôn giáo khác”. Cùng quan
điểm này, cịn có Gơxe Lanh (người Pháp) đầu thế kỷ XX nhận xét: “Thờ
cúng tổ tiên là tôn giáo thân thiết nhất với người Việt” [Theo
Có tác giả khẳng định thờ cúng tổ tiên: “Đích thực là một
tơn giáo bản địa”. Thậm chí có học giả khun nên coi Thờ cúng tổ tiên là
quốc đạo(!). Cũng có người tỏ ra thận trọng hơn khi nhận xét: “Đạo gốc ở
nước ta có vẻ là Thờ cúng tổ tiên, về mặt tơn giáo học thì cịn phải tranh luận,
nhưng về thực tiễn thì rất rõ nét”.
Cũng có người cịn phân vân mà coi thờ cúng tổ tiên: “Gần như một
thứ tôn giáo”. Nhưng cũng lại có ý kiến cho rằng: “Có thể coi thờ cúng tổ tiên
là một phong tục đã được tơn giáo hóa, hoặc những hành vi có tính chất tơn
giáo được thế tục hóa để trở thành phong tục”. Nhưng rồi tác giả lại phải dùng
thuật ngữ có tính thỏa hiệp là: “Hiện nay có một cách dùng, một thuật ngữ
mang tính chất “trung hịa”, đó là Đạo (nghĩa là con đường và cách thức) Đạo thờ tổ tiên”. GS. Phan Đại Doãn quan niệm thờ cúng tổ tiên như một tín
ngưỡng gắn liền với sự củng cố quan hệ họ hàng, gia đình. Khơng ít người

16


cho rằng thờ cúng tổ tiên không phải là tôn giáo mà là một loại hình tín
ngưỡng, hay tín ngưỡng dân gian. Quan điểm này được Viện Nghiên cứu Tôn
giáo và Tín ngưỡng (nay là Trung tâm Nghiên cứu Tơn giáo và Tín ngưỡng),
thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tán thành. Tác giả Huyền
Giang lý giải: “Từ xa xưa, thờ cúng tổ tiên rõ ràng là một tín ngưỡng sâu sắc
của người Việt… nhưng từ đó, chưa thể nói rằng thờ cúng tổ tiên là một thứ
tơn giáo của người Việt. Thoạt nhìn, có thể coi đó là tơn giáo, vì hầu hết các

nhà đều có bàn thờ, đều làm những nghi thức thờ cúng trang trọng và thành
kính, nghĩa là có những dấu hiệu của tơn giáo, nhưng đó chưa phải là tơn giáo
hiểu theo nghĩa chặt chẽ của khái niệm này. Thờ cúng tổ tiên khơng có những
giáo lý thống nhất, cũng khơng có giáo hội với những phép tắc nghiêm ngặt
như thường thấy ở các tơn giáo xưa và nay”. Với tín ngưỡng này mọi niềm tin
đều mang tính nguyên thuỷ, chất phác không thông qua các giáo chủ, giáo lý
và giáo hội nào. Như vậy, thờ cúng tổ tiên là phong tục, truyền thống, đạo
hiếu, tơn giáo hay tín ngưỡng… hiện vẫn đang là vấn đề cần tiếp tục nghiên
cứu để xếp vào loại nào cho thỏa đáng nhất. Còn nhiều quan điểm khác nhau
về khái niệm thờ cúng, theo quan điểm của chúng tôi về khái niệm thờ cúng:
Thờ cúng tổ tiên không phải là một tôn giáo, hơn nữa thờ cúng tổ tiên không
phải là một đạo giáo mà là một phong tục tốt đẹp của nhân dân ta, giáo dục
thế hệ sau nhớ công ơn của thế hệ trước, luôn biết ơn công sinh thành, dưỡng
dục của thế hệ trước. Do vây, thể hiện bằng nghi thức thờ cúng tổ tiên để
tưởng nhớ đến tổ tiên, xem họ còn tồn tại trong tâm trí của mỗi người và nó
bền vững trong tư tưởng của mỗi cá nhân trong xã hội. Từ cơ sở đó luật pháp
của chế độ dân chủ nhân dân đã quy định cụ thể để nhằm điều chỉnh quan hệ
xã hội liên quan đến việc để lại di sản thờ cúng và thờ cúng tổ tiên, hơn nữa
việc điều chỉnh này nhằm giải quyết những tranh chấp liên quan đến việc để
lại di sản và dùng di sản dùng vào việc thờ cúng.

17


1.3.2. Di sản dùng vào việc thờ cúng
Thờ cúng là một nếp sống văn hóa lâu đời của nhân dân ta, thể hiện
lịng tơn kính đối với người đã chết và nhằm giáo dục người xung quanh kính
trọng những người bậc trên đã chết và nhớ công ơn của họ. Vì vậy, Nhà nước
ln tơn trọng và bảo vệ các truyền thống tốt đẹp đó bằng cách cho phép cá
nhân dành một phần tài sản của mình để dùng vào việc thờ cúng.

Di sản dùng vào việc thờ cúng dường như là một “đặc thù” của Việt
Nam vì trong nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới không thấy xuất hiện chế
định này. Theo một tác giả: “trong các quy tắc cơ bản của pháp luật thừa kế
cổ điển Việt Nam, ta đã biết, có quy tắc về tín ngưỡng, thờ cúng tổ tiên và chữ
hiếu”. “Theo cổ Luật Việt Nam, thì người có của mà chết vơ hậu, thì vợ hay
chồng, hoặc anh em có bổn phận phải lập hương hỏa để cúng giỗ người ấy”.
Chẳng hạn Bộ luật Hồng Đức quy định tại Điều 388 “cha mẹ mất cả, có ruộng
đất, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em, chị em tự chia nhau, thì lấy 1/20 số
ruộng đất làm phần hương hỏa”. Tương tự, “Thiện chính thư đoạn 12 và 13 nói
người chết mà khơng cịn thừa kế thì giao một phần di sản cho trong họ cày cấy
để giỗ chạp”. Tính “bắt buộc” dành một phần tài sản cho việc thờ cúng đã bị
mất đi trong pháp luật cận và hiện đại và việc này dường như là do sự ảnh
hưởng của pháp luật phương tây. Tại Điều 83, Luật Gia Long quy định: “bó
buộc phải để dành một phần di sản của người quá cố để lập làm hương hỏa”.
Tuy nhiên, Bộ dân luật Bắc kỳ và Bộ dân luật Trung kỳ (hai Bộ luật được
hình thành với sự tác động của Pháp) đã bãi bỏ nguyên tắc bó buộc phải lập
hương hỏa cho người chết vô hậu”. Ở hai Bộ luật này chúng ta thấy nêu: “khi
khơng có con cháu trai khơng một người nào bó buộc phải lập tự để thờ cúng
cho mình cả”. Các văn bản về sau cũng khơng bó buộc phải lập hương hỏa
cho người chết. Trong pháp lệnh thừa kế năm 1990 cũng như trong hai Bộ
luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 đều có quy định người lập

18


di chúc có quyền dành tài sản của mình dùng vào việc thờ cúng. Theo khoản 3,
Điều 648 Bộ luật dân sự năm 2005 (tương tự Điều 651 Bộ luật dân sự năm
1995), người lập di chúc có quyền: “Dành một phần tài sản trong khối di sản
để di tặng, thờ cúng” và theo Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Điều 21: “nếu
người lập di chúc có để di sản dùng vào việc thờ cúng thì di sản đó được coi

như di sản chưa chia”. Vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng đã tồn tại từ lâu
trong pháp luật chúng ta. Tuy nhiên, trong thực tế, tranh chấp về chế định này
vẫn còn diễn ra.
1.4. Khái lươ ̣c qui đinh
̣ của pháp luật dân sự Việt Nam về di sản
dùng vào việc thờ cúng qua các thời kỳ
Chế định di sản thờ cúng đã có từ lâu, đã có trong luật nhà Lê, có thể cả
trước đó, được duy trì trong thời kỳ thuộc địa và tồn tại đến ngày nay.
Thời kỳ trước năm 1945
* Di sản thờ cúng dưới thời Lê
Pháp luật thời Lê thừa nhận hai hình thức thừa kế: Thừa kế theo di chúc
và thừa kế theo pháp luật. Nói đến tài sản của gia đình, các quy định của pháp
luật trong triều đại nhà Lê đề lên hàng đầu là điền thổ. Dưới thời phong kiến,
vợ chồng tích trữ được tiền của đều mua ruộng đất (tậu ruộng đất). Sự giàu
nghèo của một gia đình được đánh giá chủ yếu ở việc có nhiều hay ít ruộng
đất. Và các chức quan trong bộ máy Nhà nước được chủ yếu trả công bằng
đất gọi là chế độ lộc điền. Ngoài ra, đối với những tài sản khác như: Vàng,
bạc, lụa vải, thóc lúa, giường chiếu, đồ sứ, mâm thau,... được coi là của nổi.
Khi cha mẹ mất mà có để lại chúc thư, sau khi trích lại số ruộng đất làm
hương hỏa (1/20 số ruộng đất), di sản thừa kế phải được chia theo đúng như ý
nguyện của người để lại di sản.
- Trường hợp vợ chồng khơng có con mà một người chết trước:
Theo Điều 375 Quốc triều Hình luật, đoạn 258 Hồng Đức Thiện chính

19


thư, trong trường hợp vợ chồng khơng có con mà người chồng (vợ) chết trước
thì đối với những điền sản thuộc tài sản riêng của người chồng được chia làm hai
phần bằng nhau: Một phần dành cho gia đình bên chồng để lo việc tế lễ; phần

còn lại dành cho vợ để phụng dưỡng một đời mà không được quyền sở hữu,...
Đối với tài sản chung do hai vợ chồng tạo dựng, nếu một trong hai
người chết trước sẽ được chia thành hai phần bằng nhau, một phần dành cho
người vợ (hoặc chồng) để làm của riêng; phần còn lại chia làm ba, một phần
để gia đình người chết lo tế lễ, hai phần dành cho người còn sống phụng
dưỡng một đời...
Đối với nhà cửa thì chia làm đơi, người còn sống được dùng một nửa
làm chỗ ở, một nửa để cho gia đình người chết làm nơi tế lễ...
Ngồi ra, đối với những tài sản được coi là của nổi, nếu một trong hai
vợ chồng chết trước thì số tài sản đó dùng vào việc tế lễ và thực hiện tục trả
nợ riêng. Số cịn lại thì để lại cho người còn sống hưởng dụng.
- Trường hợp hai vợ chồng có con chung:
Pháp luật thời Lê quy định: Khi bố mẹ chết con cái được hưởng thừa kế
toàn bộ tài sản và được xếp vào hàng thừa kế thứ nhất. Quyền thừa kế tuyệt
đối này được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đều bị nghiêm trị (theo
các Điều 377, Điều 378 Quốc triều Hình luật).
Giữa các con với nhau, việc phân chia tài sản thừa kế được pháp luật
thời Lê quy định như sau:
Nếu bố mẹ khơng cịn, thì phải trích 1/20 số ruộng đất để làm ruộng
hương hỏa thờ cúng cha, mẹ, tổ tiên. Phần ruộng này về nguyên tắc được giao
cho người con trai trưởng. Nếu con trai trưởng chết trước mà chưa có con thì
đất này giao cho con trai thứ. Trường hợp gia đình khơng có con trai thì ruộng
đất hương hỏa có thể giao cho con gái trưởng (các Điều 388, 389, 390 và
Điều 391 Quốc triều Hình luật).

20


Ngoài ra, đối với những tài sản được coi là của nổi, nếu một trong hai
vợ chồng chết trước thì số tài sản đó dùng vào việc tế tự và thực hiện tục trả

nợ riêng. Số còn lại được chia làm hai phần, một phần về vợ, một phần về
chồng để hưởng dụng, sau đó phần của người chết trước được chia cho
các con mỗi người một phần,...
Có thể nói di sản thờ cúng dưới thời Lê được “quan tâm” đặc biệt, gần
như là bắt buộc trong các trường hợp để lại thừa kế.
* Di sản thờ cúng dưới thời Nguyễn
So với thời Lê, pháp luật thời Nguyễn mà cụ thể là trong Bộ Hồng
Việt luật lệ có ít chế định về vấn đề thừa kế. Tuy nhiên, những nguyên tắc về
quan hệ tài sản và thừa kế cơ bản vẫn tương tự như luật thời Lê. Về di sản thờ
cúng, luật thời Nguyễn có khác so với luật thời Lê ở những điểm sau:
Đối với ruộng hương hỏa, nếu khơng có con trai phải cho cháu trai
(con trai người con thứ); trừ khi khơng có cháu trai nào khác để thừa kế mới
trao cho con gái trưởng.
Luật thời Nguyễn chỉ quy định mức tối đa về giá trị của di sản thờ cúng
trong trường hợp di sản khơng có người thừa hưởng. Tại lệnh năm thứ tư đời
Thiệu Trị, mức này là 3/10 di sản, đội khung ở 3000 quan tiền hoặc 30 mẫu
ruộng. Nhưng nếu di sản có giá trị khơng đáng kể thì có thể được dành trọn
vào việc thờ cúng.
* Di sản thờ cúng dưới thời Pháp thuộc
So với pháp luật triều Lê và triều Nguyễn thì pháp luật về thừa kế thời
Pháp thuộc, theo khn mẫu của Bộ luật Dân sự Napôlêông đã quy định một
cách chi tiết hơn trong các bộ Dân luật Bắc Kỳ và Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ
luật (bộ dân luật giản yếu công bố ngày 10 tháng 3 năm 1883 được áp dụng
tại các tỉnh Nam Kỳ đã sao chép một cách máy móc Bộ luật Dân sự
Napơlêơng của Pháp nên không phản ánh thực trạng của xã hội Việt Nam và

21



×