Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Điều kiện bảo hộ sáng chế theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (980.12 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN MINH TRANG

§IỊU KIƯN BảO Hộ SáNG CHế
THEO PHáP LUậT VIệT NAM

LUN VN THC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN MINH TRANG

§IỊU KIƯN BảO Hộ SáNG CHế
THEO PHáP LUậT VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ QUẾ ANH

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN MINH TRANG

\


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SÁNG CHẾ VÀ ĐIỀU KIỆN
BẢO HỘ SÁNG CHẾ ........................................................................ 4
1.1.

Khát quát chung về sáng chế............................................................. 4

1.1.1. Khái niệm ............................................................................................. 4

1.1.2. Đặc điểm sáng chế................................................................................ 6
1.2.

Phân biệt sáng chế với một số đối tượng khác ................................ 8

1.2.1. Phân biệt sáng chế với phát minh......................................................... 8
1.2.2. Phân biệt sáng chế với mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích...................... 10
1.2.3. Phân biệt sáng chế với bí mật kinh doanh.......................................... 11
1.3.

Khái quát chung về điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với sáng chế .................................................................... 13

1.3.1. Khái niệm điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
sáng chế .............................................................................................. 13
1.3.2. Vai trị của điều kiện bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp đối với
sáng chế .............................................................................................. 20
1.3.3. Điều kiện bảo hộ sáng chế theo Điều ước quốc tế và pháp luật
một số quốc gia trên thế giới .............................................................. 24
Kết luận Chương 1 ........................................................................................ 31

\


Chương 2: NỘI DUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN
HÀNH VỀ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ ........... 32
2.1.

Phạm vi các đối tượng được bảo hộ sáng chế ................................ 32


2.1.1. Sáng chế là giải pháp kỹ thuật............................................................ 32
2.1.2. Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế.................... 35
2.2.

Điều kiện có tính mới ....................................................................... 39

2.2.1. Khái niệm ........................................................................................... 39
2.2.2. Cách xác định ..................................................................................... 41
2.3.

Điều kiện có trình độ sáng tạo ......................................................... 48

2.3.1. Khái niệm ........................................................................................... 48
2.3.2. Cách xác định ..................................................................................... 50
2.4.

Điều kiện có khả năng áp dụng công nghiệp ................................. 57

2.4.1. Khái niệm ........................................................................................... 57
2.4.2. Cách xác định ..................................................................................... 60
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 63
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KIỆN BẢO
HỘ SÁNG CHẾ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT......................................................................... 64
3.1.

Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về điều kiện bảo hộ
sáng chế ............................................................................................. 64

3.1.1. Những kết quả đạt được ..................................................................... 64

3.1.2. Những tồn tại, hạn chế ....................................................................... 69
3.2.

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về điều kiện
bảo hộ sáng chế ................................................................................. 76

3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản về điều kiện kiện bảo hộ sáng chế ...... 76
3.2.2. Tăng cường hiệu quả của hệ thống cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế ........... 79

\


3.2.3.

Nâng cao nhận thức về bảo hộ quyền công nghiệp đối với sáng chế ....... 80

3.2.4. Đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao các hoạt động hỗ trợ, bổ trợ,
hợp tác quốc tế ................................................................................... 81
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 87

\


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định phát triển khoa học và công nghệ

(KH & CN) cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là
nền tảng và động lực đẩy mạnh cơng nghiệp hố (CNH), hiện đại hố (HĐH)
đất nước. Mặc dù nước ta cịn nghèo, nhưng trong thời gian qua, với sự quan
tâm của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ
KH & CN trong cả nước, tiềm lực KH & CN đã được tăng cường, KH & CN
đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh.
Tuy nhiên, trình độ KH & CN của nước ta hiện nay nhìn chung cịn thấp
so với các nước trên thế giới và trong khu vực; năng lực sáng tạo cơng nghệ
mới cịn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước. KH & CN nước ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, trước
xu thế phát triển mạnh mẽ của KH & CN và kinh tế tri thức trên thế giới.
Thách thức lớn nhất trong phát triển kinh tế- xã hội của nước ta hiện
nay là sự yếu kém về chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp
của nền kinh tế, dẫn đến nguy cơ kéo dài tình trạng tụt hậu của nước ta so với
các nước trong khu vực và khó có thể thực hiện được mục tiêu CNH, HĐH.
Điều này đòi hỏi KH & CN phải góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự
phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Để thực hiện mục tiêu trên, một trong những biện pháp mà Đảng và
nhà nước ta đang thực hiện là khuyến khích hoạt động sáng tạo thông qua hệ
thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế.
Ý nghĩa căn bản của việc bảo hộ độc quyền sáng chế là nó tạo ra động
lực kích thích phát triển kinh tế, công nghệ và thúc đẩy cạnh tranh thông qua

1


việc tác động đến động lực tài chính của hoạt động sáng tạo. Tuy nhiên, độc
quyền sáng chế không được trao trên cơ sở tích cực lao động hay chi phí sáng
tạo lớn mà được cấp trên cơ sở những điều kiện hết sức nghiêm ngặt về tính

mới, tính sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp. Do vậy, việc xây dựng
một hệ thống điều kiện bảo hộ sáng chế hợp lý trong pháp luật của quốc gia
có thể coi là chìa khóa để khởi động quy trình sáng tạo và thơng qua đó kích
thích sự phát triển kinh tế.
So với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, lịch sử hình
thành và xây dựng pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ độc
quyền sáng chế nói riêng ở nước ta còn tương đối non trẻ. Khởi đầu từ Nghị
định số 31/CP ngày 23-01-1981 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)
ban hành Điều lệ về sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và sáng
chế đến Luật sở hữu trí tuệ năm 2006, các quy định pháp luật về bảo hộ sáng
chế ở nước ta đã và đang từng bước hoàn thiện.
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà nền kinh tế đang có bước chuyển mình
mạnh mẽ sang thời kỳ hậu cơng nghiệp, nền kinh tế trí thức đang dần được
hình thành thì vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ sáng
chế nói riêng càng quan trọng. Có thể nói số lượng đơn đăng ký bảo hộ sáng
chế và số bằng sáng chế đã được cấp đã trở thành một tiêu chí để đánh giá
trình độ phát triển khoa học công nghệ cũng như khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế của một quốc gia.
Với ý nghĩa thực tiễn và lý luận quan trọng đó, tác giả chọn đề tài Điều kiện
bảo hộ sáng chế theo quy định pháp luật Việt Nam là đề tài luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
của điều kiện bảo hộ sáng chế, từ đó đề xuất phương hướng hoàn thiện các
quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế.

2


3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu như vậy, luận văn đặt ra nhiệm vụ nghiên

cứu như sau:
- Làm rõ bản chất pháp lý của điều kiện bảo hộ sáng chế, vai trị của nó
trong hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế cũng như ý nghĩa
của nó đối với sự phát triển khoa học kỹ thuật ở nước ta.
- Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về
điều kiện bảo hộ sáng chế và sử dụng sáng chế của Việt Nam, đồng thời có sự
so sánh tương quan thực tiễn bảo hộ sáng chế với các đối tượng sở hữu công
nghiệp khác.
- Dựa trên sự phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả tìm ra ngun
nhân và đề xuất phương hướng hồn thiện các quy định của pháp luật sở hữu
trí tuệ Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế, từ đó góp phần vào việc gia
tăng các đơn đăng ký bảo hộ độc quyền sáng chế ở Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và lý luận về nhận thức của triết học Mác - Lênin; Tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật. Đồng thời, chúng tôi sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khoa học là phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp
lịch sử, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn khi nghiên cứu đề tài này.
5. Kết cấu của Đề tài
Chương 1. Lý luận chung về sáng chế và điều kiện bảo hộ sáng chế
Chương 2. Nội dung quy định của pháp luật hiện hành về điều kiện bảo
hộ đối với sáng chế
Chương 3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng chế và
một số giải pháp hoàn thiện

3


Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ SÁNG CHẾ
VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ SÁNG CHẾ

1.1. Khát quát chung về sáng chế
1.1.1. Khái niệm
Sáng chế là một khái niệm dùng để chỉ những giải pháp kỹ thuật mới
do con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng những nhu cầu cần thiết trong hoạt
động lao động sản xuất của con người. Trong đó, giải pháp kỹ thuật được hiểu
là một phương thức để giải quyết một vấn đề cụ thể trong lĩnh vực kỹ thuật
hoặc có thể hiểu giải pháp kỹ thuật là cơ cấu, phương pháp hay chất mới hay
sử dụng cơ cấu, phương pháp cũ theo chức năng mới [30, tr. 116], nó được
thể hiện dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình giải quyết một vấn đề được xác
định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên [3, Điều 4]. Nói một cách
khác, giải pháp kỹ thuật hướng đến mục tiêu làm chủ thiên nhiên của con
người. Một đối tượng sẽ được coi là giải pháp kỹ thuật nếu nó tạo điều kiện
cho con người khai thác thế giới tự nhiên và thơng qua đó thỏa mãn những
nhu cầu vật chất và tinh thần của mình. Q trình này có thể được diễn ra
bằng cách tận dụng các nguồn lực hoặc các quy luật của tự nhiên như bằng
cách tác động trực tiếp vào thiên nhiên.
Cùng với những tiến bộ và sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ
thuật thế giới, khái niệm sáng chế cũng đang được liên tục mở rộng. Sáng chế
không đơn giản chỉ bao hàm các cơng cụ, máy móc hữu hình mà cịn là cả các
quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy
luật của tự nhiên. Thậm chí, ở một số quốc gia, khái niệm sáng chế đã được
mở rộng ra đến mức vượt ra khỏi quan điểm truyền thống về “bản chất kỹ

4


thuật” của sáng chế vốn đã được biết đến rộng rãi ở các nước. Ví dụ, ở Hoa

Kỳ, phương pháp kinh doanh được coi là sáng chế và được bảo hộ độc quyền.
Theo kết quả tổng kết của cơ quan sáng chế Hoa Kỳ (USPTO), số các giải
pháp kinh doanh được cấp bằng sáng chế tại Hoa Kỳ năm 1996 là 700. Đến
năm 2000, con số này đã lên đến 2600. Kể từ ngày 1/8/2000, Hàn Quốc cũng
đã chính thức thừa nhận phương pháp kinh doanh như là một đối tượng có
khả năng được bảo hộ sáng chế…
Dưới góc độ pháp luật quốc tế, sáng chế với tên tiếng Anh là Invention,
theo tài liệu do WIPO phát hành được định nghĩa: “Sáng chế là sản phẩm mới
hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề kỹ thuật” [25].
Dưới góc độ khoa học pháp lý, Từ điển Luật học có định nghĩa:
“Sáng chế được hiểu là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên
thế giới, có tính sáng tạo và có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế
- xã hội” [32, tr. 665]. Ngoài ra, theo tác giả Vũ Cao Đàm: “Sáng chế là
giải pháp kỹ thuật mang tính mới về nguyên lý kỹ thuật, sáng tạo và áp
dụng được” [34].
Dưới góc độ pháp luật thực định
Tại Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 định nghĩa: “Sáng chế là giải pháp kỹ
thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác
định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên” [32, Điều 4, Khoản 12]. Quy
định này giống như các văn bản pháp luật trước đó quy định về khái niệm sáng
chế thì sáng chế phải là một giải pháp kỹ thuật, tức là phải góp phần giải quyết
một số vấn đề kỹ thuật cụ thể. Tuy nhiên, khái niệm trong Luật SHTT năm
2005 đã bổ sung thêm dạng thức thể hiện của sáng chế đó là sản phẩm hoặc
quy trình và phải nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các
quy luật tự nhiên. Ví dụ: Việc tìm ra chất kháng sinh chưa phải là một sáng chế
vì chất này có sẵn trong tự nhiên và không là giải pháp cho một vấn đề cụ thể.

5



Nhưng nếu dùng chất đó để tạo ra thuốc kháng sinh Penicilin thì việc làm này
nhằm mục đích chữa bệnh, và loại thuốc này được coi là sáng chế.
Như vậy, dưới các góc độ, khía cạnh tiếp cận khác nhau, nhưng suy
cho cùng sáng chế được tồn tại chủ yếu thông qua 02 dạng của giải pháp kỹ
thuật là sản phẩm và quy trình, thơng qua đó, chúng đã tạo điều kiện cho xã
hội loài người trải qua những bước phát triển tột bậc, ngày càng văn minh và
hiện đại. Có thể nói, sáng chế là đó sự thỏa thuận của xã hội đối với các nhà
phát minh [35, tr. 131]. Theo đó, trong một thời hạn nhất định, “nhà phát
minh” được độc quyền ngăn cấm người khác không được sao chép, sử dụng
hoặc bán một sáng chế đã được cấp văn bằng bảo hộ. Đổi lại, “nhà phát
minh” sẽ công bố các chi tiết của sáng chế cho công chúng biết. Hệ thống cấp
bằng sáng chế là phần thưởng của xã hội dành cho những nỗ lực sáng tạo của
nhà phát minh, đồng thời cũng là kênh quan trọng để cập nhật tri thức nhân
loại từ những phát minh đó.
1.1.2. Đặc điểm sáng chế
Thứ nhất, sáng chế là giải pháp kỹ thuật phải giải quyết được một vấn
đề cụ thể bằng việc áp dụng các quy luật tự nhiên.
Sáng chế là sản phẩm, quy trình cơng nghệ, do con người tạo ra, khơng
phải là những gì (đã tồn tại trong thiên nhiên) được con người phát hiện ra và
thuộc tính cơ bản của sáng chế là đặc tính kỹ thuật, bởi vì sáng chế là giải
pháp kỹ thuật, tức là biện pháp kỹ thuật nhằm giải quyết một vấn đề và việc
giải quyết vấn đề này được thể hiện bằng việc áp dụng quy luật tự nhiên. Quy
luật tự nhiên là những quy luật khoa học của tự nhiên được khám phá thông
qua thực nghiệm. Như vậy, những ý tưởng hoặc ý đồ chỉ nêu vấn đề mà
không đưa ra cách giải quyết vấn đề không được bảo hộ là sáng chế; hoặc vấn
đề được giải quyết không phải là vấn đề kỹ thuật hoặc không giải quyết được
bằng cách thức kỹ thuật thì cũng khơng được coi là sáng chế.

6



Sáng chế không tồn tại trong lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn. Tuy
nhiên các nhà khoa học xã hội phải bàn tới sáng chế khi phân tích ý nghĩa
kinh tế - xã hội, pháp lý của nó.
Thứ hai, sáng chế có thể tồn tại dưới dạng: sản phẩm hoặc quy trình.
Giải pháp kỹ thuật được hiểu là biện pháp để giải quyết một vấn đề
mang đặc tính kỹ thuật, giải pháp kỹ thuật có thể là sản phẩm hoặc quy
trình, trong đó:
Sáng chế là sản phẩm bao gồm: (i) Sản phẩm dưới dạng vật thể: Được
thể hiện bằng một tập hợp các thông tin xác định một sản phẩm nhân tạo được
đặc trưng bởi các dấu hiệu, chi tiết về kết cấu. Các dấu hiệu, chi tiết này liên
kết với nhau để thực hiện một chức năng, công dụng nhất định nhằm đáp ứng
một nhu cầu con người. Ví dụ: Dụng cụ, máy móc, thiết bị… (ii) Sản phẩm
dạng chất thể: Được thể hiện bằng một tập hợp các thông tin xác định một sản
phẩm nhân tạo được đặc trưng bởi các dấu hiệu, đặc điểm về sự hiện diện, tỷ
lệ và trạng thái các phân tử tạo thành và có một chức năng nhất định. Ví dụ:
Vật liệu, chất liệu, thực phẩm… (iii) Sản phẩm dạng vật liệu sinh học: Được
thể hiện bằng tổng hợp các thông tin về một sản phẩm có chứa thơng tin di
truyền bị biến đổi dưới tác động của con người; có khả năng tự tái tạo lại. Ví
dụ: Gen thực vật, gen động vật…
Sáng chế là quy trình được thể hiện bằng tập hợp các thông tin xác định
cách thức tiến hành một q trình, cơng việc được xác định bằng các đặc điểm
về trình tự, điều kiện, thành phần tham gia, biện pháp, phương tiện thực hiện
các thao tác nhằm đạt được một mục đích nhất định như: Quy trình cơng
nghệ, phương pháp chuẩn đốn, dự đốn, kiểm tra…
Theo bảng phân loại sáng chế Quốc tế (IPC) sáng chế còn có thể chia
thành 8 lĩnh vực: (i) Dụng cụ thiết yếu cho con người; (ii) Quy trình cơng
nghệ, giao thơng vận tải; (iii) Hóa học, luyện kim; (iv) Dệt may, giấy; (v)
7



Xây dựng; (vi) Máy cơ khí, chiếu sáng, nhiệt, vũ khí, chất nổ; (vii) Cơ học;
(viii) Đồ điện.
Thứ ba, sáng chế có khả năng áp dụng trực tiếp vào sản xuất và đời
sống, nó có giá trị thương mại và mang lại lợi ích kinh tế cho chính chủ sở
hữu của sáng chế.
Trên cơ sở sự sáng tạo, sức lao động bỏ ra, sáng chế với những giải
pháp kỹ thuật được hình thành và bảo hộ được áp dụng trực tiếp vào sản xuất
và đời sống thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, đồng thời nó cũng đem lại
giá trị kinh tế cho chính chủ sở hữu sáng chế, bởi họ chính là “nhà phát minh”
ra sáng chế.
1.2. Phân biệt sáng chế với một số đối tượng khác
1.2.1. Phân biệt sáng chế với phát minh
Xét dưới góc độ ngôn ngữ, phát minh được hiểu một cách đơn thuần là
việc tìm ra cái có cống hiến lớn cho khoa học và loài người [33, tr.768]. Ở cấp
độ cao hơn, theo từ điển Bách khoa Việt Nam, phát minh được hiểu là sự phát
hiện một vật, một hiện tượng hoặc một quy luật tồn tại khách quan của tự
nhiên mà con người chưa từng biết tới. Phát minh làm thay đổi, nâng cao trình
độ nhận thức của con người đối với tự nhiên và tạo cơ sở để con người lợi
dụng, chế ngự tự nhiên. Phát minh khoa học là yếu tố quyết định đối với tiến
bộ khoa học kỹ thuật. Phát minh thường gắn với những nghiên cứu khoa học
cơ bản trong khoa học lý thuyết và khoa học ứng dụng. Phát minh phản ánh
các mối quan hệ hiện thực khách quan cơ bản và tính chất của các hiện tượng
trong thế giới hiện thực.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, theo tác giả Vũ Cao Đàm, phát minh
được hiểu là sự khám phá ra những quy luật, những tính chất hoặc những hiện
tượng của thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan mà trước đó chưa ai
biết, nhờ đó làm thay đổi cơ bản nhận thức của con người.
8



Như vậy, trên thực tế, khái niệm sáng chế và phát minh có một số điểm
tương đồng nên thường bị nhầm lẫn. Tuy nhiên, trong tài liệu chính thức của
tổ chức WIPO phát hành có khẳng định: sáng chế là sản phẩm mới hoặc quy
trình nhằm giải quyết một vấn đề kỹ thuật. Điều này khác với phát minh, đó là
những cái tồn tại mà chưa tìm ra được. Có thể phân biệt sáng chế với phát
minh thông qua một số nội dung sau cụ thể sau:
Thứ nhất, về yếu tố tính mới: phát minh chỉ có trong lĩnh vực khoa học
tự nhiên, đã tồn tại khách quan (bởi vậy khơng có tính mới), trong khi đó
thuộc tính quan trọng nhất bắt buộc phải có của sáng chế là tính mới.
Thứ hai, về giá trị giải thích sự vật, hiện tượng: phát minh đó là sự phát
hiện một vật, một hiện tượng hoặc một quy luật tồn tại khách quan của tự
nhiên mà con người chưa từng biết tới, do đó nó có khả năng giải thích thế
giới, giải thích sự phát triển của sự vật, hiện tượng, trong khi đó sáng chế
khơng có khả năng này.
Thứ ba, về khả năng áp dụng trực tiếp: phát minh mới chỉ dừng lại ở sự
“phát hiện” mang tính chất sơ khai nhất, nên chưa thể áp dụng trực tiếp vào
sản xuất đời sống, nhưng sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm
hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các
quy luật tự nhiên có khả năng áp dụng trực tiếp vào đời sống xã hội, đem lại
những giá trị thương mại – kinh tế.
Thứ tư, về giá trị thương mại, phát minh khơng có giá trị thương mại,
bởi đơn thuần nó chưa được áp dụng trực tiếp vào sản xuất đời sống, trong khi
đó sáng chế lại có đặc tính này, người ta có thể mua, bán sáng chế. Ví dụ:
Năm 1982, kỹ sư người Đức Rudolf Diesel phát minh ra động cơ diesel. Do
tính ưu việt của động cơ này mà người ta có thể ứng dụng nó vào sáng chế tạo
ra các loại máy móc được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp đặc
biệt là ngành giao thông vận tải. Như vậy, động cơ Diesel là phát minh, cịn
máy móc chạy bằng động cơ diesel là sáng chế.
9



1.2.2. Phân biệt sáng chế với mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích
Xét dưới góc độ pháp luật quốc tế, mẫu hữu ích/giải phát hữu ích tên
tiếng Anh là Utility Model, nó được pháp luật một số quốc gia quy định cụ
thể, trong đó, sáng chế có thể được bảo hộ dưới dạng “mẫu hữu ích”. Tùy
theo pháp luật của từng quốc gia mà “mẫu hữu ích” có thể được gọi là “giải
pháp hữu ích” hoặc “sáng chế nhỏ”… Xét dưới góc độ khoa học pháp lý,
“mẫu hữu ích” đề cập đến hình dạng của sản phẩm, cơ cấu, hoặc sự kết hợp
của họ về các giải pháp kỹ thuật thực tế, còn được gọi là Gizmo hoặc bằng
sáng chế nhỏ. Đó là mức độ sáng tạo và kỹ thuật thấp hơn so với các bằng
sáng chế, nhưng giá trị thực tế tuyệt vời để có bằng sáng chế về việc phê
duyệt đơn giản hóa thủ tục và rút ngắn thời gian bảo vệ, giảm phí cách để
bảo vệ chúng. Trên mẫu hữu ích, một số quốc gia khơng phản đối bảo hộ
sáng chế của nó như là một riêng biệt, nhưng sẽ được đặt để bảo vệ bằng
sáng chế phát minh của họ. Hơn nữa, một số quốc gia được phân loại như
các đối tượng độc lập bảo vệ bằng sáng chế mẫu hữu ích, mơ hình tiện ích
này chủ yếu đề cập Gizmo. Cịn “giải pháp hữu ích” được hiểu là giải pháp
kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có khả năng áp dụng
trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, giải pháp được coi là mới nếu nó chưa
được bộc lộ cơng khai trên thế giới dưới bất kỳ hình thức nào đến mức căn
cứ vào đó có thể thực hiện được ngay [32, tr. 286]. Như vậy, xét dưới góc độ
hình thức bên ngồi, sáng chế và mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích có nhiều
điểm tương đồng, như: (i) đều có tính mới; (ii) đều có khả năng áp dụng
trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội; có giá trị thương mại; (iii) đều được pháp
luật bảo hộ… Tuy nhiên, trên thực tế, sáng chế và mẫu hữu ích/giải pháp
hữu ích vẫn tồn tại những điểm khác biệt nhất định, cụ thể:
Thứ nhất, về mức độ bảo hộ, các yêu cầu để mẫu hữu ích/giải pháp hữu
ích được bảo hộ với mức độ ít nghiêm ngặt hơn so với sáng chế.


10


Thứ hai, về thời hạn bảo hộ, thời hạn bảo hộ đối với mẫu hữu ích/giải
pháp hữu ích ngắn hơn so với thời gian bảo hộ sáng chế (thường là 7 đến 10
năm, tùy thuộc vào quy định của pháp luật của mỗi quốc gia).
Thứ ba, về phạm vi bảo hộ, điều này được thể hiện mỗi quốc gia mẫu
hữu ích/giải pháp hữu ích chỉ được bảo hộ đối với một số lĩnh vực công nghệ
và chỉ bảo hộ sản phẩm mà khơng bảo hộ quy trình, điều này hồn toàn khác
với sáng chế, sáng chế được pháp luật bảo hộ đối với tất cả lĩnh vực công
nghệ và bảo hộ cả quy trình. Thậm chí, khơng phải pháp luật của tất cả các
quốc gia trên thế giới đều bảo hộ mẫu hữu ích, mà chỉ có một số quốc gia có
loại hình bảo hộ này. Luật SHTT Việt Nam khơng sử dụng thuật ngữ “mẫu
hữu ích” mà sử dụng thuật ngữ “giải pháp hữu ích”, theo đó, sáng chế được
bảo hộ dưới mọi hình thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu khơng
phải là hiểu biết thơng thường và đáp ứng các điều kiện sau: (i) Có tính mới
và (ii) Có khả năng áp dụng cơng nghiệp [3, Điều 58]. Sở dĩ pháp luật Việt
Nam có quy định chính thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích cho sáng
chế vì so với trình độ khoa học kỹ thuật của nước ta hiện nay thì tiêu chuẩn
của một giải pháp kỹ thuật mới được cấp bằng độc quyền sáng chế là tương
đối cao. Do đó, khơng phải giải pháp kỹ thuật nào khi nộp đơn yêu cầu bảo hộ
cũng đáp ứng được các tiêu chuẩn để được cấp bằng độc quyền sáng chế nên
việc quy định hình thức bằng độc quyền giải pháp hữu ích là biện pháp mở
rộng đối tượng được bảo hộ, tạo điều kiện để các chủ thể sáng tạo có thể thu
lại những thành quả lao động của mình, phù hợp với trình độ khoa học kỹ
thuật của nước ta hiện nay.
1.2.3. Phân biệt sáng chế với bí mật kinh doanh
Bí mật kinh doanh được hiểu theo nghĩa chung nhất là thông tin thu
được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng
sử dụng trong kinh doanh. Quyền sở hữu cơng nghiệp đối với bí mật kinh


11


doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh
và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó.
Chủ sở hữu bí mật kinh doanh là tổ chức, cá nhân có được bí mật kinh
doanh một cách hợp pháp và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó. Bí
mật kinh doanh mà bên làm thuê, bên thực hiện nhiệm vụ được giao có được
trong khi thực hiện cơng việc được thuê hoặc được giao thuộc quyền sở hữu
của bên thuê hoặc bên giao việc, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Trong đó, sử dụng bí mật kinh doanh là việc thực hiện các hành vi: (i) áp
dụng bí mật kinh doanh để sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ, thương mại
hàng hoá và (ii) bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu sản phẩm
được sản xuất do áp dụng bí mật kinh doanh.
Các đối tượng khơng được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh
bao gồm: (i) Bí mật về nhân thân; (ii) Bí mật về quản lý nhà nước; (iii) Bí mật
về quốc phịng, an ninh và (iv) Thơng tin bí mật khác khơng liên quan đến
kinh doanh.
Như vậy, có thể phân biệt sáng chế và bí mật kinh doanh qua một số
tiêu chí sau:
Thứ nhất về phạm vi khái niệm: Đây có thể được xác định là điểm khác
biệt đầu tiên và lớn nhất giữa sáng chế và bí mật kinh doanh, khái niệm bí mật
kinh doanh có phạm vi bao quát rộng hơn rất nhiều so với nội dung của khái
niệm sáng chế. Đó có thể là thơng tin về danh sách khách hàng, thông tin về
cơ hội đầu tư và cũng có thể là một giải pháp kỹ thuật, một đề án, giải phát
kinh doanh trong tương lại...
Thứ hai, về điều kiện bảo hộ: nếu như đối với sáng chế, điều kiện được
bảo hộ đối với sáng chế khi mà giải pháp kỹ thuật của sáng chế đáp ứng được
tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng cơng nghiệp, cịn với bí mật

kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: (i) Không phải là
12


hiểu biết thơng thường và khơng dễ dàng có được; (ii) Khi được sử dụng
trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với
người khơng nắm giữ hoặc khơng sử dụng bí mật kinh doanh đó; (iii) Được
chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó
khơng bị bộc lộ và khơng dễ dàng tiếp cận được.
1.3. Khái quát chung về điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với sáng chế
1.3.1. Khái niệm điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
sáng chế
Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
được hiểu theo nghĩa chung nhất là bảo hộ sản phẩm trí tuệ, quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp [32, tr.42]. Đối tượng của
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp bao gồm quyền sở hữu của cá nhân, pháp
nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán
dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý và quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh. Người nào sử dụng các đối tượng sở hữu
công nghiệp của người khác đang trong thời gian bảo hộ mà không xin phép
chủ sở hữu các đối tượng này thì bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
(trừ các trường hợp có quy định riêng) và tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm
mà bị xử lý theo quy định của pháp luật. Như vậy, bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp bao gồm ba nội dung: Thứ nhất là ban hành các quy định của pháp luật
về quyền sở hữu công nghiệp; Thứ hai là cấp văn bằng bảo hộ các đối tượng sở
hữu công nghiệp cho các chủ thể khác nhau khi đáp ứng các yêu cầu theo quy
định (xác lập quyền); Thứ ba là bằng các phương thức, biện pháp khác nhau
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ văn bằng (bảo vệ quyền).
Là một bộ phận cấu thành của pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công

nghiệp trong hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, pháp luật về bảo hộ

13


quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế đã được thiếp lập nhằm hướng tới
việc thúc đẩy hoạt động sáng tạo, sáng chế trong xã hội, đồng thời nhằm ngăn
chặn những vi phạm tiềm tàng, xâm hại đến các lợi ích chính đáng của nhà
sáng chế. Nó như là một cơ chế độc lập quyền có thời hạn cho sở hữu sáng
chế trên cơ sở đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền [44, tr. 13]. Theo
đó, chủ sở hữu sáng chế được độc quyền hưởng những lợi ích về mặt kinh tế
và thương mại từ việc khai thác, sử dụng sáng chế trong một giới hạn nhất
định về thời gian và không gian được bảo hộ. Hay nói cách khác, bảo hộ
quyền sở hữu cơng nghiệp đối với sáng chế bị giới hạn theo lãnh thổ và theo
thời gian. Giải pháp kỹ thuật được cấp bằng độc quyền sáng chế sẽ không thể
bị người khác khai thác, sử dụng cho mục đích thương mại trong phạm vi
quốc gia bảo hộ ngoài chủ sở hữu sáng chế đó. Chủ sở hữu sáng chế có quyền
khởi kiện chống lại bất kỳ người nào có hành vi khai thác sáng chế được bảo
hộ độc quyền trong phạm vi quốc gia đó mà khơng có sự đồng ý của chủ sở
hữu sáng chế. Trên một phương diện nào đó, có thể thấy rằng, bản chất của cơ
chế bảo hộ độc quyền sáng chế khơng khác gì một loại “hợp đồng xã hội”.
Trong đó, mục đích cơ bản của “hợp đồng xã hội” này là “đổi lại việc bộc lộ
những ý tưởng kỹ thuật có giá trị tiềm năng được mơ tả trong bằng độc quyền
sáng chế, chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế bằng việc thực hiện quyền
cấm người khác khai thác ý tưởng được mơ tả, có thể đảm bảo cho mình độc
quyền khai thác ý tưởng của mình” [46, tr. 2]. Quan hệ trao đổi này nhằm
khuyến khích việc bộc lộ cơng nghệ giá trị, nhờ đó, thúc đẩy tiến bộ công
nghệ và các tiến bộ xã hội.
Như vậy, từ nhận thức chung như trên, có thể hiểu bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với sáng chế đó là việc Nhà nước với cơng cụ là hệ pháp luật

pháp sở hữu trí tuệ xác lập quyền cho các chủ thể (có thể là cá nhân, tổ chức)
đối với sáng chế và bảo vệ quyền đó, chống lại bất kỳ sự xâm hại nào của chủ
thể khác (có thể là cá nhân, tổ chức).
14


Bảo hộ độc quyền sáng chế, xét dưới góc độ bản chất xã hội đó là một
dạng hợp đồng xã hội. Trong đó, để đổi lấy việc được độc quyền khai thác và
cho phép người khác khai thác sáng chế trong một thời gian nhất định, chủ sở
hữu buộc phải công bố một cách công khai và đầy đủ những thông tin liên
quan tới giải pháp kỹ thuật mới được u cầu bảo hộ. Bản chất đó ln được
thể hiện một cách nhất quán trong suốt quá trình hình thành và phát triển các
quy định pháp luật về bảo hộ sáng chế trên tồn thế giới. Sáng chế khơng
được bảo hộ vì tổn hao vật chất và sức lao động đã được bỏ ra trong quá trình
nghiên cứu, chế tạo của chủ sở hữu và tác giả sáng chế. Yêu cầu của xã hội
đối với nhà sáng chế dựa trên những nghiên cứu và trí tưởng tượng của mình
phải đưa ra một giải pháp kỹ thuật hữu hiệu, có khả năng tạo ra bước tiến mới
trong quá trình thực hiện việc làm chủ thiên nhiên của con người. Các yêu cầu
này đã được khái quát hóa và được pháp luật nâng lên trở thành những chuẩn
mực nhất định. Đó chính là điều kiện bảo hộ sáng chế.
Trong các cơng trình nghiên cứu trước đây về các quy định pháp luật
liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, điều kiện
bảo hộ sáng chế thường chỉ được xem xét dưới góc độ riêng biệt của nội dung
của từng điều kiện. Trong đó, các cơng trình nghiên cứu đó rất ít đề cập đến
khái niệm pháp lý về điều kiện bảo hộ sáng chế. Trên thực tế, có tác giả cho
rằng điều kiện bảo hộ sáng chế là những chuẩn mực về mặt kỹ thuật do pháp
luật quy định để xem xét khả năng xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với
sáng chế [44, tr. 20], theo đó, điều kiện bảo hộ sáng chế được coi như là một
chuẩn mực về mặt kỹ thuật và chuẩn mực này do pháp luật quy định nhằm
xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế.

Điều kiện, xét dưới góc độ ngơn ngữ học, được hiểu cái cần phải có để
cho một cái khác có thể có hoặc có thể xảy ra [33, tr. 321] có nghĩa rằng điều
kiện bảo hộ sáng chế được hiểu theo nghĩa sáng chế với tư cách là những giải

15


pháp kỹ thuật để được pháp luật bảo hộ cần phải đáp ứng được những yêu
cầu, tiêu chí nhất định. Về bản chất, được hiểu đó chính là những địi hỏi, yêu
cầu của Nhà nước đối với chất lượng của giải pháp kỹ thuật, hay nói một cách
khác là giá trị mà những thông tin được bộc lộ của sáng chế có khả năng
mang lại cho xã hơi.
Thơng thường, các điều kiện bảo hộ sáng chế thường đặt ra các yêu cầu
đối với giải pháp kỹ thuật dựa trên 02 phương diện:
Thứ nhất: Trình độ phát triển của giải pháp kỹ thuật. Theo đó, sáng chế
phải đạt những bước tiến nhất định so với kiến thức nhất định so với chun
mơn đã biết trong cùng lĩnh vực kỹ thuật. Đó có thể là u cầu về tính mới
hoặc tính sáng tạo xét trong phạm vi quốc gia bảo hộ hoặc trên phạm vi tồn
thế giới, tính cho đến thời điểm sáng chế được yêu cầu bảo hộ.
Thứ hai: khả năng thực hiện của giải pháp kỹ thuật trong thực tiễn.
Theo đó, nội dung các ý tưởng được đề cập trong sáng chế phải có khả năng
áp dụng cơng nghiệp theo quy định pháp luật của đa số các quốc gia trên thế
giới hoặc cao hơn là yêu cầu về hữu ích của sáng chế.
Mức độ yêu cầu được đặt ra trong các điều kiện bảo hộ sáng chế có thể
là khác nhau tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của từng quốc gia trên thế
giới. Xu hướng hiện nay của các quốc gia trên thế giới là yêu cầu được đặt ra
trong các điều kiện bảo hộ sáng chế ngày càng được quy định một cách
nghiêm ngặt hơn. Phạm vi giới hạn của các đối tượng được bảo hộ sáng chế
cũng được mở rộng. Bên cạnh đó, một xu hướng khác cũng đang được định
hình khá rõ nét, đó là việc thống nhất hóa các quy định về điều kiện bảo hộ

sáng chế ở các quốc gia khác nhau trên thế giới thơng qua các cơng ước quốc
tế mang tính chất khu vực hoặc toàn cầu về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với sáng chế như công ước Paris, Hiệp ước về hợp tác bảo hộ sáng chế
(PCT), Hiệp định TRIPS. Sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các xu hướng này đã

16


khiến cho các quy định về điều kiện bảo hộ sáng chế luôn luôn nằm trong
trạng thái động một cách tương đối [44, tr. 21].
Từ nhận thức trên, có thể hiểu điều kiện bảo hộ sáng chế là những yêu
cầu, đòi hỏi của nhà nước được thể hiện trong các quy định của pháp luật về
sở hữu trí tuệ để xác lập quyền cho các chủ thể (có thể là cá nhân, tổ chức)
đối với sáng chế và bảo vệ quyền đó, chống lại bất kỳ sự xâm hại nào của
chủ thể khác.
Cơ sở xây dựng điều kiện bảo hộ sáng chế:
Thứ nhất, trình độ phát triển khoa học kỹ thuật của quốc gia bảo hộ và
trình độ khoa học kỹ thuật thế giới
Trình độ khoa học kỹ thuật là thước đo đánh giá sự phát triển, tiến bộ
về nhận thức và khả năng chinh phục của xã hội loài người. Khi khoa học
chưa phát triển thì những yêu cầu đối với việc bảo hộ cũng hạn chế hơn, bởi
lẽ sự nhận thức của con người chưa vượt quá được những hiểu biết thông
thường. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển chung của nhân loại, yêu cầu bảo
hộ đối với các sáng chế ngày càng đòi hỏi chặt chẽ, cụ thể và ở mức độ cao
hơn, được ghi nhận và thể chế hóa thành pháp luật.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi mà tốc độ phát triển của
khoa học kỹ thuật và hoạt động chuyển giao công nghệ trên thế giới đang
diễn ra hàng ngày với tốc độ nhanh và cường độ cao, yêu cầu đặt ra đối
với sáng chế khơng chỉ đáp ứng được tính mới mà cịn phải đạt được trình
độ sáng tạo so với trình độ kỹ thuật chung của thế giới. Phạm vi các đối

tượng được bảo hộ sáng chế cũng ngày càng đa dạng hơn và cập nhật xu
thế chung của nhân loại, các lĩnh vực mới địi hỏi cơng nghệ cao như cơng
nghệ gen, công nghệ nano…
Tuy nhiên sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và mức độ phát triển
về khoa học cơng nghệ ở mỗi quốc gia nói riêng là không đồng đều. Sự chênh
17


lệch về trình độ giữa các nước trong cùng một khu vực, giữa các Châu lục với
nhau đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng của các nghiên cứu về sáng chế,
phạm vi bảo hộ các sáng chế. Ở các nước phát triển: Mỹ, Anh, Nhật Bản…
các sản phẩm sáng chế tập trung vào các ứng dụng hiện đại, tiên tiến từ
internet: thương mại điện tử, giao dịch điện tử trong khi các nước kém phát
triển hơn mới chỉ đang bắt đầu nghiên cứu những công nghệ cơ bản nhất của
máy tính. Khoảng cách về năng lực “chất xám” giữa các quốc gia có thể là 5
năm, 10 năm hoặc hơn thế nữa. Điều đó lý giải tại sao một công nghệ tồn tại
và phổ biến, phổ cập ở một quốc gia, một châu lục này nhưng phải mất rất
nhiều năm sau đó người dân ở các quốc gia khác mới bắt đầu được tiếp cận.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc kết nối và chuyển giao công nghệ giữa các quốc
gia cịn phụ thuộc rất nhiều vào chính sách pháp luật của từng nước vào từng
thời điểm. Đường lối thông thoáng, cơ chế hoạt động của các cơ quan thuộc
bộ máy nhà nước đồng bộ, thống nhất sẽ tạo thuận lợi cho việc học hỏi, mua
bán, sáp nhập, chuyển giao các sáng chế với chi phí thấp nhất và trong thời
gian ngắn nhất.
Thứ hai, chính sách kinh tế xã hội của quốc gia là sự thể hiện ý chí,
quan điểm của Nhà nước đối với sự phát triển khoa học kỹ thuật nói chung, và
với sáng chế nói riêng. Tùy từng thời kỳ mà chính sách có sự thay đổi cho
phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới và trình độ cơng nghệ trong
nước. Do sự định hướng của các nhà nước khác nhau nên điều kiện bảo hộ
sáng chế giữa các quốc gia cũng có sự khác biệt. Ở một số nước như Hoa Kỳ,

Nhật Bản… phần mềm máy tính là đối tượng được bảo hộ sáng chế nhưng tại
Việt Nam thì nhà nước ta quy định phần mềm máy tính là giải pháp kỹ thuật
bị loại trừ khỏi các đối tượng được bảo hộ sáng chế.
Sự khác biệt trong quy định của pháp luật mỗi nước bắt nguồn từ nhu
cầu cuộc sống, thực tiễn kinh tế xã hội cũng như trình độ dân trí của quốc

18


gia bảo hộ nhằm tạo điều kiện cho mọi người đều có thể được tiếp cận với
khoa học kỹ thuật. Đặc biệt ở các quốc gia kém phát triển, các vấn đề về y
tế, sức khỏe, phòng chống dịch bệnh luôn là những vấn đề cần được quan
tâm, ưu tiên nên các loại dược phẩm, thuốc phịng bệnh khơng được coi là
đối tượng được Nhà nước bảo hộ độc quyền sáng chế. Điều này giúp cho
mọi người có cơ hội được tiếp cận với các phương pháp chữa bệnh, ngăn
ngừa dịch bệnh, đảm bảo sức khỏe chung cho cả xã hội, đây cũng chính là
sự thể hiện vai trị của chức năng xã hội của Nhà nước, ngăn chặn sự độc
quyền của một nhóm lợi ích.
Chính sách kinh tế xã hội của quốc gia bảo hộ trong mỗi thời kỳ có
những ảnh hưởng hết sức to lớn đến việc thiết lập các điều kiện bảo hộ sáng
chế. Yếu tố này ít nhiều đã và đang tạo ra sự khác biệt tương đối trong điều
kiện bảo hộ sáng chế của các quốc gia trên thế giới.
Thực tế là, hiện nay các quốc gia trên thế giới đã và đang nỗ lực hết sức
nhằm tìm kiếm sự cân bằng giữa những lợi ích của việc thúc đẩy sự phát triển
khoa học công nghệ và những giá trị đạo đức, tính nhân đạo cũng như lợi ích
của cộng đồng xã hội trong việc xây dựng cơ chế bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với sáng chế. Phương hướng giả quyết vấn đề này như thế nào của
các nhà hoạch định chính sách kinh tế, xã hội trực tiếp ảnh hưởng rất mạnh
mẽ đến điều kiện bảo hộ sáng chế của quốc gia đó. Việc bảo hộ sáng chế đối
với các giải pháp kỹ thuật liên quan đến công nghệ sinh học là một ví dụ.

Ở các nước kém phát triển hoặc đang phát triển, nơi mà nạn đói và
bệnh dịch đang là những vấn đề nóng bỏng nhất mà các Chính phủ đang phải
đối mặt thì các giải pháp kỹ thuật liên quan tới công nghệ sinh học như giống
cây trồng mới, dược phẩm… lại được coi là những đối tượng bị loại trừ khả
năng được bảo hộ sáng chế.
Có thể khẳng định rằng, việc phản ánh những định hướng chính sách

19


×