Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Đổi mới công tác tiếo công dân trong lĩnh vực khiếu nại tố cáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

---***---

TRẦN THỊ THÚY MAI

ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TIẾP CÔNG DÂN TRONG
LĨNH VỰC KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

---***---

TRẦN THỊ THÚY MAI

ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TIẾP CÔNG DÂN
TRONG LĨNH VỰC KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN – LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
MÃ SỐ: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS HOÀNG THỊ KIM QUẾ

HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIẾP CƠNG DÂN TRONG LĨNH VỰC

Trang
1
6

KHIẾU NẠI, TỐ CÁO HÀNH CHÍNH

1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về tiếp công dân
1.1.1. Quan niệm về tiếp công dân
1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tiếp công dân
1.1.3. Quy định của pháp luật về tiếp cơng dân
1.1.4. Các loại hình tiếp công dân
1.2. Đặc điểm, nội dung pháp luật về tiếp công dân trong lĩnh vực
khiếu nại, tố cáo hành chính
1.2.1. Đặc điểm của tiếp cơng dân trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo
hành chính
1.2.2. Nội dung của pháp luật về tiếp công dân trong lĩnh vực khiếu
nại, tố cáo hành chính
1.2.2.1. Quy định trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan, đơn
vị trong công tác tiếp công dân
1.2.2.2. Quy định trách nhiệm của cán bộ làm nhiệm vụ tiếp
công dân, quyền và nghĩa vụ người đến khiếu nại, tố cáo

1.2.2.3. Quy định các đảm bảo pháp lý cho việc thực hiện các
quy định về trách nhiệm của cán bộ tiếp công dân và
quyền, nghĩa vụ của người đến khiếu nại, tố cáo
1.2.2.4. Quy định trình tự, thủ tục tiếp công dân đến khiếu nại,
tố cáo tại nơi tiếp công dân
1.3. Vai trị của cơng tác tiếp cơng dân trong lĩnh vực khiếu nại, tố
cáo hành chính
1.4. Tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác tiếp công dân trong lĩnh vực
khiếu nại, tố cáo hành chính

6
6
8
14
17
21

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC TIẾP CÔNG DÂN TRONG

44

21
24
24
27
31

32
38
41


LĨNH VỰC KHIẾU NẠI, TỐ CÁO HÀNH CHÍNH

2.1. Tình hình khiếu nại, tố cáo của cơng dân và ngun nhân
2.1.1. Khái qt tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân
2.1.2. Nguyên nhân phát sinh khiếu nại, tố cáo
2.2. Thực trạng pháp luật về tiếp cơng dân trong lĩnh vực khiếu nại tố
cáo hành chính ở nước ta hiện nay

44
44
49
55


2.2.1. Khái quát sự hình thành, phát triển pháp luật về tiếp công dân
trong lĩnh vực khiếu nại tố cáo hành chính ở Việt Nam
2.2.2. Thực trạng các quy định pháp luật về tiếp công dân trong lĩnh
vực khiếu nại, tố cáo hành chính
2.3
Thực trạng cơng tác tiếp cơng dân.
2.3.1. Cơng tác chỉ đạo của Trung ương và Chính phủ
2.3.2. Hoạt động tiếp công dân
2.3.2.1. Tiếp công dân trong cả nước
2.3.2.2. Tiếp công dân tại Trụ sở tiếp dân của Trung ương Đảng và
Nhà nước
2.4
Những tồn tại và nguyên nhân dẫn đến chất lượng tiếp công dân
chưa đạt hiệu quả
2.4.1. Tồn tại trong công tác tiếp công dân

2.4.2. Nguyên nhân dẫn đến chất lượng tiếp công dân chưa đạt hiệu quả

55

CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TIẾP

76

59
61
61
63
63
65
71
71
71
73

CÔNG DÂN TRONG LĨNH VỰC KHIẾU NẠI, TỐ CÁO HÀNH CHÍNH

Quan điểm và u cầu đổi mới cơng tác tiếp cơng dân trong lĩnh
vực khiếu nại, tố cáo hành chính
3.1.1. Quan điểm về đổi mới công tác tiếp công dân trong lĩnh vực
khiếu nại, tố cáo hành chính
3.1.2. Yêu cầu đổi mới công tác tiếp công dân trong lĩnh vực khiếu nại,
tố cáo hành chính
3.2. Các giải pháp đổi mới công tác tiếp công dân trong lĩnh vực khiếu
nại, tố cáo hành chính
3.2.1. Hồn thiện hệ thống pháp luật về tiếp công dân trong lĩnh vực

khiếu nại tố cáo hành chính
3.2.1.1. Ban hành các văn bản pháp luật mới
3.2.1.2. Rà soát, bổ sung, sửa đổi bổ sung một số văn bản pháp luật
về tiếp công dân trong lĩnh vực khiếu nại tố cáo hiện nay
còn bất cập,mâu thuẫn và các văn bản trong lĩnh vực dễ
nảy sinh khiếu kiện.
3.2.2. Đổi mới nhận thức và nâng cao trách nhiệm của Thủ trưởng cơ
quan hành chính Nhà nước và những người có thẩm quyền trong cơng
tác tiếp cơng dân
3.2.3. Hồn thiện mơ hình tổ chức tiếp cơng dân trong lĩnh vực khiếu
nại tố cáo hành chính
3.1

76
76
80
86
86
88
89

91

94


3.2.4. Cải cách thủ tục hành chính tiếp cơng dân trong lĩnh vực khiếu
nại, tố cáo hành chính
3.2.5. Hồn thiện cơng tác tổ chức và nâng cao trình độ cán bộ tiếp
công dân.

3.2.5.1. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tiếp công dân
3.2.5.2. Quy định cụ thể trách nhiệm của cán bộ tiếp công dân
3.2.5.3. Thu hút cán bộ có tâm, có tài làm cơng tác tiếp công dân
3.2.6. Xử phạt nghiêm minh các hành vi vi phạm xảy ra trong q
trình tiếp cơng dân
3.2.7. Tăng cường cơ sở vật chất trang thiết bị làm việc và ứng
dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp công dân
3.2.7.1. Tăng cường cơ sở vật chất trang thiết bị làm việc
3.2.7.2. Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp công
dân
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

96
97
97
99
100
100
101
101
101
103
105


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Xuất phát từ tư tưởng lấy “dân làm gốc”, ngay sau cách mạng tháng 8 thành
cơng, nước Việt nam dân chủ cộng hịa ra đời, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã ln quan tâm đến việc thể chế hóa và hiện thực các quyền tự do, dân
chủ và đề cao vai trò của nhân dân, Điều 2, Hiến pháp 92 sửa đổi quy định:
“Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.”
Tiếp cơng dân và giải quyết khiếu nại tố cáo của nhân dân là trách nhiệm
của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội. Nhà nước phải đảm bảo và
khơng ngừng phát huy quyền làm chủ mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành
vi xâm phạm lợi ích Tổ quốc và nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, thực
hiện cơng bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện. Quyền khiếu nại, tố cáo liên quan chặt chẽ với các quyền
và nghĩa vụ cơ bản khác của công dân, là quyền dân chủ trực tiếp, là một nội dung
quan trọng của chế định dân chủ XHCN để cơng dân thơng qua đó tích cực tham
gia vào việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.
Trong thời gian qua, công tác tiếp công dân đã đạt được những thành tựu
đáng kể. Thông qua tiếp công dân, nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo đã được giải
quyết. Việc tiếp công dân đã đáp ứng được phần lớn yêu cầu của người dân,
hướng tới nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân. Thực hiện sự chỉ đạo
của Trung ương, các cấp các ngành đã có nhiều cố gắng nỗ lực trong tiếp công
dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, nên tình hình khiếu kiện cũng có những
chuyển biến tích cực. Việc giải quyết các tranh chấp trong nội bộ nhân dân và giữa
người dân với cơ quan Nhà nước được tiến hành đúng pháp luật, kỷ cương và có
hiệu quả. Cơng tác tiếp cơng dân của các ngành các cấp có những tiến bộ và dần
đi vào nề nếp góp phần nâng cao hiệu quả tiếp công dân.


Tuy nhiên, thời gian gần đây tình hình khiếu nại, tố cáo của cơng dân
diễn biến phức tạp, tình trạng khiếu kiện đông người vượt cấp tiếp tục gia tăng,
phát sinh nhiều điểm nóng gây mất ổn định xã hội. Phần lớn những khiếu kiện

của công dân liên quan đến đất đai: giải phóng mặt bằng, đền bù đất, địi lại đất
cũ, tranh chấp đất..hoặc liên quan đến việc giải quyết các chính sách chế độ về
nhà ở, chế độ trợ cấp xã hội, tố cáo cán bộ lợi dụng chức quyền tham
nhũng…Mặc dù vậy, công tác tiếp công dân ở các cấp các ngành trong thời
gian qua còn nhiều hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng
tiếp công dân. Sự yếu kém bất cập thể hiện trên nhiều mặt : bất cập về mặt thể
chế, tổ chức và quản lý công tác tiếp công dân, việc phối kết hợp giữa các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền với các cơ quan Đảng, đồn thể cịn gặp nhiều
khó khăn, đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm cơng tác tiếp cơng dân, chế độ chính
sách, cơ sở vật chất …Hạn chế này đang là rào cản cần sớm có giải pháp khắc
phục. Làm tốt cơng tác tiếp công dân phải trên cơ sở nhận thức sâu sắc quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta là Nhà nước của dân do dân và vì dân, tiếp tục
phát huy kết quả đạt được, khắc phục hạn chế thiếu sót, có bước đi thật sự thích
hợp, cùng với phương pháp, cách thức tổ chức thực hiện khoa học đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao trong công tác tiếp công dân.
Từ cách tiếp cận trên và xuất phát từ quan điểm chỉ đạo của lãnh đạo
Đảng và Nhà nước ta, xét thấy cần phải đổi mới công tác tiếp công dân trong
lĩnh vực khiếu nại tố cáo để nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu nại
tố cáo của công dân, giảm bớt khiếu kiện phức tạp kéo dài, đảm bảo trật tự ổn
định xã hội góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Với những lý do trên, là một công chức hiện đang Công tác tại Cơ quan
Thanh tra Chính Phủ là cơ quan giúp việc cho Thủ tướng Chính phủ về tiếp
cơng dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, bản thân đã từng trực tiếp tham gia
tiếp công dân đến khiếu nại tố cáo và thấy rõ những bất cập hạn chế của công
tác tiếp công dân hiện nay nên tôi chọn đề tài “Đổi mới công tác tiếp công dân
trong lĩnh vực khiếu nại tố cáo” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học Luật
tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
2



Từ trước đến nay đã có nhiều cơng trình, tài liệu nghiên cứu về tiếp công
dân trong lĩnh vực khiếu nại tố cáo như:
- Cải cách thủ tục hành chính trong tổ chức tiếp công dân và giải quyết
khiếu nại tố cáo (Đề tài khoa học, Mã số 97-98-065/ĐT) của Thanh tra Nhà
nước, 1999.
- Tiếp công dân, Xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại tố cáo trong tình
hình mới, TS Vũ Phạm Quyết Thắng (chủ biên), Nhà xuất bản Hà Nội, 2006.
- Quy trình, nghiệp vụ Tiếp cơng dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu
nại tố cáo, TS Lê Tiến Hào (chủ biên), Nhà xuất bản Hà Nội, 2007.
- Hồn thiện quy chế tiếp cơng dân và quy trình giải quyết khiếu nại tố
cáo của Thanh tra Nhà nước cấp tỉnh và Thành phố, (Luận văn thạc sỹ Luật)
của Lê Hồng Oanh Ngọc, Học viện Hành chính Quốc gia, 2008.
- “ Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo”, Luận văn thạc sĩ Luật học của Phạm Văn Long, Đại học
Luật Hà Nội,
- Đổi mới hoạt động tiếp cơng dân theo hướng hiện đại hóa, TS Bùi
Mạnh Cường, Tài liệu lưu hành nội bộ, Thanh tra Chính phủ, 2006
- Tiêu chí đánh giá kết quả cơng tác Tiếp cơng dân, giải quyết khiếu nại
tố cáo, Lữ Ngọc Bình, Tạp chí thanh tra số 8/2008.
Tuy nhiên tất cả các cơng trình, bài viết trên do đáp ứng những mục đích,
yêu cầu nghiên cứu khác nhau nên chỉ xem xét và giới hạn ở những khía cạnh
nhất định chứ chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách tập trung, tồn
diện về đổi mới cơng tác tiếp cơng dân trong lĩnh vực khiếu nại tố cáo.
Do vậy luận văn này là đề tài khoa học nghiên cứu một cách tồn diện sâu
sắc về đổi mới cơng tác tiếp cơng dân trong lĩnh vực khiếu nại tố cáo ở nước ta hiện
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
*Mục đích:


3


Trên cơ sở phân tích sự điều chỉnh pháp luật về công tác tiếp công dân
trong lĩnh vực khiếu nại tố cáo, thực trạng của hoạt động tiếp công dân thì mục
đích quan trọng mà đề tài hướng tới là làm rõ những vấn đề đang đặt ra trong
hoạt động tiếp công dân và sự cần thiết phải đổi mới để đáp ứng được yêu cầu
quản lý nhà nước, quản lý xã hội trong tình hình mới.
*Nhiệm vụ
+ Hệ thống hóa một số khía cạnh lý luận cơ bản về công tác tiếp công
dân trong lĩnh vực khiếu nại tố cáo.
+ Đánh giá thực trạng hoạt động tiếp công dân ở nước ta nói chung và cụ
thể là tại Trụ sở Tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước thông qua
các báo cáo tổng kết công tác tiếp công dân hàng năm.
+ Đề xuất các giải pháp, kiến nghị về đổi mới công tác tiếp công dân
nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tiếp công dân là một khái niệm có phạm vi rộng, bao gồm tiếp cơng dân
đến làm các thủ tục hành chính (cơng dân khơng khiếu nại, tố cáo) và tiếp công
dân đến khiếu nại tố cáo, trong Tiếp công dấn đến khiếu nại tố cáo lại chia ra
làm hai mảng: Tiếp công dân đến khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp và
Tiếp công dân đến khiếu nại tố cáo hành chính. Trong phạm vi nghiên cứu của
luận văn này, tác giả đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về tiếp
công dân trong lĩnh vực khiếu nại tố cáo hành chính theo quy định của Luật
Khiếu nại, Tố cáo và các Nghị định hướng dẫn thi hành.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Duy vật biện
chứng và Chủ nghĩa Duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh , quan điểm của
Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về khiếu nại tố cáo,
tiếp công dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học duy vật biện
chứng như phương pháp lịch sử, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiến,
4


phương pháp phân tích tổng hợp, khảo sát thực tiễn, thống kê ,đánh giá để làm
rõ mục đích và nội dung nghiên cứu của đề tài.
6. Những đóng góp mới của đề tài
+ Đề tài chứng minh được quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta
về tư tưởng lấy dân làm gốc, nếu không quan tâm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân thì Nhà nước đó sẽ khơng thể tồn tại và phát triển.
+ Đề tài hệ thống hóa một cách tương đối đầy đủ hệ thống các văn bản
pháp luật của Nhà nước điều chỉnh công tác tiếp công dân trong lĩnh vực khiếu
nại tố cáo hành chính.
+ Đề tài đánh giá tồn diện về thực trạng tiếp công dân ở nước ta, cụ thể
tại Trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước. Qua đó thấy được
những bất cập, khó khăn trong công tác tiếp công dân hiện nay.
+ Đề tài cũng đưa ra một cách có hệ thống những kiến nghị, giải pháp
đổi mới công tác tiếp công dân góp phần ổn định tình hình xã hội, xây dựng
Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cung cấp những thông tin có giá trị
giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà lập pháp, các cán bộ trực tiếp làm
công tác tiếp cơng dân nhìn nhận sâu sắc hơn về lĩnh vực rất nhạy cảm này, đề
từ đó tích cực hồn thiện pháp luật về tiếp cơng dân và giải quyết khiếu nại tố
cáo.
8. Kết cấu của đề tài.
Chương 1. Cơ sở lý luận tiếp công dân trong lĩnh vực khiếu nại tố cáo hành
chính.
Chương 2.Thực trạng của cơng tác tiếp công dân trong lĩnh vực khiếu nại tố

cáo hành chính
Chương 3. Quan điểm, giải pháp đổi mới cơng tác tiếp công dân trong lĩnh vực
khiếu nại tố cáo hành chính.

5


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIẾP CÔNG DÂN TRONG LĨNH VỰC
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO HÀNH CHÍNH
1.1.Những vấn đề lý luận cơ bản về tiếp công dân
1.1.1.Quan niệm về tiếp công dân
Trong thời kỳ phong kiến nước ta, Bộ máy Nhà nước được thiết lập theo
chế độ quân chủ, căn bệnh quan liêu cùng sự tha hóa của bộ máy quan lại là
điều khơng tránh khỏi. Đó là một trong những nguyên cớ làm nảy sinh phiền
hà, oan ức đưa đến khiếu kiện của dân chúng. Các bậc vua trị vì đều dựa vào
dân và coi chính sách an dân là chiến lược quan trọng trong quá trình cai trị đất
nước của mình. Một số triều đình phong kiến đã tạo điều kiện để người dân có
thể dễ dàng bày tỏ nguyện vọng của mình với các quan lại, triều đình.
Theo Đại việt Sử ký Tồn thư: “Vua Lý Thái Tơng (1028-1054) thường
có các chuyến vi hành về các vùng q tiếp xúc với dân, nghe dân nói và thơng
hiểu việc của dân. Để thuận lợi cho dân bày tỏ nguyên vọng và khiếu kiện khi
cần, nhà vua cho đặt hai bên tả hữu thềm rồng (tức Long trì) hai lầu chng đối
nhau để ai có việc kiện tụng, oan uổng thì đánh chng tâu trình. Nhà Lý đã đặt
ra chức quan gián Nghị đại phu với chức trách là viên quan có quyền can gián
vua trước những khiếm khuyết sai lầm” [7; tr.303] Và cũng vào thời kỳ này,
xuất phát từ việc quan tâm đến dân, thấy trước được những trở ngại trong khiếu
kiện của dân và để tạo thuận lợi cho dân được bày tỏ nguyện vọng, oan khuất,
được gửi đơn khiếu kiện, Vua Lý Anh Tông (1137 – 1175) đã cho đặt cái hòm
ở giữa sân để ai muốn bày tỏ điều gì thì ghi bì thư vào đó.

Thời kỳ nhà Trần, vào năm 1284 Vua Trần Nhân Tông đã mở Hội nghị
Diên Hồng để xin ý kiến các bơ lão về việc đánh hay hịa khi giặc Nguyên đến
xâm lấn. Mở hội nghị Diên Hồng, vị vua anh minh đã tập hợp được ý chí, sứ
mạnh trong nhân, lắng nghe được ý kiến và nguyện vọng của dân, khẳng định
quyết tâm của toàn dân đoàn kết chống giặc ngoại xâm. Để bảo đảm cho việc
xem xét khiếu kiện của dân được công minh, nhà Vua cho lập ra Ngự sử đài, có
6


quan có chức trách “ Đàn hặc các quan, nói bàn về chính sự hiện thời, phàm
các quan làm trái phép, chính sự hiện thời có thiếu sót đều được xét hoặc trình
bày, cũng là việc xét bàn về thành tích của các nha mơn, đề lĩnh, phủ dỗn, trần
thủ, hữu thủ, thừa ty và xét hỏi các vụ kiện về người quyền quý ở kinh ức hiếp
về người cai quản hà lạm” [1]. Cũng trong triều đại này đã “Cho phép thường
dân được trực tiếp tâu bày những điều oan ức khi Vua kinh lý. Chính những
việc làm cụ thể đó đã làm cho những oan uổng của dân được trên thấu hiểu, án
kiện đọng được xử ngay”[7, tr. 495].
Dưới triều Nguyễn các quy định về việc xem xét khiếu kiện và tiếp xúc
với nhân dân tiếp tục được thực hiện, chẳng hạn cho đặt chng, đặt hịm để
tạo thuận tiện cho người có khiếu kiện oan khuất thực hiện kêu cứu với cửa
quan triều đình “ Năm Mậu thân (1778), Nguyễn Ánh cho đặt hòm để nhận thư
kêu oan khuất, nhưng đồng thời cũng ngăn cấm việc bỏ thư nặc danh, vu tội
cho người khác. Thời Minh Mệnh (1820-1840) triều đình đã đặt ra pháp ty, đó
là nơi nhận đơn và thụ lý các vụ khiếu kiện của dân. Đồng thời cũng có quy
định cụ thể về việc pháp ty nhận đơn vào các ngày cố định hàng tháng. Ngồi
ra khi có khiếu kiện nếu khơng vào những ngày đã được quy định nhận đơn,
dân chúng có thể đánh hồi trống để nhân viên Pháp ty đến nhận và tâu trình lên
xem xét” [26, tr. 103].
Như vậy có thế nói từ xa xưa, cho ơng ta đã quan tâm đến vấn đề gặp gỡ
dân để biết được những tâm tư nguyện vọng, xem xét những oan ức của nhân

dân. Tuy nhiên do luật pháp thời kỳ phong kiến chưa phát triển nên việc tiếp công
dân vẫn chưa được cụ thể hóa trong một văn bản luật nào mà được lồng ghép trong
các quy định về thiết triều, vị trí của Vua chúa quan lại thời kỳ phong kiến.
Ngày nay khái niệm tiếp công dân đã thường xuyên xuất hiện trong đời
sống hàng ngày và trong các văn bản pháp luật. Theo Đại từ điển Tiếng việt “
Tiếp công dân là đón, gặp và nói chuyện ứng xử với người đến với mình” [37,
tr. 1637]. Như vậy có thể hiểu tiếp cơng dân hiện nay ở nước ta chính là hoạt
động gặp gỡ và đối thoại với dân để thơng qua đó tiếp nhận những thơng tin về
7


tâm tư nguyện vọng, biết được thắc mắc oan khuất của nhân dân. Hoạt động
tiếp công dân là một trong những hoạt động thường xuyên của các cơ quan Nhà
nước .Thông qua việc tiếp công dân, Đảng và Nhà nước lắng nghe được những
ý kiến của dân, nhận được những thơng tin kịp thời phản ánh về q trình thực
hiện các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trên cơ
sở đó Đảng và Nhà nước có thể điều chỉnh sửa đổi, bổ sung kịp thời các chính
sách, pháp luật cho phù hợp với thực tế đất nước.
1.1.2.Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tiếp công dân
Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác tiếp
công dân, phát huy quyền dân chủ của nhân dân, gắn với việc xây dựng bộ máy
Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng đã có nhiều bài viết chỉ rõ ý nghĩa tầm quan trọng của công tác tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại của nhân dân, yêu cầu trách nhiệm đối với các ngành,
các cấp trong việc tiếp nhận, xử lý giải quyết các đơn thư của người dân. Thể
chế hóa tư tưởng , quan điểm của Người, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều
chỉ thị, nghị quyết, văn bản pháp luật để không ngừng nâng cao chất lượng,
hiệu quả của công tác tiếp cơng dân giải quyết khiếu nại của nhân dân. Có thể
thấy quan điểm Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh về tiếp cơng dân
khiếu nại tố cáo là hết sức toàn diện, sâu sắc thể hiện ở những điểm cơ bản sau:

- Thứ nhất, tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo là một hình thức
biểu hiện trực tiếp của nền dân chủ XHCN, là một trong những phương thức
giám sát của nhân dân đối với Nhà nước và cán bộ, công chức Nhà nước. Ngay
sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 về thành lập Ban thanh tra đặc biệt và
nhiệm vụ của Ban thanh tra đặc biệt là “nhận các đơn khiếu nại của nhân dân”.
Hiến pháp 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước ta do chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
đạo xây dựng đã long trọng đã tuyên bố các quyền tự do dân chủ hoàn toàn của
người dân việt Nam như quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, quyền
bình đẳng nam nữ, quyền tự do ngôn luận, tự do tổ chức hội họp, tự do tín
8


ngưỡng, tự do cư trú, quyền bất khả xâm phạm về thân thể và chỗ ở…Cùng với
việc ghi nhận các quyền và tự do cơ bản của công dân, Hiến pháp 1946 còn quy
định việc xây dựng các thiết chế của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc “Nước
Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của
tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái hay trai, giầu
nghèo, giai cấp, tôn giáo”(Điều 1, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
năm 1946). Việc Hiến pháp năm 1946 ấn định các quyền và tự do cơ bản của
công dân cùng với bộ máy nhà nước bảo đảm các quyền và tự do dân chủ đó đã
gián tiếp khẳng định quyền năng chủ thể khiếu nại của công dân cũng như trách
nhiệm tiếp công dân giải quyết khiếu nại của các cơ quan Nhà nước.
Kế thừa và phát triển tư tưởng dân chủ của Hiến pháp 1946, Hiến pháp
1959 đã chính thức ghi nhận quyền khiếu nại là một trong những quyền cơ bản
của công dân. Điều 29 Hiến pháp 1959 quy định “Công dân nước Việt Nam
Dân chủ cộng hịa có quyền khiếu nại…với bất cứ cơ quan Nhà nước nào về
những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước. Những việc khiếu
nại…phải được xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi
phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi thường.”.

Đến Hiến pháp 1980, quyền khiếu nại tố cáo của công dân đã tiếp tục
được củng cố và phát triển thê một bước, điều 73 Hiến pháp 1980 xác định
“Cơng dân có quyền khiếu nại…với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về
những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và
đơn vị đó. Các điều khiếu nại…phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng.
Mọi hành động xâm phạm quyền lợi ích chính đáng của công dân phải được
kịo thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi
thường. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại…”. Và thông qua việc quy
định quyền khiếu nại tố cáo của công dân, gián tiếp khẳng định việc tiếp công
dân là một hoạt động thường xuyên của các cơ quan Nhà nước.

9


Hiến pháp 1992- Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, quyền khiếu nại của
cơng dân đã tiếp tục được hồn thiện và có một bước phát triển mới. Điều 74,
Hiến pháp 92 quy định: “Cơng dân có quyền khiếu nại…với cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc
khiếu nại,…phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn
pháp luật quy định. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm
minh. Người bị hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại,…hoặc lợi dụng quyền khiếu nại,…để
vu khống, vu cáo làm hại người khác.”
Như vậy có thể khẳng định rằng quyền khiếu nại, tố cáo chính là một
trong những quyền cơ bản của cơng dân được ghi nhận trong Hiến pháp, một
quyền có tính chất chính trị và pháp lý của cơng dân, là một hình thức biểu hiện
của dân chủ XHCN. Theo quan điểm của Đảng, nhà nước và Hồ chủ tịch quyền

khiếu nại liên quan chặt chẽ đến các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân do
vậy việc tiếp công dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các cơ quan NHà
nước của Đảng và Chính phủ. Thực hiện tốt nhiệm vụ tiếp cơng dân đến khiếu
nại tố cáo chính là giúp công dân đấu tranh chống lại các hành vi trái pháp luật
nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của chính
mình. Thơng qua tiếp cơng dân, quyền khiếu nại tố cáo của cơng dân được phát
huy và thực hiện, đó là sự biểu hiện của nền dân chủ trực tiếp để cơng dân
thơng qua đó thiết thực tham gia vào việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến đến việc tiếp công dân,
trong thư gửi đồng bào liên khu IV, Người khẳng định “Nước ta là một nước
dân chủ. Mọi cơng việc đều vì lợi ích của dân mà làm…Khi ai có điều gì oan
ức thì có thể do các đồn thể tố cáo lên cấp trên. Đó là quyền dân chủ của tất
cả công dân Việt Nam. Đồng bào cần hiểu rõ và khéo dùng quyền ấy”. Người
cho rằng việc tiếp cơng dân là để kiểm sốt sự sai lầm của người lãnh đạo và
10


bảy tỏ cách sửa chữa sai lầm, tiếp công dân là thể hiện tính chất giám sát của
nhân dân đối với Nhà nước trong giải quyết khiếu nại vì khi nhân dân khiếu nại
đã chuyển đến cho cơ quan Nhà nước những thông tin, phát hiện về những việc
làm vi phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân trên cơ sở đó Nhà nước kiểm tra lại hoạt động, hành vi của
các cơ quan và các viên chức của mình thơng qua việc giải quyết khiếu nại.
Qua đó, Nhà nước phát hiện được những hành vi tham nhũng, quan liêu, tiêu
cực cũng như các biểu hiện vi phạm pháp luật của các cán bộ, công chức để kịp
thời giáo dục, xử lý, loại trừ ra khỏi bộ máy nhà nước, làm cho bộ máy Nhà
nước trong sạch, vững mạnh. Về tác dụng này của công tác tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, Lê nin- lãnh tụ thiên tài của giai cấp vơ sản trên tồn thế giới
đã nói “Nhằm đấu tranh chống bệnh lề mề, quan liêu và phát hiện tốt hơn nữa
các hiện tượng lạm dụng, cũng như để vạch mặt và sa thải các công chức bất

lương đã chui vào các cơ quan Xô Viết, phải đặt ra và chấp hành những quy tắc
về tiếp công dân”.
Thông tư số 436/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 13/9/1958 có nhấn
mạnh “việc nghiên cứu và giải quyết thư khiếu tố của nhân dân có tác dụng
giúp chính quyền nắm tình hình chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, kịp thời uốn nắn những lệch lạc, sai lầm của cán bộ và cơ quan
Nhà nước và bổ sung chủ trương chính sách”. Cũng liên quan đến nội dung
này, Chỉ thị số 18/TTg ngày 15/1/1993 của Thủ tướng Chính phủ về cơng tác tổ
chức tiếp cơng dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một trong những
yêu cầu cấp bách và quan trọng…nhằm góp phần vào việc ngăn chặn và bài trừ tệ
nạn tham nhũng, bn lậu, tiêu pha lãng phí của cơng và các tệ nạn xã hội khác”.
- Thứ hai, Làm tốt công tác tiếp cơng dân góp phần củng cố mối quan hệ
giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng
và Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm đến việc xây dựng củng cố
mối quan hệ chặt chẽ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước bởi Người nhận
thấy ở đó sức mạnh to lớn bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp cách
11


mạng. Người nói “ Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn lắng tai nghe ý
kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng
thắng lợi”. Người đã nhiều lần chỉ ra ý nghĩa chính trị sâu sắc của cơng tác tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại của nhân dân. Trong bài nói chuyện với cán bộ
thanh tra tại Hội nghị thanh tra toàn miền Bắc ngày 5/3/1960, Chủ tịch Hồ Chí
Minh căn dặn: “Đồng bào có oan ức mới khiếu nại, hoặc vì chưa hiểu rõ chính
sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì
đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến quyền lợi của họ, do đó
mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ càng được củng cố tốt hơn.”
Theo quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp
cơng dân và giải quyết khiếu nại của người dân chính là một biện pháp quan

trọng và thiết thực để củng cố mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà
nước. Tiếp cơng dân là một hình thức biểu hiện trực tiếp mối quan hệ giữa nhân
dân với Nhà nước. Trong trường hợp các khiếu nại được các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền xem xét, giải quyết kịp thời và thỏa đáng thì những người dân đi
khiếu nại và thậm chí cả những người sống chung quanh họ sẽ cảm thấy Nhà
nước đã tôn trọng, lắng nghe ý kiến của họ, quan tâm, lo lắng đến quyền lợi của
họ và cũng rất tự nhiên họ thấy Nhà nước gần gũi, gắn bó với họ và đã thực sự
là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
- Thứ ba, việc tiếp công dân là trách nhiệm của thủ trưởng các cấp các
ngành, cơ quan, đơn vị. Theo quan điểm Đảng, Nhà nước và của Chủ tịch Hồ
Chí Minh để giải quyết kịp thời nhanh chóng dứt điểm các khiếu nại phát sinh
đòi hỏi đề cao trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan Nhà nước từ Trung
ương đến địa phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở “Làm
người lãnh đạo, làm cán bộ, viên chức Nhà nước là làm đầy tớ của dân, là công
bộc của dân. Do đó trách nhiệm của họ là phải giải quyết những công việc mà
nhân dân đề nghị, yêu cầu. Trong bài “Sao cho được lòng dân” đăng trên Báo
Cứu quốc số 65 ra ngày 12/10/1945, Người khẳng định: “Muốn cho dân u,
muốn cho được lịng dân, việc gì có lợi cho dân phải ra sức làm, việc gì có hại
12


cho dân phải hết sức tránh. Phải chú ý giải quyết các vấn đề dầu khó đến đâu
mặc lịng, những vấn đề quan hệ đến đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử
kiện cho dân mỗi khi người ta đem đến” [16, tr. 55-56]. Trong các văn bản
pháp luật về công tác giải quyết khiếu nại tố cáo từ trước đến nay, việc tiếp
công dân luôn luôn được quy định là trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan
Nhà nước. Trong thơng tư số 436-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
13/9/1958 có quy định “Việc giải quyết các đơn thư khiếu tố chủ yếu phải do
các Bộ, Ủy ban hành chính địa phương và các cơ quan chun mơn ở Trung
ương, ở địa phương tự phụ trách lấy. Ban thanh tra các cấp, các ngành có

nhiệm vụ giúp đỡ cơ quan chính quyền Trung ương và địa phương cùng cấp
giải quyết.”
- Thứ tư, giải quyết nhanh, tốt, kịp thời các yêu cầu nguyện vọng của
nhân dân là một yêu cầu quan trọng đối với các ngành, các cấp các cơ quan đơn
vị. Trong huấn thị về công tác thanh tra tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền
Bắc ngày 19/4/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trong lúc này, có
những cán bộ, đảng viên vì việc này việc khác mà kêu, cán bộ thanh tra cũng
phải xét kịp thời, chóng chừng nào, hay chừng ấy. Đối với nhân dân việc kêu
nài, có lúc khơng kêu nài nữa, cán bộ thanh tra cũng phải đi thăm dò ý kiến
nhân dân”. Đặc biệt quan tâm đến việc thực hiện nguyên tắc này trong giải
quyết khiếu nại, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một lần khác, tại Hội nghị cơng
tác thanh tra tồn miền Bắc ngày 5/3/1960 đã lại tiếp tục khẳng định: “Về công
tác xét và giải quyết các khiếu nại, tố giác, nhiệm vụ của các Ban thanh tra là
phải làm cho nghiêm chỉnh kịp thời, làm sớm chừng nào, hay chừng ấy. Đối
với nhân dân việc kêu nài, có lúc khơng kêu nài đi nữa, cán bộ thanh tra cũng
phải đi thăm dò ý kiến nhân dân”. Đặc biệt quan tâm đến việc thực hiện nguyên
tắc này trong giải quyết khiếu nại, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một lần khác,
tại Hội nghị công tác thanh tra toàn miền Bắc ngày 5/3/1960 đã tiếp tục khẳng
định: “Về công tác xét và giải quyết các khiếu nại, tố giác làm sớm chừng nào
hay chừng ấy…Ta phải giải quyết nhanh tốt, thì đồng bào thấy rõ Đảng và
13


Chính phủ ln quan tâm lo lắng đến quyền lợi của họ, do đó mối quan hệ giữa
nhân dân với Đảng và Chính phủ càng được củng cố tốt hơn”. Theo Bác thì
người dân oan ức mới khiếu nại, người dân chưa hiểu chính sách của Đảng và
Nhà nước cũng dẫn đến khiếu nại. Vậy trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước,
các tổ chức thanh tra là phải xem xét, giải quyết nhanh chóng, kịp thời mọi
khiếu nại của dân, dù khiếu nại đó là oan ức hay do chưa hiểu chính sách, pháp
luật. Và làm tốt trách nhiệm này sẽ giúp cho nhân dân thấy rõ Đảng và Nhà

nước đã quan tâm lo lắng đến quyền lợi của họ, từ đó càng củng cố thêm mối
quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
1.1.3. Các văn bản pháp luật quy định về tiếp cơng dân.
Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan chức năng đã ban hành nhiều văn
bản pháp quy điều chỉnh hoạt động tiếp công dân.
Trong Lời nói đầu Hiến pháp 92 đã viết: Hiến pháp này quy định chế độ
chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phịng an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan
Nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ,
Nhà nước quản lý. Trong việc quy định chức năng nhiệm cụ của các cơ quan
Quốc Hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân và các cơ quan
Nhà nước khác cũng đều gián tiếp quy định về trách nhiệm tiếp công dân của
các cơ quan Nhà nước, đảm bảo thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân.
Luật Khiếu nại tố cáo được Quốc hội nước Cộng hịa XHCN Việt Nam
khóa X kỳ họp thứ 4 thơng qua ngày 2/12/1998 có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/1999 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật khiếu nại tố cáo ngày
15/6/2004, và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại tố cáo ngày
29/11/2005 đều quy định: Cơng dân, cơ quan tổ chức có quyền khiếu nại quyết
định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước, của
người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước khi có căn cứ cho

14


rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật xâm phạm quyền lợi ích hợp pháp
của mình.
Cán bộ cơng chức có quyền khiếu nại quyết định kỷ luật của người có
thẩm quyền khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật, xâm phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Cơng dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
về hành vi trái pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của
công dân, cơ quan, tổ chức.
Luật Khiếu nại tố cáo cũng dành một chương , chương V : quy định về
việc tổ chức tiếp cơng dân.
Trong đó quy định, Thủ trưởng các cơ quan nhà nước có trách nhiệm
trực tiếp tiếp công dân và tổ chức việc tiếp cơng dân đến trình bày khiếu nại tố
cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại tố cáo; bố trí cán bộ có phẩm
chất tốt, có kiến thức và am hiểu chính sách, pháp luật có ý thức trách nhiệm
làm công tác tiếp công dân.
Việc tiếp công dân đến khiếu nại tố cáo đưa đơn khiếu nại tố cáo được
tiến hành tại nơi tiếp công dân.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, thủ trưởng cơ quan khác của Nhà
nước có trách nhiệm trực tiếp tiếp cơng dân theo quy định.
Ngày 7/8/1997 Chính phủ có Nghị định 89/CP ban hành kèm theo Quy
chế tổ chức tiếp công dân. Quy chế này đã thể chế hóa về tổ chức, chức năng
nhiệm vụ và quyền hạn của Trụ sở Tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà
nước. Đây là văn bản pháp quy có hiệu lực cao nhất và duy nhất từ trước đến
nay quy định về tiếp công dân. Trong văn bản này nêu rõ: Việc tiếp công dân
nhằm mục đích tiếp nhận các thơng tin kiến nghị phản ánh góp ý những vấn đề
liên quan đến chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước,
công tác quản lý của cơ quan đơn vị.; Tiếp nhận khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm
quyền giải quyết của Thủ tửởng cơ quanđơn vị mình để xem xét ra quyết định
15


kết luận giải quyết hoặc trả lời cho công dân biết theo đúng thời hạn quy định
của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; hướng dẫn công dân
thực hiện quyền khiếu nại tố cáo đung chính sách pháp luật, đúng cơ quan có

thẩm quyền để xem xét, giải quyết.
Nghị định 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại tố cáo dành chương IV quy định
về Tiếp cơng dân. Trong đó nêu rõ: Việc tiếp cơng dân đến khiếu nại tố cáo,
đưa đơn khiếu nại tố cáo được tiến hành tại nơi tiếp công dân. Thủ trưởng cơ
quan Nhà nước phải tổ chức và quản lý nơi tiếp cơng dân của cơ quan mình;
ban hành nội quy tiếp cơng dân, bố trí nơi tiếp cơng dân tại địa điểm thuận tiện;
bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết để cơng dân đến trình bày khiếu nại tố
cáo, kiến nghị, phản ánh. Tại nơi tiếp công dân phải niêm yết lịch tiếp công
dân và nội quy tiếp công dân. Lịch tiếp công dân phải được ghi cụ thể thời
gian, chức vụ người tiếp công dân. Nội quy tiếp công dân phải ghi rõ trách
nhiệm của người tiếp công dân, quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại tố
cáo [ 3].
Luật Tổ chức Quốc hội số 30/2001/QH10 ngày 25/12/2001 quy định rõ:
Hội đồng dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội có trách nhiệm tiếp cơng dân, tiếp
nhận, nghiên cứu và xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân, giám sát việc
giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân thuộc lĩnh vực Hội đồng dân tộc, Ủy
ban phụ trách.
Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp công dân. Khi nhận được kiến
nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm nghiên
cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho
người kiến nghị, khiếu nại, tố cáo biết; đôn đốc và theo dõi việc giải quyết…
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ban hành ngày
26/11/2003 cũng quy định rõ: Thường trực Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ
tiếp cơng dân, đơn đốc kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết kiến nghị,

16


khiếu nại, tố cáo của công dân, tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để

báo cáo tại kỳ họp của Hội đồng nhân dân.
Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 228 NQ/UBTVQH10
ngày 15/11/1999 về việc Đại biểu Quốc hội tiếp công dân, tiếp nhận chuyển
đơn đôn đốc theo dõi việc giải quyết khiếu nại tố cáo và kiến nghị của công dân
cũng đã quy định: Đại biểu Quốc hội tiếp công dân nhằm thu thập ý kiến
nguyện vọng, phản ánh của công dân, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ công dân
thực hiện việc khiếu nại tố cáo và nhận đơn, thư của công dân để chuyển đến
cơ quan tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký ban hành quyết định quy chế làm việc
mẫu của các cấp chính quyền, trong đó có quy định chặt chẽ về công tác tiếp
công dân. Quyết định số 75/2006/QĐ-TTg ngày 12/4/2006 ban hành quy chế
làm việc mẫu của UBND huyện, quận ,thị xã, thành phố thuộc tỉnh quy định
trách nhiệm của Chủ tịch UBND huyện phải phối hợp chặt chẽ với Thường vụ
huyện ủy, thường trực HDND huyện, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
nhân dân cấp huyện trong việc tổ chức tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố
cáo.
Ngoài ra Ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố cũng ban hành các quy định
và quy chề về tiếp cơng dân tại địa phương mình.
1.1.4. Các loại hình tiếp cơng dân.
Tiếp cơng dân phát sinh trong quá trình quản lý Nhà nước và chia thành
hai mảng khác biệt: Tiếp công dân đến làm các thủ tục hành chính và tiếp cơng
dân đến khiếu nại, tố cáo.
- Tiếp công dân đến để làm các thủ tục hành chính: hoạt động tiếp cơng
dân này diễn ra tại hầu hết các cơ quan Nhà nước.Hoạt động tiếp công dân nói
chung xuất phát từ nhu cầu tất yếu của một nền hành chính là hệ quả tất yếu từ
hoạt động quản lý hành chính Nhà nước. Quản lý hành chính Nhà nước là một
công việc đa dạng và phức tạp là đòi hỏi tự thân, khách quan của hoạt động
Nhà nước, của sự phát triển xã hội và mang tính liên tục kế thừa. Đối với một
17



quốc gia thì vấn đề quản lý Nhà nước bao giờ cũng giữ vai trị đặc biệt quan
trọng, nó quyết định sự lạc hậu hay phát triển của đất nước. Điều đó xét cho
cùng đều phụ thuộc vào nghệ thuật quản lý điều hành của Nhà nước, mà đại
diện là các cơ quan có thẩm quyền. Sự đa dạng và phức tạp của quản lý Nhà
nước được quy định bởi sự đa dạng và phức tạp của các lĩnh vực hoạt động của
Nhà nước, của xã hội bởi các công việc quản lý trong từng lĩnh vực hoạt động
đó, bởi sự phong phú của các chủ thể quản lý và bởi mối quan hệ theo chiều
dọc, chiều ngang trong nội bộ từng cơ quan quản lý, giữa các cơ quan quản lý
với nhau hoặc với công dân và các tổ chức khác. Nhà nước có bao nhiêu lĩnh
vực hoạt động thì có bấy nhiêu dạng quản lý. Mỗi một lĩnh vực hoạt động lại có
những đặc thù riêng, phạm vi mơi trường quản lý riêng. Từ đó phải có nhiều
loại cơ quan khác nhau để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trong các lĩnh
vực. Cơ quan quản lý thẩm quyền chung: Chính phủ và Ủy ban nhân dân các
cấp, cơ quan quản lý thẩm quyền riêng: bộ, ngành, sở ,phịng, ban...Và tại các
cơ quan này đều hình thành nên các bộ phận tiếp công dân để giải quyết về các
thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý của cơ quan mình. Hoạt động quản
lý hành chính bao gồm nhiều yếu tố nhưng có ba yếu tố cơ bản nhất đó là con
người (cán bộ - cơng chức), tổ chức bộ máy Nhà nước và ban hành các văn bản
quản lý mang tính quyền lực Nhà nước. Thứ nhất , yếu tố con người là đặc biệt
quan trọng giữ vai trị quyết định đối với tồn bộ q trình hoạt động quản lý.
Điều này thể hiện ở chỗ mục đích của hoạt động quản lý là vì con người, do
con người, đó là mục tiêu động lực của sự phát triển. Yêu cầu này rất quan
trọng đối với các nhà quản lý địi hỏi phải biết tơn trọng nhân dân, giải quyết
một cách đúng đắn có cơ sở khoa học và thực tế các mối quan hệ xã hội giữa
con người với con người “Anh em phải phải làm sao cho dân yêu mến. Phải
nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở
dân hết. Phải làm cho dân mến, khi sắp tới dân mong, khi đi dân tiếc, chớ vác
mặt làm quan cách mạng cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ..” [19,
tr.107]. Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII đã đề ra chiến lược cán bộ trong thời

18


kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và khẳng định “ công tác cán bộ là
quan trọng nhất, là khâu then chốt của vấn đề then chốt”. Thứ hai, tổ chức bộ
máy quản lý là một khoa học về sự thiết lập các mối quan hệ giữa các cá nhân
con người và cộng động người để thực hiện công tác quản lý theo một mục tiêu
chung, được định sẵn của cơ quan tổ chức. Đó là việc thiết lập và sắp xếp các
cơ quan quản lý theo một hệ thống thống nhất, quy định rõ ràng, cụ thể các
chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền đối với từng cơ quan trong bộ máy. Tiếp
đến là quy định các mối quan hệ theo chiều dọc, chiều ngang trực thuộc trên
dưới cho từng cơ quan trong hệ thống, tạo cho các cơ quan quản lý hành chính
vừa thống nhất từ trung ương tới cơ sở, vừa mang tính thứ bậc chặt chẽ. Thứ
ba, việc ban hành các văn bản quản lý hành chính là thể hiện rõ nét tính chất
quyền lực của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước. Chúng làm nảy sinh,
thay đổi, đình chỉ các quan hệ pháp luật hành chính. Văn bản quản lý hành
chính là văn bản dưới luật, được ban hành để cụ thể hóa và thi hành văn bản
luật nên khơng thể trái với Hiến pháp và các đạo luật. Hiệu lực của các văn bản
quản lý cũng khác nhau phụ thuộc vào cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban
hành và phạm vi điều chỉnh. Song nó cũng mang tính bắt buộc và nếu đối
tượng không thi hành sẽ bị cưỡng chế. Ba yếu tố này có quan hệ chặt chẽ với
nhau, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ; nhân sự yếu
kém, cơ chế quản lý phức tạp sẽ làm cho nền hành chính cứng nhắc, kém năng
động.
Thủ tục hành chính bao gồm những thủ tục giải quyết công việc thuộc
quan hệ nội bộ của cơ quan Nhà nước và những thủ tục liên quan đến những
công việc thuộc quan hệ của cơ quan Nhà nước với các đối tượng quản lý hành
chính Nhà nước thuộc các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, với tập thể lao
động và cá nhân công dân, cũng như người nước ngoài.
Khi thực hiện thủ tục hành chính phải bảo đảm tính chính xác, khách

quan, cơng minh. Yêu cầu này được bảo đảm bởi hoạt động của các cơ quan
Nhà nước tiến hành thủ tục. Do vậy các cơ quan được phép tiến hành thủ tục
19


phải có đủ các loại giấy tờ, tài liệu chứng cứ cần thiết và có quyền địi hỏi đối
tượng giải trình, cung cấp thơng tin, áp dụng các biện pháp khác. Các bên tham
gia thủ tục hành chính bình đẳng trước pháp luật, điều này có nghĩa là cơ quan
hành chính Nhà nước phải giải quyết các quyền lợi của chủ thể là công dân, tổ
chức khi đề nghị của họ có đủ điều kiện luật định và phải ra lệnh cho các bên
hữu quan bảo đảm quyền tự do, lợi ích hợp pháp của cơng dân. Thủ tục hành
chính được thực hiện đơn giản, tiết kiêm, trước hết cần giảm bớt các khâu, các
cửa, các giai đoạn, đồng thời tăng quyền và trách nhiệm của các cơ quan điều
hành thủ tục. Điều quan trọng là giảm tới mức tối thiểu hoặc bỏ hẳn các loại
phí và lệ phí khi tiến hành thủ tục đối với công dân và tổ chức.
Như vậy tiếp công dân giải quyết thủ tục hành chính là hoạt động tiếp
cơng dân phát sinh trong q trình quản lý hành chính Nhà nước khi cơng dân
đến làm các thủ tục hồ sơ hành chính nhằm đạt mục đích nhất định.Có thể lấy
ví dụ: Ủy ban nhân dân cấp quận, huyện được giao chức năng về cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, xác nhận hồ sơ , giải quyết các chế độ chính
sách...ở đó sẽ xuất hiện một bộ phận tiếp công dân để tiếp công dân đến làm
các thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xin hưởng các chế độ
trợ cấp....Đấy chính là hoạt động tiếp cơng dân giải quyết thủ tục hành chính
hay cịn gọi là tiếp cơng dân hành chính một cửa.
- Tiếp cơng dân trong lĩnh vực khiếu nại tố cáo : chia làm hai loại
+ Tiếp công dân trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo tư pháp.: - Khiếu nại tư
pháp là việc công dân yêu cầu cơ quan tư pháp (cơ quan điều tra, Tòa án, Viện
kiểm sát, cơ quan Thi hành án…), cán bộ, công chức có thẩm quyền trong cơ
quan tư pháp xem xét lại những quyết định, hành vi phát sinh trong hoạt động
tư pháp mà người khiếu nại cho rằng quyết định, hành vi đó đã xâm phạm đến

quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
+ Tố cáo tư pháp là việc công dân tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật
của cơ quan người có thẩm quyền trong q trình điều tra, truy tố, xét xử, thi

20


×