Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Hiến pháp với vấn đề nhân quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN BÌNH AN

HIẾN PHÁP VỚI VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và
pháp luật
Mã số

: 60 38 01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà nội – 2011


MỤC LỤC
MỤC LỤC ......................................................................................................... 2
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ...................................................................... 6
3. Mục tiêu, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài ................................ 7
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài .......................................................... 7
5. Cơ cấu của đề tài ....................................................................................... 8
CHƢƠNG 1....................................................................................................... 9
NHÂN QUYỀN - ĐỐI TƢỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA HIẾN PHÁP ............... 9
1.1. Khái quát về nhân quyền ........................................................................ 9
1.1.1. Khái niệm về quyền con người ........................................................ 9
1.1.2. Tính chất cơ bản của quyền con người ......................................... 10
1.2. Nhân quyền – Đối tƣợng điều chỉnh của Hiến pháp ............................ 23


1.2.1. Nhân quyền là đối tượng điều chỉnh cơ bản của Hiến pháp ........ 23
1.2.2. Cách thức, phạm vi điều chỉnh nhân quyền trong Hiến pháp ...... 28
CHƢƠNG 2..................................................................................................... 32
HIẾN PHÁP MỘT SỐ QUỐC GIA VỚI VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN ........... 32
2.1. Hiến pháp Hoa Kỳ ................................................................................ 32
2.2. Hiến pháp Cộng hòa Pháp .................................................................... 44
2.3. Hiến pháp Anh quốc: ........................................................................... 47
CHƢƠNG 3..................................................................................................... 49
HIẾN PHÁP VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN............................ 49
3.1. Quyền con ngƣời ở Việt Nam trƣớc Hiến pháp năm 1946 .................. 49
3.2. Hiến pháp năm 1946 với vấn đề nhân quyền ....................................... 55
3.3. Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 với vấn đề nhân quyền ............... 59

2


3.4. Bảng so sánh các quy định về quyền và nghĩa vụ công dân trong các
bản văn Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 .............................................. 68
3.5. Một số ý kiến đóng góp hồn thiện chế định quyền con ngƣời, quyền
cơng dân trong Hiến pháp năm 1992 .......................................................... 84
3.5.1. Cách thức quy định quyền con người trong Hiến pháp ................ 84
3.5.2. Sửa đổi quy định một số quyền cụ thể trong Hiến pháp ............... 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 93
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 95

3


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử nền văn minh nhân loại là một quá trình đấu tranh khẳng định
các quyền cơ bản của con ngƣời. Mặc dù còn tồn tại những tranh cãi mang
tính học thuật về quyền tự nhiên hay quyền pháp lý của quyền con ngƣời
nhƣng có thể khẳng định, quyền con ngƣời đã đƣợc ghi nhận trong các văn
kiện pháp luật của hầu hết các quốc gia. Từ thời kỳ Trung cổ ở châu Âu,
ngƣời Anh đã ban hành Hiến chƣơng Magna Carta năm 1215, theo đó khẳng
định một số quyền con ngƣời nhƣ quyền sở hữu, thừa kế tài sản, quyền tự do
buôn bán, quyền đƣợc xét xử đúng đắn và đƣợc bình đẳng trƣớc pháp luật.
Năm 1776, mƣời ba thuộc địa ở Bắc Mỹ đã tuyên bố độc lập với đế chế Anh,
thành lập Hợp chúng quốc Hoa Kỳ thông qua Tuyên ngôn độc lập khẳng định
“…mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
khơng ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Cộng hịa Pháp cũng cơng bố
Tun ngơn nhân quyền và dân quyền khi thành lập năm 1789, đã xác định
các quyền cơ bản của con ngƣời nhƣ quyền tự do và bình đẳng, quyền bình
đẳng trƣớc pháp luật, quyền khơng bị bắt giữ trái phép, quyền đƣợc coi là vô
tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội… và đề cập đến những biện pháp bảo
đảm thực hiện các quyền này. Sau này, những luận điểm về các quyền con
ngƣời của bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền cũng đƣợc ghi nhận
trong nhiều bản Hiến pháp đã đƣợc thơng qua tại nhiều quốc gia ở châu Âu,
theo đó, các quyền con ngƣời đƣợc xác định nhƣ một bộ phận cấu thành
không thể thiếu đƣợc của Hiến pháp, là mục tiêu phấn đấu và thực hiện của
các nhà nƣớc đó.
Ở Việt Nam, quyền con ngƣời đã đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện
trong Tun ngơn độc lập do ngƣời soạn thảo và công bố ngày 02/9/1945 khai

4



sinh ra nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nƣớc Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, đó là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Kể từ ngày độc lập cho đến nay, Việt Nam cũng đã tham gia nhiều hơn
vào các diễn đàn quốc tế, trong đó có diễn đàn về quyền con ngƣời. Tăng
cƣờng đối thoại, chủ động tham gia ký kết và thực hiện các cam kết và điều
ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời đang là một chủ trƣơng nhất quán của Đảng
và Nhà nƣớc ta.
Việt Nam đã ký kết và gia nhập nhiều Công ƣớc quốc tế về nhân quyền
nhƣ Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (Liên hợp quốc thông
qua năm 1966, Việt Nam gia nhập năm 1982), Công ƣớc quốc tế về các quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa (Liên hợp quốc thơng qua năm 1966, Việt Nam gia
nhập năm 1982), Cơng ƣớc xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ (Liên hợp quốc thông qua năm 1979, Việt Nam gia nhập năm 1982)…
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định
“Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi
ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân; Nhà nước tôn
trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc,
sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ cơng dân do Hiến pháp
và pháp luật quy định.”
Có thể thấy rằng, quyền con ngƣời ảnh hƣởng ngày càng mạnh mẽ và
sâu rộng trong các lĩnh vực đời sống xã hội, chính trị, văn hóa, pháp luật và
đƣợc luật pháp quốc tế, pháp luật các quốc gia ghi nhận, xác lập và thúc đẩy
cơ chế bảo đảm thực hiện. Vì vậy, đề tài này nghiên cứu vấn đề nhân quyền,
đối tƣợng điều chỉnh, cách thức, phạm vi điều chỉnh trong bản văn Hiến pháp
của một số quốc gia trong đó có Việt Nam theo những chuẩn mực quốc tế
đƣợc cộng đồng quốc tế thừa nhận, góp phần nâng cao nhận thức khoa học

5



của chúng ta về quyền con ngƣời, xây dựng các căn cứ lý luận và chính sách,
hồn thiện cơ chế bảo đảm quyền con ngƣời ở Việt Nam, mang ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nhiều thập niên qua, vấn đề quyền con ngƣời đƣợc nghiên cứu
nhiều ở cả bình diện quốc tế và quốc gia. Nhiều tổ chức quốc tế, đặc biệt là
Liên hợp quốc coi quyền con ngƣời là nội dung quan trọng trong các hoạt
động của mình. Cơ quan này đã hỗ trợ cho nhiều hoạt động nghiên cứu, tuyên
truyền, phổ biến quyền con ngƣời. Cho đến nay, Liên hợp quốc đã hình thành
đƣợc cơ chế bảo vệ quốc tế về quyền con ngƣời với sự ra đời của hàng chục
điều ƣớc, tuyên ngôn, tuyên bố về quyền con ngƣời.
Quyền con ngƣời đã đƣợc nhiều tổ chức và cá nhân nghiên cứu nhƣ:
UNDP, Human Development Report 2000: Human Rights and Human
Development, New York, 2000; United Nations, Frequently asked questions
on a human rights – based approach to development cooperation; Johannes
Morsink, The Universal Declaration of Human rights: Origins, Drafting, and
Intent, Philadelphia: University of Pennsylvania Press, 1999; trong đó, một số
cuốn sách đã đƣợc dịch sang tiếng Việt nhƣ: Jacques Mourgon, Quyền con
người, Trung tâm nghiên cứu quyền con ngƣời, Hà Nội, 1995; Wolfgang
Benedek (Chủ biên), Tìm hiểu về quyền con người, nhà xuất bản Tƣ pháp,
2008; …
Năm 2005, Bộ Ngoại giao Việt Nam chủ trì, cơng bố tập tài liệu:
“Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam”; Trung tâm
nghiên cứu quyền con ngƣời (nay là Viện nghiên cứu quyền con ngƣời trực
thuộc Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh), Việt Nam với
vấn đề quyền con người; và đề tài độc lập cấp nhà nƣớc, Quyền con người
trong thời kỳ đổi mới – thành tựu – vấn đề và phương hướng giải quyết; đề

6



tài: “Việt Nam với vấn đề quyền con người” – một cơng trình nghiên cứu do
Bộ Tƣ pháp chủ trì cùng với sự tham gia của nhiều cơ quan…
Một số cuốn sách chuyên khảo về quyền con ngƣời trong hiến pháp đã
đƣợc xuất bản nhƣ: Nguyễn Đăng Dung, Tính nhân bản của Hiến pháp và
bản tính của các cơ quan nhà nước, nhà xuất bản Tƣ pháp, 2004; Nguyễn
Văn Động, Các quyền hiến định về xã hội của công dân Việt Nam, nhà xuất
bản Tƣ pháp, 2006…
Ngoài ra, một số luận án tiến sĩ và thạc sĩ cũng đã có những nghiên cứu
nhất định liên quan đến quyền con ngƣời…
3. Mục tiêu, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
a. Mục tiêu
- Trình bày và phân tích nhân quyền là đối tƣợng điều chỉnh của Hiến
pháp.
- Cách thức quy định, phạm vi điều chỉnh vấn đề nhân quyền trong
Hiến pháp.
- So sánh các nguyên tắc và quy định về nhân quyền trong các bản Hiến
pháp Việt Nam.
b. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn ở việc nghiên cứu các quyền hiến định về nhân quyền
trong Hiến pháp của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Hiến pháp của Cộng Hòa
Pháp, nguồn pháp luật của Hiến pháp bất thành văn của vƣơng quốc liên hiệp
Anh & bắc Ailen và Hiến pháp của Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Theo tính chất của chủ đề, nội dung nghiên cứu, mục tiêu và phạm vi
nghiên cứu, các phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sẽ là phƣơng pháp tập hợp
và phân tích văn bản và tài liệu.

7



5. Cơ cấu của đề tài
Nội dung đề tài đƣợc chia làm ba chƣơng:
- Chƣơng 1: Nhân quyền – đối tƣợng điều chỉnh của Hiến pháp
- Chƣơng 2: Hiến pháp một số quốc gia với vấn đề nhân quyền
- Chƣơng 3: Hiến pháp Việt Nam với vấn đề nhân quyền

8


CHƢƠNG 1
NHÂN QUYỀN - ĐỐI TƢỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA HIẾN PHÁP
1.1. Khái quát về nhân quyền
1.1.1. Khái niệm về quyền con người
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, thuật ngữ human
rights trong tiếng Anh có thể đƣợc dịch thuần Việt là quyền con người hoặc
đồng nghĩa Hán - Việt là nhân quyền [8]. Do đồng nghĩa về mặt ngôn ngữ học
nên hai từ này đƣợc sử dụng đồng thời trong đề tài này.
Từ những thế kỷ XVII, XVIII, xã hội tƣ bản chủ nghĩa ra đời ở Châu
Âu; các cuộc cách mạng dân chủ tƣ sản đã tạo ra những cơ sở chính trị, pháp
lý của quyền con ngƣời: đó là Luật về các quyền của Anh năm 1689, Tuyên
ngôn Độc lập năm 1776 và Hiến pháp 1789 của Hoa Kỳ, Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền 1789 của Pháp, những văn kiện nhân quyền tiêu biểu, có
ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển của quyền con ngƣời trên thế giới. Theo đó,
quyền con ngƣời là những quyền cơ bản mà tạo hóa đã ban cho họ và khơng
ai có thể xâm phạm đƣợc.
Đến năm 1994, theo một tài liệu của Liên hợp quốc, United Nations:
Human Rights: Question and Answer [16], khoảng 50 định nghĩa về quyền
con ngƣời đã đƣợc công bố trên thế giới. Nhân quyền đƣợc định nghĩa một

cách khái quát là những quyền bẩm sinh, vốn có của con ngƣời mà nếu khơng
đƣợc hƣởng thì chúng ta sẽ khơng thể sống nhƣ một con ngƣời.
Cho đến nay, từ Đông sang Tây, rất nhiều định nghĩa về quyền con
ngƣời đã đƣợc đƣa ra, có những định nghĩa mang tính liệt kê một vài quyền
con ngƣời, có những định nghĩa mang tính khái qt, học giả Trung Quốc
Đồng Vân Hồ quan niệm: "có thể nói gọn lại, nhân quyền là quyền tồn tại,
phát triển một cách tự do, bình đẳng"… [3].

9


Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con ngƣời nhƣng các nhà
nghiên cứu thƣờng trích dẫn định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc
về quyền con ngƣời, theo đó, quyền con ngƣời là những bảo đảm pháp lý tồn
cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn
hại đến nhân phẩm, những sự đƣợc phép (entitlements) và tự do cơ bản
(fundamental freedoms) của con ngƣời [17].
Một định nghĩa khác có ảnh hƣởng từ những học thuyết về các quyền
tự nhiên cũng thƣờng đƣợc trích dẫn, theo đó, quyền con ngƣời là những sự
đƣợc phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không
phân biệt giới tính, chủng tộc, tơn giáo, địa vị xã hội,…; đều có ngay từ khi
sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con ngƣời.
Tại Việt Nam, định nghĩa về quyền con ngƣời của một số chuyên gia,
cơ quan nghiên cứu cũng khơng hồn tồn giống nhau, thƣờng đƣợc hiểu là
những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con ngƣời đƣợc
ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế
[10]. Cũng có định nghĩa tƣơng tự về quyền con ngƣời, là nhân phẩm, các nhu
cầu (về vật chất và tinh thần), lợi ích cùng với nghĩa vụ của con ngƣời đƣợc
thể chế hóa trong các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.

Nhƣ vậy, mặc dù có những khác biệt nhất định tùy thuộc vào sự nhìn
nhận chủ quan của mỗi cá nhân hoặc cơ quan nghiên cứu, nhƣng quyền con
ngƣời trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia đều đƣợc ghi nhận nhƣ là
những chuẩn mực đƣợc cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi và phấn đấu
thực hiện.
1.1.2. Tính chất cơ bản của quyền con người
Các nguyên tắc của quyền con ngƣời (human rights principles) hay cịn
gọi là các tính chất cơ bản của quyền con ngƣời, theo nhận thức chung của

10


cộng đồng quốc tế thể hiện trong cuốn United Nations: UN common
understanding on human rights – based approaches to development [17], bao
gồm: tính phổ biến (universal), tính khơng thể chuyển nhƣợng (tƣớc đoạt)
(inalienable), tính khơng thể phân chia (indivisiable) và tính liên hệ và phụ
thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent).
a) Tính phổ biến (universal)
Tun ngơn tồn thế giới về quyền con ngƣời nêu rõ, tất cả mọi ngƣời
sinh ra đều tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền. Mọi ngƣời đều
đƣợc phú cho lý trí và lƣơng tri và cần phải đối xử với nhau trên tình anh em.
Thơng qua bản Tun ngơn tồn thế giới về quyền con ngƣời, tính phổ biến
của quyền con ngƣời đƣợc cộng đồng quốc tế thừa nhận thể hiện ở chỗ quyền
con ngƣời là những gì bẩm sinh, vốn có của con ngƣời. Quyền con ngƣời
đƣợc áp dụng bình đẳng cho mọi ngƣời, khơng có sự phân biệt đối xử bởi bất
kỳ lý do nào về chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, thành phần xuất thân…
Nhƣ vậy, quyền con ngƣời là một giá trị chung của nhân loại, là mục đích
vƣơn tới của nhân loại.
Xét về nguồn gốc tự nhiên, quyền con ngƣời là những giá trị vốn có và
chỉ tồn tại ở loài ngƣời. Những tƣ tƣởng về quyền "tự nhiên", "trời phú” cho

con ngƣời ngay từ khi con ngƣời xuất hiện đã có từ thời cổ đại. Trong nền văn
minh Lƣỡng Hà, một trong những nền văn minh cổ đại rực rỡ khoảng năm
3000 – 1500 trƣớc CN, khoảng năm 1780 trƣớc CN, nhà vua Hammurabi của
xứ Babylon đã ban hành bộ luật Hammurabi với nhiều quy định mang nội
dung tiến bộ, thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc, theo đó, mục đích của đức
vua khi thiết lập ra đạo luật này là để “…kẻ mạnh không cịn ức hiếp được
người yếu, …làm cho người cơ quả có nơi nương tựa ở thành Babylon,…đem
lại hạnh phúc chân chính và đặt nền thống trị nhân từ cho mọi thần dân trên
vương quốc…”. Cho đến nay, tuy còn khá nhiều quan điểm khác nhau từ các

11


học giả, nhƣng xét trên nhiều khía cạnh về nội dung và niên đại, Bộ luật
Hammurabi có thể xem là một đạo luật ban hành bằng văn bản đầu tiên của
nhân loại đề cập đến quyền con ngƣời.
Ngoài Bộ luật Hammurabi, vấn đề quyền con ngƣời còn sớm đƣợc đề
cập trong nhiều văn bản pháp luật cổ khác của thế giới, trong đó tiêu biểu nhƣ
Bộ luật của vua Cyrus Đại đế ban hành vào khoảng các năm 576 – 529 TCN;
Bộ luật do nhà vua Ashoka ban hành vào khoảng các năm 272 – 231; Hiến
pháp Medina do nhà tiên tri Muhammad sáng lập vào năm 622. Ở Trung
Quốc, Mặc Tử (479 – 381 trƣớc Công nguyên) đã cho rằng quyền bình đẳng
tự nhiên của con ngƣời đó là "ý trời". Theo đó, mỗi ngƣời đều có quyền tham
gia công việc nhà nƣớc tùy theo đạo đức và tài năng của họ, chứ khơng phải
do dịng dõi quyết định. Cũng nhƣ vậy, mỗi ngƣời đều có các quyền giống
nhau và đều bị trừng phạt nếu phạm tội.
Vào thời Hậu Lê của Việt Nam, Bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc
triều Hình Luật (1470 – 1497) cũng có thể đƣợc coi là một trong những bộ
luật cổ tiêu biểu trên thế giới về quyền con ngƣời. Bởi lẽ, Bộ luật chứa đựng
nhiều nội dung tiến bộ, nhân văn sâu sắc, trong đó bao gồm cả các quy định

cụ thể về quyền của phụ nữ, trẻ em, ... và đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu pháp
luật trong nƣớc và nƣớc ngoài đánh giá rất cao.
Phát triển theo thời gian, thời kỳ Phục hƣng ở Châu Âu là giai đoạn
phát triển rực rỡ của các quan điểm, học thuyết về quyền con ngƣời. Các học
giả phƣơng Tây đã nghiên cứu, xây dựng và phát triển các vấn đề lý luận cơ
bản về quyền con ngƣời, có thể kể đến một số triết học gia sau:
o

Triết học gia ngƣời Anh Thomas Hobbes (1588 – 1679) với cuốn
sách Leviathan viết năm 1658 đƣa ra quan điểm lý thuyết về khế ƣớc
xã hội với các nguyên tắc cơ bản của tƣ tƣởng tự do châu Âu: quyền
đƣợc bầu cử của các cá nhân; quyền bình đẳng tự nhiên của tất cả mọi

12


ngƣời; tính nhân tạo của địa vị chính trị; quan điểm tất cả quyền lực
chính trị hợp pháp phải mang tính "đại diện" và dựa trên sự đồng thuận
của nhân dân; và sự diễn giải luật khá phóng thống cho phép mọi
ngƣời đƣợc làm bất kỳ điều gì mà pháp luật không cấm;
o

Triết học gia ngƣời Anh John Locke (1632 – 1704), cũng nhƣ Hobbes,
ông quan niệm, trong trạng thái tự nhiên, tất cả mọi ngƣời đều bình
đẳng và độc lập, khơng ai có quyền làm tổn hại đến ngƣời khác và mọi
ngƣời đều có quyền trừng phạt kẻ vi phạm (Luận thuyết thứ hai về
chính quyền – Second Tract of Government);

o


Triết học gia ngƣời Thụy Sỹ Jean-Jacques Rousseau (1712 – 1778) với
tác phẩm Khế ƣớc xã hội (The Social Contract) xuất bản năm 1762, khế
ƣớc xã hội là cơ sở, nguồn gốc của xã hội dân sự và chủ quyền nhân
dân;

o

Triết học gia ngƣời Anh Thomas Paine (1731 – 1809), trong cuốn
Quyền con ngƣời (The Rights of Man) năm 1791, danh từ "quyền của
con ngƣời" do ông nêu ra là ý tƣởng cách mạng. Con ngƣời ở đây mang
ý nghĩa trừu tƣợng, khơng chỉ rõ một quốc tịch, giịng giống hay giới
tính nào. Con ngƣời là danh từ chỉ nhân loại nói chung và khơng có ý
định áp dụng cho nam giới.
Phát triển những tƣ tƣởng về quyền con ngƣời của các nhà triết học ở

thời kỳ này, ngƣời Anh đã cụ thể hóa trong Luật về các quyền ở Anh năm
1689. Trong cuộc cách mạng tƣ sản ở Mỹ, Tuyên ngôn độc lập năm 1776 đã
thống nhất với cách nhìn nhận về quyền con ngƣời của John Locke: “Mọi
người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai
có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc…” [12].

13


Khác với ngƣời Mỹ, trong cuộc cách mạng tƣ sản của mình năm 1789,
ngƣời Pháp cơng bố Tun ngơn Nhân quyền và dân quyền, một văn bản
mang đầy dấu ấn của các học thuyết về nhân quyền của thời kỳ này, theo đó,
con ngƣời sinh ra đều sống tự do và bình đẳng về quyền và phải ln đƣợc tự
do và bình đẳng về quyền lợi [9].

Hai bản văn kiện này đã có ảnh hƣởng sâu rộng khơng chỉ ở hai nƣớc
này mà cịn trên tồn thế giới về sự phát triển của quyền con ngƣời cũng nhƣ
đặt nền móng cho quá trình lập pháp về quyền con ngƣời trong hệ thống văn
bản pháp luật của các quốc gia và trong các văn bản pháp luật quốc tế. Sau
này, Hoa Kỳ đã cam kết tôn trọng và thực hiện bảo vệ quyền con ngƣời thơng
qua việc cụ thể hóa các quyền đã đƣợc ghi nhận trong mƣời Tu chính án Hiến
pháp. Hiến pháp của Pháp năm 1791 cũng có những quy định bảo đảm các
quyền con ngƣời đã đƣợc nêu trong Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền.
Học thuyết về quyền con ngƣời và những cơ sở lý luận cơ bản về quyền
con ngƣời đã đƣợc phát triển sớm trong điều kiện tự nhiên – xã hội của
phƣơng Tây và quyền con ngƣời đã đƣợc ghi nhận trong nhiều văn kiện chính
trị - pháp lý khác nhau. Những học thuyết này, xét cho cùng vẫn bị chi phối
bởi những điều kiện kinh tế, xã hội và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Và quyền con
ngƣời trong các văn kiện chính trị - pháp lý đó cũng là những sản phẩm của
các điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nên vẫn còn tồn tại những hạn chế
nhất định.
Để quyền con ngƣời tiến tới là một giá trị chung của nhân loại, kế thừa
những tinh hoa của những tƣ tƣởng Cận đại về nhân quyền và vƣợt lên trên
những hạn chế của các văn kiện vừa nêu trên, Liên hợp quốc, ở buổi sơ khai
đã tốn hơn ba năm bàn bạc, xây dựng, để có thể cơng bố Tun ngơn toàn thế
giới về quyền con ngƣời năm 1948, sự khởi đầu của ngành luật quốc tế về
quyền con ngƣời. Bản Tuyên ngôn là thỏa thuận pháp lý quốc tế đầu tiên về

14


quyền con ngƣời, đƣợc đại đa số các nƣớc chấp nhận, ký kết, thơng qua, thừa
nhận tính phổ qt của các quyền con ngƣời, dựa trên việc thừa nhận phẩm
giá vốn có, các quyền bình đẳng của mọi thành viên trong gia đình nhân loại
là nền tảng của tự do, cơng lý và hịa bình trên thế giới. Đây là thành quả của

sự phát triển, sự tiến bộ và văn minh của lịch sử nhân loại, khơng chỉ mang
tính tất yếu khách quan mà còn thể hiện nguyện vọng chủ quan của con ngƣời
trên tồn thế giới, ai cũng có quyền tồn tại, có quyền phát triển và có quyền
mƣu cầu hạnh phúc.
Ngày nay, tính phổ biến của quyền con ngƣời đƣợc thừa nhận trên
phạm vi toàn cầu nhƣng vẫn tiếp tục trở thành vấn đề nổi cộm trong các cuộc
tranh luận của giới nghiên cứu cũng nhƣ giữa các chính trị gia bởi tồn tại
những quan niệm khác nhau về tính phổ biến và nội dung của quyền con
ngƣời. Mặc dù nội hàm quan niệm về quyền con ngƣời trong Tun ngơn
tồn thế giới về quyền con ngƣời của Liên hợp quốc có bao hàm các quan
niệm nhân quyền của phƣơng Tây nhƣng khơng có nghĩa là cũng đồng nhất
với họ, cũng bị giới hạn quyền con ngƣời phổ qt theo quan niệm đó. Tun
ngơn tồn thế giới về quyền con ngƣời đã xem xét quyền con ngƣời không chỉ
với tƣ cách quyền tự nhiên bẩm sinh, mà còn là quyền có tính xã hội, khơng
chỉ đơn thuần xem quyền con ngƣời là những quyền chính trị mà cịn là
những quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền phát triển.
Theo nhà nghiên cứu Ngơ Đình Xây, quyền con ngƣời bao giờ và ở đâu
cũng luôn luôn là sản phẩm của một trình độ phát triển sản xuất – xã hội nhất
định [14]. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, khơng phải Tun ngơn tồn thế giới về
quyền con ngƣời của Liên hợp quốc khơng có những hạn chế của nó; khơng
phải những chuẩn mực mang tính phổ biến về quyền con ngƣời trong Tuyên
ngôn và các văn kiện pháp lý quốc tế đã đƣợc Liên hợp quốc thông qua đều
mang tính bất biến, khơng thể thay đổi theo dịng lịch sử và phản ánh đầy đủ

15


quyền con ngƣời. Ngƣời ta có thể nói đến việc trong Tun ngơn tồn thế giới
về quyền con ngƣời khơng có một số quyền con ngƣời đặc biệt quan trọng mà
các văn kiện quốc tế khác phải bổ sung (các Cơng ƣớc quốc tế về các quyền

dân sự, chính trị 1966, Công ƣớc quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa 1966, Tuyên bố về quyền của các dân tộc đƣợc sống trong hịa bình
1984…), nhƣ các quyền của nhóm, quyền phát triển, quyền đƣợc sống trong
hịa bình, quyền đƣợc sống trong môi trƣờng trong lành, quyền với các nguồn
tài nguyên thiên nhiên,… Cùng với các công ƣớc quốc tế này, rất nhiều các
văn kiện khác sau này đã đƣợc thơng qua với mục tiêu hƣớng tới hồn thiện
hơn những chuẩn mực quốc tế về quyền con ngƣời cũng nhƣ phản ánh đầy đủ
và toàn diện quyền con ngƣời trong xu thế phát triển của xã hội.
Mặc dù còn nhiều bất đồng trong quan niệm về quyền con ngƣời giữa
các nhà nghiên cứu, các chính trị gia cũng nhƣ giữa nhiều quốc gia, nhƣng
trong các quan niệm ấy đều tồn tại một cơ sở chung làm nên tính phổ biến về
quyền con ngƣời, đó là nhân phẩm (hay phẩm giá con ngƣời – human
dignity). Ngay từ lời nói đầu của Tun ngơn tồn thế giới về quyền con
ngƣời, phẩm giá con ngƣời đã đƣợc thừa nhận là cơ sở chung của quyền con
ngƣời: “Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và khơng thể
tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, cơng
bằng và hịa bình trên thế giới”. Tuyên ngôn cũng đã khẳng định mọi ngƣời
đều đƣợc tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền (Điều 1). Phẩm giá
con ngƣời là những giá trị phản ánh và tạo nên phẩm chất của chính bản thân
con ngƣời, chỉ con ngƣời mới có và phân biệt giữa con ngƣời với thế giới
động vật.
Một nhà nghiên cứu cho rằng, quyền con ngƣời đƣợc xây dựng trên cơ
sở tôn trọng nhân phẩm và giá trị của mỗi cá nhân có nghĩa là tất cả các quyền
con ngƣời đều xuất phát từ chính nhân phẩm và giá trị của con ngƣời [11].

16


Con ngƣời là một chủ thể đặc thù trong thế giới tự nhiên, bản chất của từng
con ngƣời gắn liền với phẩm giá và giá trị của con ngƣời họ. Phẩm giá chỉ

thuộc về con ngƣời, mang giá trị tuyệt đối không bị lệ thuộc hoặc phân chia
hay xâm phạm bởi bất kỳ sự phân biệt hoặc ngoại lệ nào về dân tộc, chủng
tộc, giới tính, trình độ, địa vị xã hội… bởi vì phẩm giá con ngƣời có tính phổ
biến. Việc này đã đƣợc ghi nhận trong Tuyên ngôn tồn thế giới về quyền con
ngƣời: “Khơng ai bị bắt làm nô lệ hoặc bị cưỡng bức làm việc như nơ lệ; mọi
hình thức nơ lệ và bn bán nơ lệ đều bị cấm” (điều 4); “Không ai bị tra tấn
hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân
phẩm” (điều 5).
Phẩm giá con ngƣời là giá trị phổ biến của quyền con ngƣời, phản ánh
bản chất của từng con ngƣời. Bên cạnh tính phổ biến, quyền con ngƣời cịn có
tính khơng thể chuyển nhƣợng.
b) Tính khơng thể chuyển nhƣợng (tƣớc đoạt) (inalienable)
Hệ thống pháp luật quốc gia của đa số các quốc gia trên thế giới cũng
nhƣ các văn kiện pháp lý quốc tế đã có những ghi nhận, tơn trọng, bảo vệ và
đảm bảo cơ chế thực thi các quyền con ngƣời trong điều kiện sống bình
thƣờng để con ngƣời sống đúng với tƣ cách ngƣời.
Mỗi con ngƣời tự do tham gia vào đời sống xã hội, có quyền tự do ý
chí, thể hiện nguyện vọng của bản thân và tự gánh chịu trách nhiệm về hành
vi, hoạt động của mình và mọi hậu quả pháp lý của những hành vi, hoạt động
đó. Trong Tun ngơn tồn thế giới về quyền con ngƣời, điều 9 nhấn mạnh: “
Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện”. Bất kỳ một chủ thể
nào bao gồm cả cơ quan công quyền hay cơng chức nhà nƣớc cũng khơng có
quyền tƣớc đoạt một cách tùy tiện các quyền tự do ý chí, thể hiện nguyện
vọng đó của mỗi cá nhân trong xã hội. Sự tùy tiện tƣớc đoạt quyền con ngƣời

17


bởi một chủ thể nào đó là sự vi phạm các quyền con ngƣời đã đƣợc pháp luật
bảo vệ.

Bên cạnh đó, bất cứ ai, khơng những khơng đƣợc quyền tƣớc đoạt mà
cịn khơng đƣợc quyền hạn chế hoặc xâm phạm một cách tùy tiện các quyền
con ngƣời của mỗi cá nhân. Điều 12 của Tun ngơn tồn thế giới về quyền
con ngƣời quy định: “Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tùy tiện vào
cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh
dự hoặc uy tín cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống
lại sự can thiệp và xâm phạm như vậy”.
Tất cả những quy định đó của pháp luật đều hƣớng tới mục đích chung,
đó là bảo vệ con ngƣời và bảo vệ quyền con ngƣời, sự bình đẳng pháp lý của
mọi cá nhân, quyền tự do dân chủ của họ và những bảo đảm cho các quyền và
tự do đó.
Nhƣ vậy, có thể hiểu rằng, quyền tƣớc đoạt hoặc quyền hạn chế các
quyền con ngƣời chỉ có thể xảy ra hay đƣợc thực hiện trong những trƣờng
hợp cụ thể, đặc biệt. Đó là khi một ngƣời thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
đã đƣợc xác định bởi một phán quyết của tòa án có thẩm quyền đã có hiệu lực
pháp luật thì ngƣời đó mới bị tƣớc đoạt hoặc bị hạn chế một số quyền con
ngƣời. Sự tƣớc đoạt hoặc hạn chế một số quyền con ngƣời của ngƣời bị tƣớc
đoạt hoặc bị hạn chế thực chất là nhằm bảo vệ các quyền con ngƣời của ngƣời
khác bị ảnh hƣởng bởi hành vi vi phạm pháp luật của ngƣời bị tƣớc đoạt hoặc
bị hạn chế gây ra. Do đó, cơ sở lý luận cho sự tƣớc đoạt hoặc hạn chế ở đây
có thể đƣợc hiểu ở góc độ bảo vệ các quyền con ngƣời. Chính vì vậy, điều
29.2 của Tun ngơn tồn thế giới về quyền con ngƣời khẳng định:
Khi thụ hƣởng các quyền và tự do của mình, mọi ngƣời
chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo
đảm sự cơng nhận và tơn trọng thích đáng đối với các quyền và

18


tự do của ngƣời khác, cũng nhƣ nhằm đáp ứng những u cầu

chính đáng về đạo đức, trật tự cơng cộng và phúc lợi chung trong
một xã hội dân chủ.
Các quyền và tự do của con ngƣời không chỉ mang tính khơng thể
chuyển nhƣợng, khơng thể bị tƣớc đoạt hoặc hạn chế một cách tùy tiện, mà
bản thân các quyền cịn có giá trị quan trọng nhƣ nhau, đó là tính khơng thể
phân chia.
c) Tính khơng thể phân chia (indivisiable)
Trong sự vận động phát triển của xã hội, các mối quan hệ về chính trị,
kinh tế, xã hội ngày càng phong phú, phức tạp và đa dạng, làm tiền đề bổ
sung cho sự phát triển các quyền con ngƣời, đáp ứng các nhu cầu của con
ngƣời, đó là các quyền kinh tế, quyền chính trị, quyền dân chủ, quyền văn
hóa… Trong các văn kiện pháp lý quốc tế, về nguyên tắc, các quyền con
ngƣời này đƣợc xác định có tầm quan trọng nhƣ nhau, khơng có quyền nào
đƣợc xem là quan trọng hơn hoặc cao hơn các quyền khác. Các quyền đều
ngang nhau về mặt giá trị.
Tổng thể các quyền và tự do của con ngƣời có sự giao thoa, sự đan xen
quan hệ và sự gắn bó mật thiết với nhau giữa các quyền. Các quyền chính trị,
dân sự mặc dù cần thiết và quan trọng nhƣng không thể cao hơn, quan trọng
hơn các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội. Có thể nhận thấy, sự xác nhận về
mặt nguyên tắc tầm quan trọng nhƣ nhau của các quyền con ngƣời bảo đảm tự
do, nhân phẩm của con ngƣời. Bởi vì, nhân phẩm và giá trị của con ngƣời là
cơ sở chung để xây dựng nên tất cả các quyền con ngƣời. Bất kỳ một quyền
con ngƣời nào không đƣợc thực hiện hay bị hạn chế hoặc tƣớc bỏ cũng nhƣ
việc đề cao một quyền nào đó và hạ thấp quyền khác đều gây bất lợi, ảnh
hƣởng tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển con ngƣời. Tác động
tiêu cực đến sự phát triển con ngƣời là do con ngƣời có thể phát triển tồn

19



diện khi đƣợc thụ hƣởng đầy đủ các quyền con ngƣời và ngang nhau về giá
trị, hay nói cách khác, các quyền con ngƣời khi đƣợc xác định có tầm quan
trọng ngang nhau tác động tích cực đến sự phát triển toàn diện của con ngƣời.
Nhƣ nhà nghiên cứu nhân quyền nổi tiếng Philip Aston đã phát biểu rằng:
“Do tất cả các quyền con người đều là cần thiết và cốt yếu nên không được
coi quyền nào quan trọng hơn quyền nào” [10].
Tuy nhiên, tùy thuộc vào những hoàn cảnh khác nhau và những chủ thể
khác nhau, dựa trên những yêu cầu thực tế, một số quyền nhất định có thể
đƣợc nhấn mạnh, đƣợc ƣu tiên thực hiện hoặc đƣợc chú ý bảo vệ. Trong một
phạm vi hẹp, có thể kể đến một số trƣờng hợp cụ thể nhƣ trƣờng hợp những
ngƣời bị bệnh tật hoặc trƣờng hợp dịch bệnh bùng phát tại một nơi nào đó.
Lúc này, quyền đƣợc chăm sóc y tế cùng với những biện pháp cần thiết để
bảo đảm thực thi quyền đó sẽ đƣợc ƣu tiên thực hiện. Việc ƣu tiên thực hiện
quyền đƣợc chăm sóc y tế có thể làm ảnh hƣởng đến các quyền khác trong
khoảng thời gian bị bệnh tật hoặc bị dịch bệnh, nhƣng khơng đồng nghĩa rằng
quyền này có giá trị hoặc đƣợc đánh giá có mức độ quan trọng cao hơn các
quyền khác. Trên cơ sở những yêu cầu thực tế, quyền đƣợc chăm sóc y tế là
nhu cầu cấp thiết của con ngƣời, hoàn toàn phù hợp với tình hình tại thời
điểm đó. Sức khỏe con ngƣời đƣợc đảm bảo mới có thể bảo đảm các quyền
con ngƣời khác.
Trong phạm vi rộng hơn, nhóm chủ thể là phụ nữ và trẻ em cũng đƣợc
bảo đảm một số quyền ƣu tiên. Phụ nữ và trẻ em là những nhóm ngƣời có dễ
bị tổn thƣơng về các quyền cơ bản của con ngƣời. Họ là nạn nhân của sự vi
phạm các quyền con ngƣời đƣợc che đậy và bao biện bởi các yếu tố khách
quan nhƣ lý do truyền thống, văn hóa… Chính vì vậy, cộng đồng quốc tế đã
thơng qua một số công ƣớc quốc tế (Công ƣớc về xóa bỏ tất cả các hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979; Công ƣớc về quyền trẻ em năm 1989)

20



mang tính phổ quát về việc bảo vệ riêng quyền của phụ nữ và trẻ em, đặt ra
một số quyền ƣu tiên cho nhóm ngƣời này. Những quyền đƣợc ƣu tiên hoặc
đƣợc bảo vệ riêng này không đồng nhất với việc xác nhận giá trị cao hơn hoặc
quan trọng hơn các quyền con ngƣời khác. Các quyền con ngƣời cơ bản của
phụ nữ và trẻ em đều quan trọng nhƣ nhau, nhƣng vì là nhóm xã hội dễ bị tổn
thƣơng, có nguy cơ bị đe dọa và bị vi phạm nên cần có những ƣu tiên nhất
định để đảm bảo các quyền cho họ.
Theo một nhà nghiên cứu quyền con ngƣời, thì những ƣu tiên (trong
việc thực hiện quyền con ngƣời) nếu nhƣ là cần thiết, thì cần phải đƣợc xác
định phù hợp với những khái niệm và nguyên tắc cốt lõi trên lĩnh vực này
(chẳng hạn nhƣ nguyên tắc khơng phân biệt đối xử, ngun tắc bình đẳng và
tham gia) [10].
Ngồi tính khơng thể phân chia này cùng với hai tính chất khác đã đƣợc
nêu ở trên, quyền con ngƣời cịn có một đặc tính là tính liên hệ và phụ thuộc
lẫn nhau.
d) Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent)
Hiện nay, các quyền con ngƣời ngày càng đƣợc thúc đẩy phát triển
mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu với những cơ sở pháp lý ngày càng đƣợc củng
cố, mở rộng và hoàn thiện về nội dung và mức độ bảo đảm. Từ lúc chỉ có các
quyền chính trị, dân sự, hệ thống các quyền con ngƣời đã đƣợc bổ sung thêm
các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền tự quyết dân tộc…
Quyền con ngƣời mang tính tồn diện, chúng khơng tồn tại một cách
độc lập, tách rời với nhau mà tồn tại trong một tổng thể có mối liên hệ mật
thiết, chúng phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau và coi trọng nhƣ nhau, trong đó,
việc đảm bảo toàn bộ hoặc một phần các quyền này là điều kiện để đảm bảo
toàn bộ hoặc một phần các quyền khác và ngƣợc lại.

21



Một xã hội phát triển, đảm bảo tốt các quyền và tự do chính trị, dân sự
sẽ có những tác động tích cực trực tiếp và gián tiếp đảm bảo các quyền kinh
tế, văn hóa, xã hội. Và ngƣợc lại, các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội đƣợc đảm
bảo thì các quyền chính trị, dân sự sẽ đƣợc thực thi tốt.
Điều này thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa các quyền con ngƣời,
những tiến bộ trong việc bảo đảm quyền con ngƣời này tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho các quyền con ngƣời khác đƣợc bảo đảm, tôn trọng, và ngƣợc lại, sự
vi phạm quyền con ngƣời này sẽ có những tác động tiêu cực, đe dọa trực tiếp
hoặc gián tiếp tới các quyền con ngƣời khác. Thực vậy, nếu các quyền và tự
do chính trị và dân sự nhƣ quyền bầu cử, ứng cử, tự do đi lại, cƣ trú, tự do hội
họp, … bị hạn chế trong một quốc gia nào đó thì tất yếu sẽ có những ảnh
hƣởng tiêu cực đến sự thụ hƣởng các quyền về kinh tế, văn hóa và xã hội của
mọi ngƣời trong quốc gia đó. Ngƣợc lại, ngƣời dân ở một quốc gia có trình độ
dân trí thấp, nghèo đói, lạc hậu thì khó có thể bảo đảm về tự do cá nhân (các
quyền chính trị, dân sự) của ngƣời dân nhƣ quyền bầu cử, quyền ứng cử,
quyền tham gia vào quản lý đất nƣớc… có thể đƣợc thực hiện tốt. Đối với
những ngƣời dân nghèo đói hay mù chữ, những quyền chính trị, dân sự này
thực sự khơng mang lại ý nghĩa gì với họ. Mức độ thụ hƣởng các quyền và tự
do chính trị và dân sự chắc chắn sẽ bị tổn hại, bị sút giảm nghiêm trọng trong
điều kiện kinh tế - xã hội nhƣ vậy. Nói cách khác, việc bảo đảm tốt các quyền
dân sự, chính trị sẽ thúc đẩy sự thụ hƣởng các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
và ngƣợc lại [10].
Chính vì vậy, chỉ có thể thực sự thành cơng trong việc bảo đảm các
quyền con ngƣời khi chúng đƣợc tiến hành một cách toàn diện và tổng thể,
chú trọng thực thi đầy đủ các quyền, không thể bảo đảm riêng quyền con
ngƣời này mà không chú ý tới các quyền khác.

22



1.2. Nhân quyền – Đối tƣợng điều chỉnh của Hiến pháp
1.2.1. Nhân quyền là đối tượng điều chỉnh cơ bản của Hiến pháp
Quyền con ngƣời là quyền tự nhiên hay quyền pháp lý? Kéo dài từ thời
Cận đại cho đến ngày nay, tranh cãi về hai trƣờng phái này vẫn tiếp tục tiếp
diễn, không thể chấm dứt và khẳng định đƣợc trƣờng phái nào hợp lý bởi
những ảnh hƣởng sâu sắc của các vấn đề chính trị, xã hội, pháp luật, đạo đức,
triết học…
Ngƣợc theo dòng lịch sử nhân loại, từ thời cổ đại, quyền tự nhiên của
con ngƣời đã đƣợc đề cập đến. Nhiều học giả và triết gia Hy Lạp cổ đại đã
khẳng định con ngƣời là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Vào thế
kỷ thứ năm trƣớc công nguyên, nhà soạn giả Sophocles (497 - 405 TCN),
trong tác phẩm Antigone của mình, đã nêu bật một quan điểm rằng, con ngƣời
khi sinh ra đều bình đẳng với nhau, sở dĩ có ngƣời đƣợc làm chủ nhân và có
ngƣời phải làm tơi mọi cho ngƣời khác là do hồn cảnh thời thế mà thơi. Còn
nhà triết học Epicuros (341 - 270 TCN) cho rằng, quan hệ của con ngƣời với
con ngƣời là quan hệ tự do, có mục đích, và do vậy, đó cũng chính là hạnh
phúc của con ngƣời. Theo triết gia này, quyền tự do cá nhân của con ngƣời có
đƣợc xuất phát từ các quy luật chung của tồn tại vũ trụ, không phụ thuộc vào
những quy định của các chuẩn mực xã hội. Nhƣ vậy, có thể hiểu những quan
điểm trên đây rằng, con ngƣời có những quyền tự nhiên theo nghĩa là những
quyền lợi gắn với bản tính của con ngƣời, nghĩa là bẩm sinh chứ không do
xã hội ban cấp và thu hồi.
Thời kỳ Phục hƣng và Cận đại, khái niệm về quyền con ngƣời đƣợc
xuất hiện cụ thể và đƣợc khái quát nên thành các học thuyết và tƣ tƣởng về
nhân quyền. Nhiều học thuyết và tƣ tƣởng theo khuynh hƣớng quyền tự nhiên
của con ngƣời (hay còn gọi là thuyết nhân quyền bẩm sinh) đã đƣợc phát triển
mạnh mẽ. Những học giả tiêu biểu cho khuynh hƣớng quyền tự nhiên tại thời

23



kỳ này đƣợc nhắc đến nhƣ Thomas Hobbes, John Locke… Theo quan niệm
của triết gia Thomas Hobbes (1588 – 1679) đƣợc nêu trong chƣơng 13 của tác
phẩm “Leviathan” cho rằng, quyền con ngƣời là quyền tự nhiên, con ngƣời
bẩm sinh đã có:
Tự nhiên sinh ra con ngƣời bình đẳng về phƣơng diện
năng lực vật lý và năng lực trí tuệ, bởi lẽ mặc dù đôi khi chúng ta
nhận thấy rằng ngƣời này mạnh hơn và thông minh hơn ngƣời
kia, song nếu xem xét chung tất cả, ta mới ngộ ra là sự khác nhau
giữa chúng không lớn đến mức ngƣời này, căn cứ vào sự khác
nhau ấy, có thể đạt đƣợc nhiều điều lợi hơn cho mình cịn ngƣời
kia khơng thể có cái quyền ấy.
Quyền tự nhiên cốt yếu của con ngƣời đƣợc thể hiện ở chỗ “mỗi người làm
chủ cuộc sống và thân thể của riêng mình căn cứ vào khả năng của mình”.
Hơn ba mƣơi năm sau khi Thomas Hobbes cho ra đời tuyển tập “Leviathan”,
nhà triết học John Locke (1632 – 1704) đã cho xuất bản tác phẩm kinh điển
của triết học nƣớc Anh với tựa đề Luận về sự Hiểu biết của Con ngƣời (An
Essay Concerning Human Understanding) và Luận thuyết thứ hai về chính
quyền (Second Tract of Government). Triết gia John Locke cũng có quan
niệm trong trạng thái tự nhiên, tất cả mọi ngƣời đều bình đẳng và độc lập,
khơng ai có quyền làm tổn hại đến ngƣời khác và mọi ngƣời đều có quyền
trừng phạt kẻ vi phạm. Sau này, trong các cuộc cách mạng tƣ sản ở Hoa Kỳ,
Pháp, quyền tự nhiên của con ngƣời đã đƣợc khẳng định trong các bản Tuyên
ngôn độc lập (Hoa Kỳ), Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền (Pháp). Kể cả
Tun ngơn tồn thế giới về quyền con ngƣời đã đƣợc thông qua bởi đa số
các quốc gia trên thế giới cũng cho rằng quyền con ngƣời là các quyền tự
nhiên và vốn có (Điều 1).

24



Các học thuyết về quyền pháp lý ra đời muộn hơn so với các học thuyết
và tƣ tƣởng về quyền tự nhiên, xuất hiện từ thời kỳ Phục hƣng. Các học giả
điển hình cho học thuyết về quyền pháp lý đƣợc nhắc tới là Edmund Burke
(1729 – 1797) với tác phẩm Suy nghĩ về cách mạng Pháp (Reflections on the
Revolution in France) xuất bản năm 1770 và Jeremy Bentham (1748 – 1832)
với tác phẩm Phê phán học thuyết về các quyền tự nhiên, không thể chuyển
nhƣợng (Critique of the Doctrine of Inalienable, Nature rights) xuất bản năm
1843. Theo những học giả này, quyền con ngƣời phải do nhà nƣớc quy định
trong các văn bản pháp luật chứ không phải bẩm sinh mà có.
Nhìn nhận những quan niệm nêu trên, có thể nhận thấy sự tuyệt đối hóa
hai khía cạnh cơ bản của quyền con ngƣời là quyền tự nhiên hay quyền pháp
lý đều không phù hợp. Những quan niệm cực đoan trong các học thuyết của
hai trƣờng phái này nhƣ là khơng có pháp luật thì khơng thể có quyền con
ngƣời hoặc quyền con ngƣời đứng trên Nhà nƣớc,… đều thể hiện tính hạn
chế.
Mặc dù thừa nhận quyền con ngƣời là các quyền tự nhiên và vốn có
nhƣng Tun ngơn toàn thế giới về quyền con ngƣời, tại Điều 29, vẫn khẳng
định quyền và tự do của con ngƣời chỉ có thể đƣợc thực hiện và bảo vệ khi
đƣợc pháp luật ghi nhận. Và để các quyền con ngƣời đƣợc tuân thủ và thực thi
trong thực tế, thì các bản tuyên ngôn và điều ƣớc quốc tế phổ biến vẫn chƣa
đủ để đảm bảo mà các quyền đó cịn phải đƣợc ghi nhận trong hệ thống pháp
luật tại từng quốc gia. Hiện nay, đại đa số các quốc gia đều thể hiện quyền
con ngƣời là các quyền pháp lý trong các văn bản pháp luật của mình. Tất
nhiên, quyền con ngƣời không đơn giản chỉ là việc liệt kê con ngƣời có những
quyền này, quyền kia mà cịn phải có những nguyên tắc, biện pháp và chế
định bảo đảm thực hiện và bảo vệ những quyền con ngƣời đó trong thực tế.
Bên cạnh sự thể hiện quyền con ngƣời một cách đầy đủ, rõ ràng, mang tính


25


×