Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản theo luật hình sự việt nam trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ VĂN HIẾU

PH¹M TéI Có Tổ CHứC TRONG TộI CƯớP GIậT TàI SảN
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)

LUN VN THC S LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ VĂN HIẾU

PH¹M TéI Có Tổ CHứC TRONG TộI CƯớP GIậT TàI SảN
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHẮC HẢI

HÀ NỘI - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đỗ Văn Hiếu


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC
TRONG TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM.......................................................................................... 9
1.1.

Khái niệm và các đặc điểm của phạm tội có tổ chức đối với

tội cướp giật tài sản ............................................................................ 9

1.1.1. Khái niệm phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản .................. 9
1.1.2. Các đặc điểm của phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản ........ 14
1.2.

Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với phạm tội có tổ
chức trong tội cướp giật tài sản....................................................... 21

1.2.1. Trách nhiệm hình sự đối với phạm tội có tổ chức trong tội cướp
giật tài sản........................................................................................... 21
1.2.2. Hình phạt đối với phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản ........ 26
1.3.

Pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tổ chức trong tội
cướp giật tài sản................................................................................ 28

1.3.1. Những quy định về phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài
sản trong Bộ luật hình sự năm 1999................................................... 28
1.3.2. Văn bản hướng dẫn thi hành các quy định về phạm tội có tổ chức
trong tội cướp giật tài sản trong Bộ luật hình sự................................ 33


Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO
ĐẢM THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHẠM TỘI CÓ TỔ
CHỨC TRONG TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRONG BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ......................................................... 37
2.1.

Thực tiễn điều tra, xét xử các vụ án đồng phạm và phạm tội

có tổ chức trong tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố
Hải Phòng .......................................................................................... 37

2.2.

Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân làm giảm hiệu quả
điều tra, xét xử các vụ án phạm tội có tổ chức trong tội cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Hải Phòng ............................. 48

2.2.1. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân từ pháp luật thực định ........ 48
2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong điều tra ...................... 51
2.2.3. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong xét xử ........................ 54
2.3.

Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về phạm tội có tổ
chức trong tội cướp giật tài sản trong Bộ luật hình sự ................. 56

2.3.1. Kiến nghị tại phần chung của Bộ luật hình sự ................................... 58
2.3.2. Kiến nghị tại phần các tội phạm của Bộ luật hình sự ........................ 62
2.4.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý các vụ án phạm tội
có tổ chức trong tội cướp giật tài sản ............................................. 64

2.4.1. Giải pháp đối với công tác điều tra .................................................... 64
2.4.2. Giải pháp đối với công tác xét xử ...................................................... 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 72



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

TAND:

Tịa án nhân dân

TANDTC:

Tịa án nhân dân tối cao

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Tên bảng

Số hiệu

Trang


Bảng 2.1 Số lượng vụ án và bị cáo tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2013-2018

42

Bảng 2.2 Số lượng vụ án cướp giật tài sản có đồng phạm trên địa
bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2013-2018

42

Bảng 2.3 Thống kê các vụ án xét xử sơ thẩm đối với tội cướp giật
tài sản có đồng phạm trên địa bàn thành phố Hải Phòng
giai đoạn 2013-2018

43


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phần lớn các quốc gia trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam sử dụng
luật hình sự như là cơng cụ hiệu quả để đấu tranh chống tội phạm được thực
hiện dưới hình thức “có tổ chức”, tuy rằng cách quy định về dấu hiệu này ở
các quốc gia lại có những khác biệt.
Với tính chất là một dạng đồng phạm đặc biệt, thể hiện sự nguy hiểm
cao bởi một nhóm người có sự câu kết chặt chẽ thơng qua chính cơ cấu tổ
chức (băng, nhóm, tổ chức, liên minh …) và sự bàn bạc, tính tốn, phân cơng,
lên kế hoạch nhằm thực hiện tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng, Phạm tội có tổ chức đã xuất hiện từ khá lâu trong lịch
sử lập pháp hình sự của Việt Nam, được đề cập lần đầu tiên trong Thơng tư số
442/TTG ngày 19/11/1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc trừng trị một số

tội phạm. Cho đến nay, Phạm tội có tổ chức được ghi nhận trong Bộ luật hình
sự năm 1999 với tính chất là “hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ
giữa những người cùng thực hiện tội phạm”.
Về mặt lý luận luật hình sự, cịn có nhiều ý kiến khác nhau về bản chất
pháp lý của khái niệm phạm tội có tổ chức nói chung. Cịn nhiều luồng quan
điểm trái chiều liên quan đến cách hiểu về dạng đồng phạm đặc biệt này –
phạm tội có tổ chức. Điều này ảnh hưởng đến cách áp dụng tình tiết này trong
tội cướp giật tài sản
Về mặt lập pháp hình sự, khó khăn gặp phải là hệ thống pháp luật hiện
nay chưa bảo đảm được cơng tác phịng ngừa và đấu tranh chống tội phạm có
tổ chức nói chung và trong tội cướp giật tài sản nói riêng, thiếu đồng bộ và
việc sửa đổi bổ sung còn chậm, chưa bắt kịp với xu thế đang diễn ra. Chính vì

1


thế, pháp luật hình sự nước ta cần có một cơ chế hiệu quả hơn để điều chỉnh
trường hợp này, trong đó có cướp giật tài sản.
Trên phương diện thực tiễn, việc áp dụng những quy định về phạm tội
có tổ chức trong tội cướp tài sản đã gặp phải những vướng mắc khi giải thích
như thế nào là sự câu kết chặt chẽ. Đối với công tác điều tra, phần lớn các báo
cáo của cơ quan công an các tỉnh thành, trong đó có thành phố Hải Phịng, thể
hiện các trường hợp Phạm tội có tổ chức bằng cách diễn đạt khác, đó là tổ
chức tội phạm, băng, ổ, phạm tội theo kiểu “xã hội đen”… gây mất thống nhất
với các báo cáo của các cơ quan tiến hành tố tụng khác như Viện Kiểm sát
hay Tòa án. Về công tác xét xử, do nhận thức về bản chất pháp lý của khái
niệm Phạm tội có tổ chức cịn chưa thống nhất, nên các Tịa án nói chung và
các tịa tại thành phố Hải Phịng nói riêng, đã phạm sai lầm khi kết luận đồng
phạm có thơng mưu trước thơng thường là phạm tội có tổ chức hoặc ngược lại
vụ án có tổ chức lại kết luận là đồng phạm thơng thường. Hoặc có những bản

án tuy khơng có dấu hiệu sai phạm về mặt áp dụng pháp luật, nhưng việc quy
định chưa rõ nghĩa về phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự đã cho thấy
sự bất hợp lý giữa việc áp dụng pháp luật hình sự vào thực tiễn là chưa phản
ánh chính xác được “tính có tổ chức” của vụ án, chưa rõ ràng của sự “câu kết
chặt chẽ” theo tinh thần điều luật quy định về Phạm tội có tổ chức, cũng như
trong nhiều trường hợp chưa phân định rõ được vai trò trong các vụ án Phạm
tội có tổ chức cho nên việc quyết định hình phạt đối với các bị cáo nhiều khi
bị đánh đồng, chưa lượng hóa được hình phạt phù hợp với vai trị và các tình
tiết của vụ án đối với từng bị can.
Trên phương diện thực hiện cam kết quốc tế, Việt Nam đã ký tham
gia Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm xuyên quốc gia vào tháng 12
năm 2000, phê chuẩn công ước này vào ngày 29 tháng 12 năm 2011. Để bảo
đảm cam kết của Việt Nam đối với Công ước, Thủ tướng Chính phủ đã phê

2


duyệt kế hoạch triển khai thực hiện Công ước vào ngày 18 tháng 4 năm 2013.
Những quốc gia tham gia cơng ước, trong đó có Việt Nam, có nghĩa vụ tội
phạm hố hành vi tham gia nhóm tội phạm có tổ chức. Tuy nhiên trong Bộ
luật hình sự Việt Nam chưa quy định về tổ chức tội phạm cũng như chưa có
quy định về hành vi tham gia nhóm tội phạm có tổ chức (tổ chức tội phạm).
Vì vậy, để có cơ sở pháp lý đấu tranh chống hình thức phạm tội nguy hiểm
này và thực hiện các nghĩa vụ với tư cách là thành viên của Cơng ước thì việc
sửa đổi, bổ sung và hồn thiện Bộ luật hình sự, đặc biệt là các quy định về tổ
chức tội phạm và hành vi tham gia vào tổ chức này là rất cần thiết. Mặc dù
BLHS năm 2015 đã quy định về hành vi thành lập hoặc tham gia nhóm có tổ
chức trong Điều 14 về chuẩn bị phạm tội nhưng trên thực tế việc áp dụng vẫn
cần được nhận thức, huấn luyện và hướng dẫn thi hành cho phù hợp, hiệu quả.
Những luận điểm nêu trên đã chứng tỏ lý do nghiên cứu đề tài “Phạm

tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên
cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phòng)” là quan trọng và cấp
thiết trong việc hồn thiện pháp luật hình sự để đấu tranh chống và phòng
ngừa loại tội phạm nguy hiểm này tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Phạm tội có tổ chức nói chung và phạm tội có tổ chức trong tội cướp
giật tài sản là những vấn đề có nội dung phong phú và phức tạp được các luật
gia và các nhà nghiên cứu luật quan tâm chú ý và đề cập đến trong những
cơng trình nghiên cứu của mình dưới góc độ luật hình sự, tội phạm học hoặc
xã hội học pháp luật.
Hiện nay, ở nước ta có rất nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu vấn đề đồng
phạm có tổ chức dưới các góc độ khác nhau ở mức chuyên sâu hoặc khái qt
hóa đã được cơng bố trên các sách, tạp chí, luận văn luận án. Nhưng tựu
chung lại thì các nghiên cứu chủ yếu theo ba xu hướng đó là: tiếp cận dưới
3


góc độ tội phạm học, luật hình sự và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã
hội. Dưới góc độ khoa học luật hình sự đã có khá nhiều các cơng trình nghiên
cứu về phạm tội có tổ chức, có thể kể ra đây một số cơng trình tiêu biểu của
các tác giả như: GS.TSKH Lê Cảm với tập sách “Các nghiên cứu chuyên
khảo về phần chung Bộ luật hình sự” (NXB Cơng an nhân dân, 2000) đã đề
cập đến chế định đồng phạm trong đó có nói đến phạm tội có tổ chức, sách
“Đồng phạm trong luật Hình sự Việt Nam” của TS.Trần Quang Tiệp (NXB
Tư Pháp, 2007) với nội dung trình bày về khái niệm đồng phạm, các loại
người đồng phạm, các hình thức đồng phạm và trách nhiệm hình sự trong
đồng phạm. Mặt khác, có một số bài viết, đề tài tập trung phân tích trường
hợp Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, chẳng hạn như bài
“Phạm tội có tổ chức và trách nhiệm hình sự đối với bọn phạm tội có tổ chức”
của tác giả Nguyễn Vạn Nguyên, hay đề tài luận văn cao học của Nguyễn

Minh Đức “Hình thức phạm tội có tổ chức trong chế định đồng phạm theo
pháp luật Hình sự Việt Nam”. Tiếp cận vấn đề ở góc độ tội phạm học là một
số bài viết của các tác giả nói đến vấn đề đồng phạm có tổ chức với tư cách là
một hiện tượng tiêu cực trong xã hội ở những khía cạnh khác nhau. Đó là các
bài viết như: “Vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự pháp nhân
trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” của GS.TS.Hồ Trọng Ngũ đăng trên
tạp chí Lập pháp số 6/2009, bài nghiên cứu “Đấu tranh phịng, chống tội
phạm có tổ chức và tội phạm xuyên quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế”
của PGS.TS Trần Hữu Ứng đăng trên tạp chí Cộng sản điện tử, hoặc loạt bài
viết của TS.Nguyễn Khắc Hải: “Đấu tranh phịng chống tội phạm có tổ chức
theo pháp luật hình sự Liên bang Nga” trong tạp chí Khoa học – ĐHQG Hà
Nội số 23/2007, “Nhận diện tội phạm có tổ chức” (Kỷ yếu hội thảo khoa học
về sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999) đã tạo ra những nhận thức cơ bản trong
việc tìm hiểu về đồng phạm có tổ chức. Thêm vào đó, có khá nhiều các

4


nghiên cứu về đồng phạm có tổ chức với tư cách là vấn đề mới của xã hội.
Đầu tiên phải kể đến cuốn sách mang tên “Tội phạm có tổ chức – lịch sử và
vấn đề hôm nay” của GS.TS.Hồ Trọng Ngũ trả lời cho câu hỏi: “tội phạm có
tổ chức – nhận thức mới hay hiện tượng xã hội mới?”, bài viết “Tội phạm có
tổ chức và việc bổ sung chế định tổ chức tội phạm trong Bộ luật hình sự Việt
Nam” của TS.Lê Thị Sơn trong tạp chí Luật học số 12/2012, đề tài luận án
của TS.Nguyễn Trung Thành “Phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt
Nam và việc đấu tranh phòng chống” đề cập chi tiết đến trường hợp đồng
phạm có tổ chức ở cả góc độ khoa học luật hình sự và tội phạm học. Các cơng
trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã đề cập trên một số góc độ về trường hợp
phạm tội có tổ chức nói chung và phạm tội có tổ chức đối với tội cướp giật tài
sản nói riêng, nhưng việc giải thích chi tiết trường hợp phạm tội có tổ chức về

mặt cơ cấu và hoạt động của nó cũng như một số hình thức thực hiện tội
phạm mới liên quan đến đồng phạm có tổ chức vẫn đang là một vấn đề cịn bỏ
ngỏ. Vì thế, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đất nước nói chung và tại Hải
Phịng nói riêng xung quanh phạm tội có tổ chức đối với tội cướp giật tài sản
vẫn đang là điều cần được nghiên cứu để sửa đổi, và hồn thiện.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ một cách có hệ thống, đầy đủ
về mặt lý luận hiện tượng phạm tội có tổ chức đối với tội cướp giật tài sản,
phân tích một cách khoa học và có căn cứ những vấn đề có liên quan đến
phạm tội có tổ chức đối với tội cướp giật tài sản để qua đó có được cái nhìn
thống nhất, tồn diện, đầy đủ và đóng góp về mặt khoa học để góp phần giải
quyết những vướng mắc đang được đặt ra trong trường hợp đồng phạm đặc
biệt này. Từ việc phân tích những vấn đề lý luận, kết hợp với nghiên cứu kinh
nghiệm quốc tế, thực trạng pháp luật Việt nam và thực tiễn điều tra, xét xử
trên địa bàn thành phố Hải Phòng, luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn

5


thiện những quy định của Bộ luật hình sự về phạm tội có tổ chức đối với tội
cướp giật tài sản.
4. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích luận văn nghiên cứu những vấn đề sau:
a. Khái niệm, các đặc điểm các quy định về phạm tội có tổ chức đối
với tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam;
b. Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với phạm tội có tổ chức trong
tội cướp giật tài sản;
c. Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tổ chức đối
với tội cướp giật tài sản;
d. Thực tiễn và những nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong công tác điều

tra, xét xử các vụ án đồng phạm và phạm tội có tổ chức đối với tội cướp giật
tài sản trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2013-2018;
e. Những cơ sở pháp lý và thực tiễn trong nước và quốc tế để hồn
thiện các quy định về phạm tội có tổ chức đối với tội cướp giật tài sản, cũng
như nâng cao hiệu quả đấu tranh chống loại tội phạm nguy hiểm này.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài nêu trên là thành tựu từ các chuyên ngành khoa
học pháp lý như: lịch sử nhà nước và pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội
học pháp luật, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, tội phạm học, lĩnh
vực triết học, thành tựu từ các cơng trình nghiên cứu, luận văn, luận án, sách
chuyên khảo cũng như các bài đăng trên tạp chí và các báo của các nhà khoa
học – luật gia trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các
văn bản pháp luật của Nhà nước trong việc giải thích thống nhất các trường
hợp cụ thể trong thực tiễn xét xử có liên quan đến trường hợp trên trong các
văn bản thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự do các cơ quan bảo vệ pháp luật ban
hành ở các mức độ khác nhau.

6


Phương pháp luận được sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề được đặt ra
trong nghiên cứu là: phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy
vật biện chứng, phép biện chứng duy vật chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Để từ đó
xây dựng, đề cập đến những vấn đề tương ứng trong các quan điểm về tư
tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, củng cố pháp chế và
bảo vệ các quyền con người.
Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu tác giả cịn đồng thời sử dụng các
phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từ vấn đề được đặt ra.
Các phương pháp tiếp cận được sử dụng đó là: phương pháp phân tích –
chứng minh, logic, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích –

tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp lịch sử, liệt kê,... Đặc
biệt trong đó tác giả nhấn mạnh chú ý tới các phương pháp tổng hợp – hệ
thống, đối chiếu so sánh, lịch sử phân tích, thống kê, khảo sát thực tiễn,
phương pháp xã hội học, ... để qua đó đưa ra được những kết luận khoa học
mang tính thuyết phục cao, đề xuất các phương án cụ thể sao cho phù hợp
nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự có liên quan đến trường
hợp phạm tội có tổ chức đối với tội cướp giật tài sản.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Kế thừa các nghiên cứu khoa học về Phạm tội có tổ chức của các học
giả luật học, luật gia trong nước và quốc tế, luận văn có những đóng góp mới
trong việc nghiên cứu, cụ thể là:
a. Làm sáng tỏ một cách hệ thống một số vấn đề lý luận về trường hợp
đồng phạm có tổ chức, góp phần tiếp cận khái niệm, các đặc điểm của trường
hợp phạm tội có tổ chức đối với tội cướp giật tài sản;
b. Nghiên cứu so sánh, đặt pháp luật hình sự Việt Nam trong mối quan
hệ với pháp luật quốc tế mà cụ thể là Công ước quốc tế về chống tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia để làm cơ sở cho các kiến nghị hoàn thiện;

7


c. Làm rõ thực tiễn điều tra, xét xử các vụ án về đồng phạm và phạm
tội có tổ chức đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành thành phố Hải
Phòng giai đoạn 2014-2018;
e. Đưa ra một số đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực thi những quy
định về phạm tội có tổ chức đối với tội cướp giật tài sản trong Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 2015;
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn này gồm có phần mở đầu, các chương nội dung, phần kết
luận và danh mục tài liệu tham khảo. Cụ thể các chương nội dung bao gồm:

Chương 1: Một số vấn đề chung về phạm tội có tổ chức trong tội
cướp giật tài sản theo luật hình sự Việt Nam
1.1. Khái niệm và các đặc điểm của phạm tội có tổ chức đối với tội
cướp giật tài sản
1.2. Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với phạm tội có tổ chức
trong tội cướp giật tài sản
1.3. Pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tổ chức trong tội cướp
giật tài sản
Chương 2: Thực tiễn thi hành và một số giải pháp bảo đảm thực
thi các quy định về phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản trong
Bộ luật hình sự Việt Nam
2.1. Thực tiễn điều tra, xét xử các vụ án đồng phạm và phạm tội có tổ
chức trong tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hải Phòng
2.2. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân làm giảm hiệu quả điều tra,
xét xử các vụ án phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Hải Phịng
2.3. Một số kiến nghị hồn thiện các quy định về phạm tội có tổ chức
trong tội cướp giật tài sản trong Bộ luật hình sự
2.4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý các vụ án phạm tội có tổ
chức trong tội cướp giật tài sản
8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC TRONG
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và các đặc điểm của phạm tội có tổ chức đối với tội
cướp giật tài sản
1.1.1. Khái niệm phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản
Về mặt lý luận luật hình sự, cịn có nhiều ý kiến khác nhau về bản chất

pháp lý của khái niệm phạm tội có tổ chức. Vì vậy, ở đây chúng tôi chỉ nêu ra
một số quan điểm còn khác nhau xung quanh khái niệm phạm tội có tổ chức ở
nước ta [30, tr. 168-172].
Loại quan điểm thứ nhất cho rằng, phạm tội có tổ chức dứt khốt phải
là hình thức đồng phạm phức tạp, tức là phải có sự phân cơng vai trị giữa
những người cùng thực hiện tội phạm. Nếu giữa những người phạm tội đều
có vai trị thực hiện tội phạm như nhau thì đó là đồng phạm giản đơn chứ
khơng phải phạm tội có tổ chức. Theo đó, nếu những người phạm tội có vai
trị như nhau trong việc nhanh chóng giật lấy tài sản trong tay người quản lý
tài sản rồi nhanh chóng tẩu thốt thì khơng có phạm tội có tổ chức trong tội
cướp giật tài sản
Quan điểm này sai lầm ở chỗ, đã tuyệt đối hóa một mặt của vấn đề
được nghiên cứu, đó là vai trị của những người đồng phạm. Thực tiễn cũng
đã chỉ ra rằng, sự phân cơng vai trị khác nhau giữa những người đồng phạm
tuy là dấu hiệu phổ biến của hình thức phạm tội có tổ chức nhưng khơng phải
là dấu hiệu bắt buộc, dấu hiệu duy nhất. Vì vậy, vẫn có những trường hợp
Phạm tội có tổ chức, mà trong đó những người đồng phạm không những cấu
kết chặt chẽ về ý thức phạm tội, mà cịn có sự phối kết hợp chặt chẽ với nhau
khi thực hiện tội phạm nhưng khi thực hiện tội phạm thì mỗi người đều là

9


người thực hành mà khơng có người tổ chức, người xúi giục hoặc là người
giúp sức với vai trò rõ ràng, cụ thể.
Loại quan điểm thứ hai cho rằng, ở hình thức phạm tội có tổ chức,
những người đồng phạm phải phạm nhiều tội hoặc phạm một tội, nhưng nhiều
lần và có sự câu kết chặt chẽ với nhau trong một thời gian dài. Theo quan
điểm này, những người phạm tội có tổ chức phải câu kết chặt chẽ với nhau để
phạm nhiều tội trong đó có tội cướp giật tài sản hoặc thực hiện tội cướp giật

tài sản từ hai lần trở lên. Nếu thực hiện theo quan điểm này, công tác điều tra,
truy tố, xét xử sẽ nương nhẹ nhiều trường hợp phạm tội có đầy đủ căn cứ để
xác định là hình thức đồng phạm đặc biệt, có tính chất, mức độ nguy hiểm cao
cho xã hội, vì vậy sẽ giảm hiệu quả cơng tác đấu tranh chống và phịng ngừa
tội phạm nói chung và tội phạm được thực hiện bằng đồng phạm có tổ chức
trong tội cướp giật tài sản nói riêng.
Loại quan điểm thứ ba đồng nhất khái niệm phạm tội có tổ chức với
đồng phạm có thơng mưu trước. Như vậy có nghĩa là phạm tội có tổ chức
trong tội cướp giật tài sản được hiểu là phạm tội cướp giật tài sản có thông
mưu trước. Loại quan điểm này sai lầm ở chỗ đã đồng nhất giữa cái chung là
đồng phạm có thơng mưu trước với cái riêng là hình thức phạm tội có tổ
chức. Thực ra, đồng phạm có thơng mưu trước và hình thức phạm tội có tổ
chức là hai khái niệm thống nhất nhưng khơng đồng nhất: Phạm tội có tổ
chức là hình thức đồng phạm có thơng mưu trước nhưng kèm theo nó là
những dấu hiệu đặc trưng khác. Theo logic hình thức thì ngoại diên của khái
niệm phạm tội có tổ chức nằm trong ngoại diên của khái niệm đồng phạm có
thơng mưu trước. Xét về mức độ tính nguy hiểm cho xã hội, thì phạm tội có
tổ chức có mức độ tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn đồng phạm có thơng
mưu trước. Bộ luật Hình sự Liên bang Nga cũng đã thể hiện quan điểm này
khi xác định đồng phạm có thơng mưu trước và nhóm có tổ chức đều là tình

10


tiết tăng nặng định khung hình phạt của nhiều điều luật, nhưng nhóm có tổ
chức là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt cao hơn. Từ đó cho thấy,
nếu thực hiện như quan điểm này, sẽ dẫn tới xét xử, trừng trị người phạm tội
thiếu chính xác, khách quan.
Phạm tội có tổ chức với tính chất là đồng phạm đặc biệt mà định nghĩa
pháp lý của nó được nhà làm luật Việt Nam ghi nhận trong pháp luật hình sự.

Tuy nhiên phạm tội có tổ chức vẫn cịn nhiều cách hiểu khác nhau do sự ghi
nhận còn chung chung, chưa làm rõ được sự “câu kết chặt chẽ”. Theo đó thì
việc nhận thức và giải thích sự câu kết chặt chẽ trong việc thực hiện hành vi
nhanh chóng giật lấy tài sản trong tay người quản lý tài sản rồi nhau chóng
tẩu thốt trong tội cướp giật tài sản cịn chưa rõ ràng và thống nhất. Có quan
điểm cho rằng phạm tội có tổ chức là hình thức phạm tội đặc biệt có sự câu
kết chặt chẽ của những người cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm hoặc
của các thành viên cùng một tổ chức tội phạm [2, tr. 460-461]. Sự câu kết chặt
chẽ của những người đồng phạm trong tội cướp giật tài sản chính là đặc điểm
chủ yếu nhất nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn cả
của hình thức đồng phạm này trong tội cướp giật tài sản và nó thường có các
dấu hiệu đặc trưng riêng về mặt khách quan và chủ quan.
Cũng có quan điểm nhận diện phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng
phạm đặc biệt – đó chính là đồng phạm có tổ chức. Tính “có tổ chức” được thể
hiện có sự bàn bạc, phân cơng vai trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc
thực hiện hành vi phạm tội, có kỷ luật, có quy ước hoạt động... trước khi thực
hiện tội phạm có vạch kết hoạch, có sự tính tốn, cân nhắc kỹ càng, có đề ra
các tình huống xấu khi xảy ra … để cùng thống nhất hành động [47, tr. 61].
Theo quan điểm này thì phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản là
trường hợp tội cướp giật tài sản được thực hiện khi có sự bàn bạc, phân công,
lên phương án cụ thể, chi tiết để bảo đảm có hiệu quả cao nhất.

11


Theo tính chất tồn tại, phạm tội có tổ chức gồm: phạm tội có tổ chức
một lần và phạm tội có tổ chức kéo dài. “Phạm tội có tổ chức một lần (hoặc
một số lần) là hình thức phạm tội có tổ chức có sự câu kết chặt chẽ giữa
những người phạm tội trong thời gian tương đối ngắn để cùng nhau thực hiện
một tội phạm hoặc một số tội phạm” [28, tr. 12]. Ở trường hợp này, những

người đồng phạm mới chỉ thực hiện tội phạm được một lần hoặc một số lần
thì bị phát hiện, bị bắt và bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng có thể thời
gian câu kết để chuẩn bị phạm tội đã diễn ra trong thời gian tương đối dài.
Như vậy, phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản là hình thức phạm tội
có sự câu kết chặt chẽ giữa những người phạm tội trong thời gian tương đối
ngắn để cùng nhau thực hiện tội cướp giật tài sản (hoặc thực hiện cùng với tội
phạm khác nữa).
Từ những phân tích trên có thể khái quát phạm tội có tổ chức trong tội
cướp giật tài sản là hành vi nhanh chóng giật lấy tài sản trong tay người
quản lý tài sản rồi nhanh chóng tẩu thốt, được quy định trong Bộ luật
hình sự, được thực hiện bởi các cá nhân có đủ độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự liên kết với nhau trong một cơ
cấu bền vững hoặc linh hoạt.
Phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản là một hình thức phạm
tội có hiệu quả cao thơng qua việc thực hiện hành vi nhanh chóng giật lấy tài
sản trong tay người quản lý tài sản rồi nhanh chóng tẩu thốt với sự tham gia
của nhiều cá nhân cho nên khi tội cướp giật tài sản được thực hiện bằng hình
thức này thì tính chất nguy hiểm của tội phạm sẽ tăng lên đáng kể. Sự liên kết
- tính có tổ chức – của các cá nhân thể hiện trong một cơ cấu bền vững hoặc
linh hoạt của nhóm người đó nhằm cướp giật tài sản rồi nhanh chóng tẩu
thốt. Như vậy tính có tổ chức liên quan đến khơng chỉ việc thực hiện hành vi

12


cướp giật tài sản, mà cịn ở chính cơ cấu của nhóm tội phạm, sự tồn tại và
những hoạt động phạm tội của nhóm đó.
Phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản là trường hợp phạm tội
có tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn so với các hành vi cướp giật tài
sản thông thường. Tội cướp giật tài sản được thực hiện dưới cách thức có tổ

chức – phạm tội có tổ chức – đều được coi là những tội phạm nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng tùy theo quy định trong pháp
luật của từng quốc gia. Trong Công ước của Liên hợp quốc về chống tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia, những tội phạm được thực hiện bởi nhóm
tội phạm có tổ chức đều được coi là tội phạm nghiêm trọng. Khoản a Điều 2
của Cơng ước quy định:
Nhóm tội phạm có tổ chức là một nhóm có cơ cấu gồm từ
ba người trở nên, tồn tại trong một thời gian và hoạt động có phối
hợp nhằm mục đích thực hiện một hay nhiều tội phạm nghiêm
trọng hoặc các hành vi phạm tội được quy định trong Công ước
này, nhằm đạt được, trực tiếp hoặc gián tiếp, lợi ích về tài chính
hay vật chất khác. Nhóm cơ cấu nghĩa là một nhóm khơng phải
được hình thành một cách ngẫu nhiên để thực hiện một hành vi
phạm tội tức thời và khơng nhất thiết vai trị của các thành viên
trong nhóm phải được xác định một cách rõ ràng, quan hệ giữa
các thành viên phải được duy trì hoặc cơ cấu của nhóm phải được
phát triển (khoản c Điều 2).
Tội phạm nghiêm trọng theo khoản 2 Điều 2 của Công ước quy định:
“Là một hành vi vi phạm có thể bị trừng phạt theo khung hình phạt tù ít nhất
là 4 năm hoặc theo một hình phạt nặng hơn. Bản hành động chung của Hội
đồng châu Âu cũng đưa ra một hình phạt tương tự như vậy, tại Điều 1 của

13


Bản hành động chung này, một hành động phạm tội “có thể bị phạt tù giam
hoặc tước quyền tự do từ ít nhất 4 năm trở lên”.
Những quy định của Cơng ước về tội phạm có tổ chức là rất cụ thể và
chỉ rõ được các đặc điểm của loại tội phạm này. Về chủ thể, khoản a Điều 2
đã đưa ra một quan niệm mới về tội phạm có tổ chức, khắc phục sự thiếu

thống nhất trong các quy định hiện hành, lượng hoá số lượng thành viên của
một nhóm tội phạm có tổ chức là ba người. Điều này giúp cho chúng ta có
một cách hiểu thống nhất về tội phạm có tổ chức, tạo thuận lợi cho công tác
lập pháp, hành pháp và tư pháp tại các quốc gia thành viên [8, tr. 89-94].
1.1.2. Các đặc điểm của phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản
Luật hình sự Việt Nam coi “đồng phạm” là một hình thức đặc biệt của
việc thực hiện tội phạm do tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn các trường
hợp phạm tội thơng thường thì “Phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài
sản” lại là một hình thức đặc biệt của “đồng phạm” do có sự cấu kết “chặt
chẽ” của những người cùng thực hiện tội phạm. Mang tính chất là một dạng
đồng phạm đặc biệt, “Phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản” mang
trong mình những đặc điểm chung của “đồng phạm” với những dấu hiệu pháp
lý chung và bắt buộc. Khoản 1 Điều 17, Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015
quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện
một tội phạm”. Từ khái niệm “đồng phạm” là trường hợp có hai người trở lên
cùng thực hiện tội phạm thì có thể cho rằng đồng phạm nói chung và phạm tội
có tổ chức nói riêng là một thể thống nhất, khơng thể phân tách giữa những yếu
tố chủ quan và nhân tố khách quan mà trong đó có các yếu tố quan trọng phản
ánh bản chất như: có hai người trở lên tham gia, cùng chung hành động với
nhau, cùng cố ý. Theo đó, đồng phạm địi hỏi phải thỏa mãn “ba dấu hiệu khách
quan và hai dấu hiệu chủ quan có tính đặc trưng và bắt buộc” [44, tr. 137] và

14


theo đó phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản cũng phải thỏa mãn các
dấu hiệu này.
Dấu hiệu khách quan về số lượng: “có sự tham gia của hai người trở lên
vào việc thực hiện một tội phạm” [13, tr. 252]. Đây là dấu hiệu bắt buộc, nếu
thiếu dấu hiệu về số lượng người tham gia thực hiện tội phạm (từ 02 người trở

lên) thì khơng phải là đồng phạm mà chỉ là trường hợp phạm tội riêng lẻ và
hậu quả phạm tội là do hành động và ý chí độc lập của một cá nhân gây nên.
Trong đồng phạm yêu cầu mỗi người đều phải có hành vi tham gia vào việc
thực hiện tội phạm gây nguy hiểm đáng kể cho xã hội bị coi là tội phạm. Dấu
hiệu khách quan về sự cùng chung hành động của những người đồng phạm:
không phải bất kỳ trường hợp có hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện
hành vi tội phạm nào cũng được coi là đồng phạm, mà đồng phạm đòi hỏi sự
nỗ lực chung của một số người, nghĩa là hành vi có tính chất nguy hiểm cho
xã hội đáng kể của họ được thực hiện trong mối liên kết thống nhất, qua lại
với nhau, hành vi của người này là điều kiện cần thiết cho hoạt động của
người khác và hậu quả của hành vi phạm tội chính là kết quả chung của q
trình thực hiện tội phạm giữa những người đồng phạm. Hay nói một cách
khác, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của mỗi người đồng phạm
với hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Mối quan hệ nhân quả có thể mang tính
chất trực tiếp như cung cấp cho người thục hành công cụ, phương tiện phạm
tội,… hoặc biểu hiện gián tiếp thông qua nhận thức của người thực hiện như:
xúi giục người thực hành, giúp đỡ họ thực hiện tội phạm [46, tr. 45]. Có thể
khẳng định: nếu khơng có mối quan hệ nhân quả nêu trên thì không xuất hiện
đồng phạm (dấu hiệu khách quan về mối quan hệ nhân quả). Những dấu hiệu
chủ quan trong đồng phạm bao gồm: có sự cố ý của những người tham gia
thực hiện tội phạm và động cơ - mục đích trong đồng phạm. Đồng phạm phải
do cùng thực hiện tội phạm với lỗi cố ý thể hiện trên hai phương diện: lý trí

15


và ý chí. “Sự cùng cố ý phạm tội làm cho ý chí của những người đồng phạm
được thống nhất với nhau và hành động phạm tội của mỗi người đều thống
nhất trong sự chi phối chung của sự cùng cố ý phạm tội” [16, tr. 149]. Về lý
trí: mỗi người thực hiện hành vi phạm tội trong đồng phạm đều ý thức được

hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được tính chất nguy
hiểm của tội phạm họ tham gia thực hiện và hậu quả nguy hiểm cho xã hội có
thể xảy ra, đồng thời những người đồng phạm đều phải biết và muốn những
người đồng phạm khác có cùng hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình.
Nếu chỉ biết mình có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà không biết người khác
cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội như mình thì chưa phải là đồng phạm,
mà cấu thành tội phạm độc lập khi thỏa mãn các yếu tố theo luật định. Về ý
chí: những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động phạm tội chung,
mong muốn hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra hoặc có ý thức để mặc cho
hậu quả xảy ra tuy rằng nhận thức được những hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình. Dấu hiệu chủ quan về động cơ – mục đích: đối với những tội phạm
mà động cơ và mục đích là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, thì
những người phạm tội phải có cùng động cơ, mục đích cịn nếu khơng cùng
động cơ mục đích thì sẽ khơng có đồng phạm và trong trường hợp đó những
người tham gia sẽ chịu trách nhiệm hình sự độc lập.
Ngồi những dấu hiệu mang tính chất của đồng phạm đã nêu trên,
phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản còn mang các nét đặc biệt so
với đồng phạm nói chung. Phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản
không thể là trường hợp đồng phạm đơn giản, vì nếu khơng có sự phân cơng
vai trị thì khơng thể hiện được “tính có tổ chức” của loại đồng phạm đặc biệt
này. Cũng không thể đánh đồng phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài
sản với đồng phạm có thơng mưu trước. Phạm tội có tổ chức trong tội cướp
giật tài sản và đồng phạm có thơng mưu trước là hai khái niệm khơng hoàn

16


toàn đồng nhất. Nội hàm của khái niệm phạm tội có tổ chức trong tội cướp
giật tài sản chứa đựng những dấu hiệu của đồng phạm có thơng mưu và một
số yếu tố khác. Nếu xét về tính chất cấu kết cũng như mức độ nguy hiểm cho

xã hội thì phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản có sự cấu kết chặt
chẽ hơn và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn hẳn. Điều này cho thấy:
phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản ln là hình thức đồng phạm
có thơng mưu trước ở mức độ cao. Đồng phạm có tổ chức có những đặc điểm
cơ bản sau đây [30, tr. 180-181]:
- Nhóm tội phạm trước hết phải có thơng mưu trước, nhưng ngoài sự

bàn bạc, thỏa thuận trước về việc cùng thực hiện tội phạm, những người đồng
phạm thường chuẩn bị thực hiện và che giấu tội phạm một cách kỹ lưỡng với
phương pháp, thủ đoạn thường tinh vi, xảo quyệt.
- Nhóm tội phạm được hình thành với phương hướng hoạt động có tính

chất lâu dài, bền vững, thường có sự phân cơng vai trị thực hiện tội phạm
khác nhau giữa những người đồng phạm nhằm thực hiện nhiều tội, phạm tội
nhiều lần.
- Nhóm tội phạm ngồi ý đồ phạm tội thống nhất, phải có sự phối hợp

hoạt động giữa các thành viên trong nhóm. Mỗi thành viên trong nhóm chịu
sự điều hành chung thống nhất, đều thừa nhận và sử dụng nhóm phạm tội như
là một cơng cụ trong hoạt động phạm tội của mình.
Phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản là hình thức đồng phạm
có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Sự câu
kết chặt chẽ này thể hiện ở “tính có tổ chức chặt chẽ” và tính “có kế hoạch
thống nhất” trong hành vi phạm tội. Nghĩa là có sự liên kết giữa các cá nhân
cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm mà trong đó có sự phân hóa vai
trị, phân cơng nhiệm vụ tương đối rõ rệt, cụ thể và hoạt động lâu dài, bền
vững hoặc linh hoạt với những mục đích nhất định theo kế hoạch đã thống
17



nhất trước. Vì thế tính chất, mức độ nguy hiểm của dạng đồng phạm này cao
hơn các dạng đồng phạm thông thường khác (đồng phạm đơn giản - đồng
phạm phức tạp, hay đồng phạm khơng có thơng mưu trước – đồng phạm có
thơng mưu trước). Tính chất của sự cấu kết chặt chẽ trong hình thức phạm
tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản thường được đánh giá bởi một số
yếu tố như sau:
- Thời gian tồn tại của đồng phạm có tổ chức,
- Mục đích, ý thức chủ quan của sự liên kết giữa các cá nhân,
- Tính chất và mức độ chuẩn bị cho việc thực hiện tội phạm
- Sự phân hóa vai trị, phân cơng nhiệm vụ,
- Tính chất chuyên nghiệp,
- Phương pháp, thủ đoạn phạm tội và che giấu tội phạm.
Trong phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản, những người
đồng phạm có sự bàn bạc trước và có sự phân công thực hiện tội phạm, nhưng
không phải bất cứ trường hợp nào có sự bàn bạc trước, có sự phân cơng thực
hiện tội phạm đều là phạm tội có tổ chức trong tội cướp giật tài sản. Giữa
những người phạm tội trong việc thực hiện tội phạm phải có sự cấu kết với
nhau, có sự phân cơng vai trị nhiệm vụ cụ thể, có sự tính tốn chuẩn bị kĩ
càng và chu đáo cho việc thực hiện tội phạm. Việc phân cơng vai trị trong
hình thức đồng phạm này là một dấu hiệu phổ biến nhưng không phải là dấu
hiệu bắt buộc và duy nhất. Các điểm đặc trưng của phạm tội có tổ chức trong
tội cướp giật tài sản thể hiện cụ thể dưới các dạng trên thực tế.
a. Hình thức phạm tội có tổ chức được thực hiện bởi những người đồng
phạm đã tham gia vào một tổ chức tội phạm được hình thành (hoặc khơng
tham gia vào một tổ chức nào) với “phương thức hoạt động có tính chất lâu
dài, bền vững” [13, tr. 267]. Theo đó, khi họ có ý thức câu kết với nhau lâu

18



×