Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Pháp luật về bảo hiểm y tế nhìn từ góc độ so sánh giữa việt nam và nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM TIẾN PHONG

PH¸P LUËT Về BảO HIểM Y Tế - NHìN Từ GóC Độ SO SáNH
GIữA VIệT NAM Và NHậT BảN

LUN VN THC S LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM TIẾN PHONG

PH¸P LUËT Về BảO HIểM Y Tế - NHìN Từ GóC Độ SO SáNH
GIữA VIệT NAM Và NHậT BảN
Chuyờn ngnh: Lut Kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán hộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN XUÂN THU

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Tiến Phong


MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mụ lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM Y TẾ VÀ
PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ ..................................................... 12
1.1.

Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm y tế .............................. 12

1.1.1. Khái niệm, bản chất và vai trò bảo hiểm y tế ..................................... 12
1.1.2. Phân biệt bảo hiểm y tế với các loại bảo hiểm khác .......................... 19
1.2.


Khái niệm và nguyên tắc của pháp luật về bảo hiểm y tế ............ 22

1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm y tế ................................................ 22
1.2.2. Nguyên tắc pháp luật về bảo hiểm y tế ............................................. 23
1.3.

Khái niệm và nguyên tắc của pháp luật về bảo hiểm y tế ............ 26

Kết luận Chương 1 ........................................................................................ 31
Chương 2: SO SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT
NHẬT BẢN VỀ BẢO HIỂM Y TẾ ............................................... 32
2.1.

Khái quát chính sách pháp luật về bảo hiểm y tế của Việt
Nam và Nhật Bản ............................................................................. 32

2.1.1. Khái quát chính sách pháp luật về bảo hiểm y tế của Việt Nam ....... 32
2.1.2. Khái quát chính sách pháp luật về bảo hiểm y tế của Nhật Bản ........ 34
2.2.

Những điểm giống và khác nhau cơ bản giữa pháp luật bảo
hiểm y tế Việt Nam và Nhật Bản..................................................... 36

2.2.1. Về quản lý nhà nước đối với bảo hiểm y tế ....................................... 36
2.2.2. Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế ...................................................... 41
2.2.3. Chế độ, quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế......................... 46
2.2.4. Thanh tốn chi phí chữa bệnh Bảo hiểm Y tế .................................... 50



2.2.5. Quỹ bảo hiểm y tế .............................................................................. 56
2.2.6. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải quyết tranh chấp và xử lý vi
phạm về bảo hiểm y tế........................................................................ 59
Kết luận Chương 2 ........................................................................................ 64
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HIỂM
Y TẾ TỪ KINH NGHIỆM ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT CỦA
NHẬT BẢN ....................................................................................... 65
3.1.

Những kinh nghiệm cho Việt Nam từ việc nghiên cứu, so sánh
pháp luật Việt Nam và pháp luật Nhật Bản về bảo hiểm y tế .......... 65

3.2.

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hiểm y tế ......................... 69

3.2.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật ....................................................... 69
3.2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................... 79
Kết luận Chương 3 ........................................................................................ 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 90
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 95


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BHYT:

Bảo hiểm y tế

BHXH:


Bảo hiểm xã hội

ILO:

Tổ chức Lao động quốc tế


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Những năm trở lại đây pháp luật bảo hiểm y tế (BHYT) ngày càng giữ
vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật của các quốc gia, thu hút sự quan
tâm của nhiều học giả, nhà nghiên cứu khoa học nhằm xây dựng hệ thống các
văn bản pháp luật về BHYT thống nhất, minh bạch, phù hợp với thực tiễn.
Qua đó phát huy hiệu quả những giá trị nhân văn vốn có của BHYT để chế độ
chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, góp phần đảm bảo ổn định xã hội và
phát triển bền vững đất nước.
Tại Việt Nam, BHYT là một chính sách xã hội lớn trong hệ thống an
sinh xã hội, có ảnh hưởng trực tiếp và tác động sâu rộng đến tất cả các thành
viên trong xã hội. Nhận thức được giá trị và những ảnh hưởng tích cực đối với
xã hội do BHYT mang lại, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và chỉ đạo sát
sao việc phát triển BHYT. Điều này được cụ thể hoá lần đầu tiên tại Kỳ họp
Quốc hội XII khi Quốc hội thông qua Luật BHYT bàn hành 14/11/2008 (có
hiệu lực từ ngày 01/01/2009) [32]. Cũng kể từ đó, Luật BHYT từng bước đi
vào đời sống xã hội, trở thành một cơng cụ pháp luật có hiệu quả, góp phần
điều tiết xã hội, đảm bảo sự cơng bằng trong chăm sóc sức khoẻ phục vụ cơng
cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Sáu năm sau khi được triển khai trong thực tế, ngày 13/6/2014 tại kỳ họp thứ
bảy Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thơng
qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT (gọi tắt là Luật BHYT

sửa đổi, bổ sung) và có hiệu lực từ 01/01/2015 [33], để khắc phục các thiếu
sót, tạo cơ sở pháp lý giúp BHYT cùng bảo hiểm xã hội (BHXH) khẳng định
vai trị trụ cột trong chính sách an sinh xã hội đất nước.
Thực tiễn chỉ ra rằng, pháp luật về BHYT cịn nhiều hạn chế, ảnh hưởng
đến quyền, lợi ích của người tham gia BHYT và mục tiêu chăm sóc sức khỏe

1


của nhân dân chưa thực sự đạt được như kỳ vọng của Đảng và nhà nước. Ở
phạm vi nghiên cứu khoa học luật, BHYT cũng như pháp luật BHYT còn là
vấn đề rất mới, thiếu các nghiên cứu chuyên sâu nên chưa thiết lập được hệ
thống tư duy lý luận đầy đủ, vững chắc về pháp luật BHYT, gây khó khăn
trong việc hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật về BHYT.
Cùng với đó, trong bối cảnh tồn cầu hố việc học hỏi kinh nghiệm
xây dựng và triển khai pháp luật BHYT từ các quốc gia phát triển là một
đòi hỏi vô cùng quan trọng. Năm 1961, Nhật Bản triển khai thành cơng
BHYT cho tồn dân, ở Hàn Quốc là năm 1977 còn ở Thái Lan là năm
2001. Kế thừa các vấn đề lý luận và học hỏi kinh nghiệm trong việc triển
khai pháp luật BHYT trên thực tế chính là chìa khố để rút ngắn thời gian
xây dựng, triển khai và hoàn thiện pháp luật BHYT tại Việt Nam, trên lộ
trình thực hiện BHYT tồn dân.
Xuất phát các lý do nêu trên tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Pháp
luật về Bảo hiểm y tế - Nhìn từ góc độ so sánh giữa Việt Nam và Nhật Bản”
làm đề tài cho Luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhìn một các tổng quan, có khá nhiều các cơng trình nghiên cứu về lý
luận, thực trạng pháp luật BHYT tại Việt Nam và bước đầu cũng đã tiếp cận
việc so sánh pháp luật BHYT tại Việt Nam với các quốc gia trên thế giới. Có
thể chia các đề tài, các cơng trình nghiên cứu ra các nhóm sau:

Thứ nhất, các đề tài, các bài viết nghiên cứu về BHYT dưới góc độ lý
luận và thực tiễn triển khai.
Đây là nội dung thu hút sự quan tâm nhiều nhất của các học giả, các
nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, chiếm một số lượng tương đối
lớn các cơng trình nghiên cứu về BHYT nói chung và pháp luật BHYT nói
riêng. Có thể kể đến các cơng trình tiêu biểu như:

2


- Luận văn thạc sỹ “Pháp luật bảo hiểm y tế, thực trạng và giải
pháp” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương năm 2005. Tác giả đã làm rõ
các vấn đề lý luận về BHYT, bao gồm khái niệm, bản chất, đặc điểm và sự
cần thiết của BHYT. Đây là nội dung quan trọng đặt nền móng cho những
nhận thức tiếp theo về BHYT và pháp luật BHYT. Bên cạnh đó, tác giả
phân tích nội dung pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng, đánh giá
những ưu nhược điểm, từ đó phân tích và chỉ ra những ngun nhân làm
căn cứ để đưa ra các kiến nghị, đề xuất.
Ngoài ra cũng nghiên cứu về BHYT dưới góc độ lý luận cịn có, Luận
văn "Bảo hiểm y tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"
của tác giả Trần Quang Lâm năm 2006; Luận văn "Bảo hiểm y tế ở Việt Nam
hiện nay" của tác giả Vũ Xuân Hiển năm 2007.
- Về các tài liệu tham khảo, Giáo trình Luật An sinh xã hội của Trường
Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 2009 do TS. Nguyễn Thị Kim Phụng chủ
biên tiếp cận pháp luật BHYT như một bộ phận của pháp luật về an sinh xã
hội. Giáo trình đã phân tích về khái niệm, ý nghĩa, vai trị của BHYT. Đồng
thời phân tích ba mơ hình BHYT đó là: hệ thống BHYT hoạt động từ thuế; hệ
thống BHYT hoạt động từ quỹ BHYT được hình thành trên cơ sở đóng góp
của các chủ thể; hệ thống BHYT hoạt động từ quỹ BHYT thương mại.
- Trong các bài đăng trên báo, tạp chí có bài viết “Hoàn thiện tư duy

pháp lý và cơ chế quản lý bảo hiểm y tế để tiên tới bảo hiểm y tế toàn dân”
của TS. Nguyễn Văn Tiên năm 2010 đăng trên Tạp chí BHXH đề xuất các
quan điểm của tác giả trong việc thực hiện BHYT toàn dân.
Bài viết “Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm y tế ở Việt Nam hiện nay”,
Tạp chí Luật học tháng 9 năm 2009 của TS. Đỗ Ngân Bình đưa ra bốn nhóm
giải pháp hồn thiện pháp luật BHYT ở Việt Nam: mở rộng đối tượng tham
gia BHYT; giải quyết tình trạng mất cân bằng thu chi của quỹ BHYT; đưa ra

3


các chế tài xử phạt nghiêm khắc hơn để xử lý các vi phạm về BHYT; tăng
trách nhiệm và quyền hạn cho cơ quan BHXH….
“Một số đề xuất tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân ở Việt Nam” của TS
Henrik Axelson” đăng trên Tạp chí BHXH tháng 7 năm 2007. Trong cơng
trình tác giả đã phân tích tầm quan trọng của việc tiến tới BHYT toàn dân; các
vấn đề chính liên quan đến việc mở rộng đối tượng tham gia BHYT; kinh
nghiệm quốc tế về thời gian chuyển đổi để đạt được mục tiêu BHYT toàn dân
và các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian chuyển đổi như thu nhập, cấu trúc nền
kinh tế, phân bố dân số, tính đoàn kết, khả năng quản lý….
Một bài đăng nữa là “Hướng tới BHYT tồn dân”, đăng trên Tạp chí
BHXH tháng 11 năm 2007 của tác giả Đỗ Thúy Hằng. Tác giả phân tích vai
trị của BHYT với các ý nghĩa như: BHYT là nguồn hỗ trợ tài chính cho
những người tham gia BHYT giải tỏa được gánh nặng về tài chính; BHYT là
một trong những nguồn cung cấp tài chính ổn định cho các cơ sở y tế; BHYT
góp phần quan trọng trong việc thực hiện chủ trương xã hội hố trong lĩnh
vực y tế từ đó góp phần thực hiện mục tiêu cơng bằng xã hội trong chăm sóc
sức khoẻ nhân dân thể hiện rõ nét tính nhân đạo, cộng đồng sâu sắc…
Hai bài đăng: “Quan điểm và mục tiêu thực hiện BHYT bắt buộc tồn
dân”, Tạp chí BHXH số tháng 5 năm 2010 và “Giải pháp đẩy mạnh thực hiện

BHYT bắt buộc tồn dân”, Tạp chí BHXH tháng 5 năm 2010 của PGS. TS
Đào Văn Dũng. Các quan điểm về thực hiện BHYT toàn dân được tác giả
phân tích khá chi tiết và phù hợp với điều kiện hiện nay. Từ đó đưa ra tổng
thể các giải pháp để đẩy mạnh tiến độ thực hiện BHYT bắt buộc tồn dân.
- Dưới góc độ nghiên cứu khoa học, đề tài “Hồn thiện chính sách
BHYT ở Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của tác giả Nguyễn
Đình Khương năm 2006 đã đánh giá thực trạng chính sách BHYT ở Việt
Nam, chỉ ra những tồn tại, hạn chế của cả hệ thống chính sách BHYT. Từ đó

4


đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm khắc phục những tồn tại, vướng mắc
trong việc xây dựng và hồn thiện chính sách BHYT ở Việt Nam.
Thứ hai, các cơng trình, bài viết thực hiện việc nghiên cứu pháp luật
BHYT tại Việt Nam dưới góc độ so sánh với các quốc gia có pháp luật về
BHYT phát triển.
Khác với nhóm thứ nhất, nhóm các cơng trình, bài viết thực hiện việc
nghiên cứu pháp luật BHYT tại Việt Nam dưới góc độ so sánh với các quốc
gia có pháp luật về BHYT phát triển còn khá hạn chế về số lượng, có thể kể
đến một số cơng trình tiêu biểu sau:
“Một số kinh nghiệm quốc tế về xây dụng bảo hiểm y tế tồn dân” Tạp
chí Bảo hiểm xã hội của tác giả Nguyễn Thị Bích Thọ đăng trên tạp chí
BHXH tháng 6 năm 2008. Tác giả đã nghiên cứu kinh nghiệm về BHYT của
một số quốc gia trên thế giới chỉ ra rằng mục đích của BHYT tồn dân đều
thống nhất ở những nội dung như huy động nguồn lực một cách ổn định và
công bằng đủ để cung ứng các dịch vụ cơ bản cho người dân, bảo vệ người
dân khỏi các rủi ro về tài chính khi ốm đau.
“Bài học từ những Cải cách tiến bộ trên con đường tiến tới Bảo hiểm y
tế toàn dân” được thực hiện bởi Helene Barroy, Eva Jarawan, and Sarah

Bales (Ngân hàng thế giới-World bank) năm 2014. Ấn phẩm chia sẻ các bài
học hữu ích để giải quyết những mối quan tâm đến chính sách trong việc thiết
kế và thực hiện chiến lược BHYT toàn dân tại các nước đang phát triển.
“Đổi mới phương thức chi trả và phát triển Bảo hiểm y tế toàn dân,
Bài học từ Thái Lan và kinh nghiệm cho Việt Nam” của tác giả Sarah Bales,
chuyên gia của Tổ chức Y tế thế giới đăng trên Tạp chí BHXH tháng 2 năm
2011. Tác giả đã chỉ ra những kinh nghiệm của Thái Lan trong thực hiện
phương thức thanh tốn theo định suất có thế áp dụng ở Việt Nam như: phải
xây dựng cơ chế thực hiện những khoản trả bổ sung đối với những bệnh nặng,

5


những cơ sở y tế có năng suất cao hơn để hỗ trợ các cơ sở y tế giảm chi phí,
hoạt động hiệu quả; phải có cơ chế hỗ trợ xây dựng cơ sở chăm sóc sức khỏe
ban đầu hoặc có cơ chế phối hợp với những cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu
có sẵn tại địa phương trong việc thanh tốn chi phí khám chữa bệnh; phải hỗ
trợ xây dựng phương án đấu thầu mua thuốc gốc, kiểm soát kê đơn thuốc bảo
đảm tiết kiệm…
“Giải pháp cơ bản để tiến tới thực hiện BHYT toàn dân”, đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ do TS. Phạm Đình Thành năm 2004 làm chủ nhiệm. Tác
giả đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản về BHYT, BHYT toàn dân và
kinh nghiệm BHYT của một số quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Đức,
Đan Mạch, Bồ Đào Nha.
Tập hợp các chuyên đề nghiên cứu về BHYT của các nước phát triển
trên thế giới, nghiên cứu thực tiễn triển khai pháp luật về BHYT theo các nội
dung: quản lý nhà nước; đối tượng tham gia; chế độ, quyền lợi của người tham
gia; quản lý nhà nước về BHYT; quỹ BHYT. Bao gồm 5 chuyên đề: “Pháp
luật Bảo hiểm y tế tại Đức” của TS. Nguyễn Huy Ban; “Pháp luật về Bảo hiểm
y tế tại Thuỵ Điển” của TS. Hoàng Thị Minh; “Pháp luật về Bảo hiểm y tế

Singapore” của TS. Nguyễn Hiền Phương; “Pháp luật Bảo hiểm y tế ở Thái
Lan” của TS. Nguyễn Hiền Phương và bà Tống Thị Song Hương; “Pháp luật
Bảo hiểm y tế tại Trung Quốc” của TS. Nguyễn Hiền Phương.
Nhìn một cách tổng quan tình hình nghiên cứu, mặc dù giá trị của các
ấn phẩm, bài đăng, các cơng trình nghiên cứu về pháp luật BHYT là rất đáng
được ghi nhận song có thể thấy các cơng trình hầu hết mang nặng tính lý luận
về pháp luật BHYT cũng như phân tích thực tiễn điều chỉnh pháp luật BHYT
tại Việt Nam, từ đó rút ra các giải pháp hoàn thiện khiến cho những ý kiến
giải pháp cịn khá đơn điệu, mang tính chủ quan. Để giải quyết những tồn tại
này, đặt ra yêu cầu và nhiệm vụ của Luận văn là ngoài việc kế thừa phải có

6


cách tiếp cận mới khi nghiên cứu về BHYT và pháp luật BHYT. Cụ thể, Luận
văn ngoài việc xây dựng chắc chắn hệ thống lý luận về BHYT, cần đặt pháp
luật về BHYT tại Việt Nam trong sự so sánh với hệ thống quy phạm, thực tiễn
áp dụng pháp luật BHYT tại Nhật Bản - quốc gia có các điều kiện lịch sử văn
hoá xã hội tương đồng Việt Nam và đã thực hiện thành cơng BHYT tồn dân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về BHYT
và thực trạng pháp luật BHYT dưới góc độ so sánh với pháp luật BHYT của
Nhật Bản. Nhìn nhận từ những hạn chế, đưa ra những giải pháp về mặt pháp
lý và tổ chức thực hiện pháp luật BHYT nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả BHYT ở nước ta. Để thực hiện được mục đích đó, nhiệm vụ đặt ra cho
luận văn là:
Thứ nhất, kế thừa xây dựng hệ thống lý luận cơ bản về BHYT và pháp
luật BHYT như: khái niệm; bản chất; đặc trưng và vai trò của BHYT.
Thứ hai, so sánh thực trạng pháp luật về BHYT của Việt Nam và Nhật
Bản dựa trên các nội dung: quản lý nhà nước về BHYT; đối tượng tham gia

BHYT; chế độ, quyền lợi của người tham gia BHYT; thanh tốn chi phí khám,
chữa bệnh BHYT; quỹ BHYT; giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về BHYT.
Thứ ba, trên cơ sở so sánh nêu trên luận văn chỉ ra những kinh nghiệm
điều chỉnh pháp luật về BHYT của Nhật Bản, đề xuất hướng vận dụng phù hợp
cho Việt Nam trong q trình ra sốt, hồn thiện pháp luật về BHYT, góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện pháp luật BHYT ở nước ta trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về BHYT. Cụ thể hơn
luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định pháp luật hiện
hành và thực tiễn thực hiện pháp luật BHYT do nhà nước tổ chức thực hiện vì
mục đích an sinh xã hội, khơng vì mục tiêu lợi nhuận.

7


Pháp luật về BHYT nói chung, pháp luật về BHYT của Việt Nam và
Nhật Bản nói riêng có phạm vi rất rộng, bao gồm nhiều nội dung khác nhau.
Để phù hợp với yêu cầu của Luận văn thạc sĩ luật học và thời gian thực hiện,
Luận văn chỉ tập trung vào những vấn đề pháp lý sau: quản lý nhà nước về
BHYT; đối tượng tham gia BHYT; chế độ, quyền lợi của người hưởng BHYT;
thanh tốn chi phí khám, chữa bệnh BHYT; quỹ BHYT; giải quyết khiếu nại,
tố cáo, tranh chấp về BHYT.
Phạm vi thời gian được luận văn chỉ đề cập ở mức nhất định, khái quát
nhất mang tính dẫn giải chứ khơng phân tích sâu về sự thay đổi của pháp luật
BHYT tại Việt Nam cũng như Nhật Bản ở từng giai đoạn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu đối với đề tài Pháp luật về Bảo hiểm y tế Nhìn từ góc độ so sánh giữa Việt Nam và Nhật Bản là sự kết hợp của một số
phương pháp chung được áp dụng trong nghiên cứu khoa học như phương
pháp tổng hợp, phương pháp mô tả, phương pháp phân tích, phương pháp

chứng minh, phương pháp so sánh. Cụ thể:
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong toàn bộ Luận văn để tập
hợp, chọn lọc những thơng tin trên cơ sở các tài liệu, cơng trình nghiên cứu
khoa học, báo cáo tổng kết, số liệu thống kê… có liên quan đề tài nghiên cứu.
Từ đó sắp xếp, khái qt hóa thơng tin theo từng nội dung cần luận giải trong
mỗi phần của luận văn. Có thể nói đây là phương pháp mang tính kế thừa các
giá trị đã được đúc kết tại các đề tài, công trình đã thực hiện.
- Phương pháp mơ tả được sử dụng để diễn đạt các nội dung lý luận,
các qui định pháp luật và tình hình thực hiện pháp luật tại Chương 1. Thơng
qua đó, xây dựng lên tổng quan các nội dung trong pháp luật BHYT Việt
Nam bao gồm: quản lý nhà nước về BHYT; đối tượng tham gia BHYT; quyền
lợi và chế độ khi tham gia BHYT; thanh tốn chi phí khám chữa bệnh BHYT;
quỹ BHYT; giải quyết khiếu nại tranh chấp trong quá trình thực hiện BHYT.

8


- Phương pháp so sánh pháp luật được sử dụng chủ yếu tại Chương 2
của Luận văn để đối chiếu các quy định pháp luật BHYT Việt Nam với pháp
luật BHYT tại Nhật Bản, từ đó nhìn nhận những thành công cũng như hạn chế
của pháp luật BHYT tại Việt Nam.
- Phương pháp phân tích được sử dụng chủ yếu tại chương 3 của Luận
văn. Trên cơ sở các tồn tại hạn chế khi so sánh pháp luật BHYT Việt Nam với
pháp luật BHYT tại Nhật Bản, tác giả tìm xem xét thực trạng đó trên nhiều
phương diện, đặt nhiều giả thuyết cũng như nhiều các thức giải quyết các tồn
tại đó một cách khả thi nhất dựa vào điều kiện kinh tế, xã hội tại Việt Nam.
Nhìn chung, tất cả các phương pháp nghiên cứu trên đều được vận
dụng trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng
như các phương pháp tiếp cận khách quan, khoa học khác để từ đó rút ra

những kết luận làm sáng tỏ mục đích của luận văn, phục vụ cho lý luận và áp
dụng pháp luật vào trong thực tiễn.
6. Những đóng góp của đề tài nghiên cứu
Là một trong số ít các để tài nghiên cứu một cách có chiều sâu về pháp
luật BHYT Việt Nam đặt dưới góc độ so sánh với hệ thống lý luận, thực trạng
pháp luật về BHYT tại các quốc gia khác trên thế giới – đặc biệt ở một quốc
gia đã thực hiện BHYT dân tương đối thành cơng như Nhật Bản. Có thể khái
qt những đóng góp của đề tài nghiên cứu này như sau:
Thứ nhất, Luận văn làm rõ hơn khái niệm, vị trí, vai trò của BHYT
và pháp luật BHYT trong đời sống xã hội. Bản chất của BHYT được phân
tích sâu sắc trên hai phương diện: bản chất xã hội và bản chất kinh tế từ đó
rút ra những đặc trưng của BHYT và pháp luật BHYT nói riêng. Luận văn
ủng hộ quan điểm cho rằng BHYT là một chính sách xã hội rất quan trong
hệ thống an sinh xã hội, có ảnh hưởng trực tiếp và tác động sâu rộng đến

9


đời sống của nhân dân do đó cần nhận thức được một cách đầy đủ, toàn
diện những giá trị và những ảnh hưởng tích cực của pháp luật BHYT đối
với sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân góp phần ổn định, xã
hội và phát triển bền vững.
Thứ hai, thơng qua nghiên cứu mơ hình BHYT và pháp luật BHYT tại
Nhật Bản, Luận văn đã góp phần làm sâu sắc thêm kinh nghiệm xây dựng và
hoàn thiện pháp luật BHYT ở Việt Nam. Những kinh nghiệm có giá trị vận
dụng được Luận văn là những kinh nghiệm phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội và truyền thống lịch sử văn hóa của Việt Nam. Trong khi pháp luật BHYT
Việt Nam có lịch sử hơn 25 năm phát triển thì pháp luật BHYT của Nhật Bản
đã có bề dày hàng trăm năm phát triển với mơ hình tương đối hoàn thiện
(Pháp luật BHYT được ban hành lần đầu tại Nhật Bản năm 1922). Từ đó cho

thấy việc nghiên cứu tìm hiếu và tiếp thu kinh nghiệm pháp luật BHYT của
thế giới là vô cùng cần thiết, để pháp luật BHYT ở Việt Nam không bị “lạc
điệu” và từng bước tiếp cận với xu hướng chung của pháp luật quốc tế.
Thứ ba, qua nghiên cứu lý luận, thực trạng pháp luật BHYT luận văn
đã phác thảo được các quan điểm và giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật
BHYT ở Việt Nam, gồm các giải pháp mở rộng đối tượng tham gia BHYT,
nâng cao nhận thức cho các nhóm dân cư về BHYT; tăng cường vai trị lãnh
đạo của Đảng về phát triển; đưa ra các giải pháp về hồn thiện cơng tác lập
quỹ, quản lý quỹ BHYT; tăng cường hơn nữa các biện pháp xử lý vi phạm
pháp luật BHYT; nâng cao chế độ, quyền lợi của người tham gia BHYT; áp
dụng công nghệ thông tin vào quản lý và thanh tốn BHYT… Tất cả nhằm
mục đích lớn nhất xây dựng pháp luật BHYT đồng bộ, thống nhất, minh bạch,
phù hợp với thực tiễn nhằm phát huy hết những giá trị nhân văn vốn có của
BHYT. Phát huy hơn nữa lợi ích trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ
nhân dân, góp phần đảm bảo ổn định xã hội và phát triển bền vững đất nước.

10


7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
nội dung của Luận văn bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo hiểm y tế và pháp luật bảo
hiểm y tế.
- Chương 2: So sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật Nhật Bản về bảo
hiểm y tế.
- Chương 3: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hiểm y tế từ kinh
nghiệm điều chỉnh pháp luật của Nhật Bản.

11



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM Y TẾ VÀ
PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm y tế
1.1.1. Khái niệm, bản chất và vai trò bảo hiểm y tế
1.1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm y tế
Trong suốt chiều dài hình thành và phát triển, BHYT được biết tới lần đầu
tiên là tại Đức vào cuối những năm 1983 dưới hình thức bảo hiểm ốm đau và
thương tật cho cơng nhân và các chủ doanh nghiệp. Sau này, tại Hội nghị quốc tế
về Chăm sóc sức khỏe ban đầu được tổ chức từ ngày 6 đến ngày 12/09/1978 tại
Alma-Ata, Kazakhstan do WHO và UNICEF bảo trợ với sự tham gia của 67 tổ
chức quốc tế cùng 134 nước (trong đó có Việt Nam) đã thống nhất đưa ra quan
điểm "Bảo hiểm y tế là loại hình bảo hiểm khơng kinh doanh, khơng vì mục đích
lợi nhuận và được tiếp cận chủ yếu dưới góc độ quyền con người" [43].
Định nghĩa trên cũng phù hợp với tinh thần Công ước số 102 năm 1952
của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) khi quan niệm rằng:
An sinh xã hội là vấn đề liên quan đến việc bảo đảm những gì
mà xã hội cung cấp cho các thành viên của nó qua một loạt chính
sách cơng cộng, nhằm bù đắp sự bần cùng về kinh tế, do những
nguyên nhân của việc giảm sút kết quả thu nhập thực tế từ việc ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, chăm sóc y tế,
trợ cấp gia đình đơng con, người già chết… [44].
Tại Việt Nam, BHYT được xem như một bộ phận quan trọng trong cấu
thành của Pháp luật an sinh xã hội. Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra khái
niệm “Bảo hiểm y tế là loại bảo hiểm do Nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy
động sự đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức
khỏe, khám bệnh và chữa bệnh cho nhân dân" [40].


12


Trên bài viết “Tiến tới Bảo hiểm y tế bắt buộc tồn dân” đăng tải trên
tạp chí BHXH năm 2010, PGS. TS Đào Văn Dũng cho rằng:
Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội do nhà nước tổ chức
thực hiện nhằm huy động nguồn lực tài chính của nhà nước, người
sử dụng lao động, người lao động và cộng đồng để hình thành quỹ
tài chính dừng chi trả chi phí khám chữa bệnh cho người tham Bảo
hiểm y tế theo quy định của pháp luật [14, tr.9].
Còn theo theo TS Đàm Viết Cương :
Bảo hiểm y tế thực chất là loại hình bảo hiểm trong lĩnh
vực chăm sóc sức khỏe dựa trên những nguyên lý chung về tập
hợp và chia sẻ nguy cơ, rủi ro về sức khỏe, bệnh tật; hình thức
Bảo hiểm y tế cịn gọi là hình thức chỉ trả trước chi phí cho khám
chữa bệnh [13, tr.116-117].
Trên khía cạnh quản lý nhà nước, BHYT là một trong những chính
sách an sinh xã hội có ý nghĩa nhân đạo, nhân văn và rất ưu việt hướng tới
mục tiêu cơng bằng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân. Ngay từ năm
1992, Điều 39 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi:
“Thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm lo sức
khỏe”và được tiếp tục khẳng định tại Hiến pháp sửa đổi năm 2013: “Thực
hiện bảo hiểm y tế tồn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khỏe cho
đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”. Đây là định hướng quan trọng để thúc đẩy
tiến trình thực hiện mục tiêu bảo hiểm y tế tồn dân. Tại Luật BHYT do Quốc
hội ban hành ngày 14/11/2008 (đã sửa đổi bổ sung năm 2014), BHYT được
định nghĩa là “Bảo hiểm là hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối với
các đối tượng theo quy định của Luật này để chăm sóc sức khỏe, khơng vì
mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện” [33, Điều 2].


13


Dù hiểu theo khái niệm nào, BHYT là một chính sách an sinh xã hội của
Nhà nước mang tỉnh cộng đồng, chia sẻ rủi ro, trên cơ sở đóng góp của người
lao động, người sử dụng lao động và cộng đồng có sự hỗ trợ của ngân sách nhà
nước nhằm mục đích khám, chữa bệnh khi thành viên ốm đau, bệnh tật và
khơng vì mục tiêu lợi nhuận. Theo đó, một khoản tiền được trích ra từ thu nhập
của mỗi cá nhân hay mỗi hộ gia đình để đóng vào quỹ do Nhà nước đứng ra
quản lý, nhằm giúp mọi thành viên tham gia quỹ có ngay một khoản tiền trả
trước cho các cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khi người tham gia
khơng may ốm đau phải sử dụng các dịch vụ đó, mà khơng phải trực tiếp trả
chi phí khám chữa bệnh. Cơ quan BHXH sẽ thanh tốn khoản chi phí này theo
quy định của Luật BHYT.
1.1.1.2. Bản chất của bảo hiểm y tế
Như đã đề cập ở trên, có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm
của BHYT. Mỗi khái niệm, mỗi góc độ nhìn nhận, quan điểm lại cho chúng ta
một cái nhìn khác nhau về bản chất của BHYT. Tuy nhiên, nhìn chung bản
chất của BHYT được nhìn nhận trên hai khía cạnh chính là bản chất xã hội và
bản chất kinh tế, cụ thể như sau:
Xét đến bản chất xã hội, đây cũng là đặc trưng nổi bật của BHYT với
khi nó được xem như là một phần quan trọng trong chính sách an sinh xã hội
ở các quốc gia. Bản chất xã hội của BHYT được thể hiện ở chỗ Nhà nước bảo
trợ cho sự chăm sóc y tế dành cho các thành viên của mình, đảm bảo một
trong những quyền thiêng liêng của con người trong Tuyên ngôn nhân quyền
khẳng định, đó là quyền được chăm sóc về y tế. Đương nhiên rằng việc bảo
vệ, chăm sóc sức khoẻ trước tiên thuộc về mỗi cá nhân nhưng vẫn cần sự trợ
giúp mang tính xã hội, có tính tổ chức cao và ở đó nhà nước giữ vai trị quan
trọng trong việc tổ chức, quản lý và bảo trợ.

Bản chất xã hội của BHYT còn được thể hiện ở sự liên kết, chia sẻ rủi

14


ro mang tính cộng đồng giữa các thành viên trong xã hội. Bên cạnh sự trợ
giúp mang tính nhà nước, thì sự chia sẻ, liên kết của chính các thành viên
trong xã hội thơng qua đóng góp dựa trên thu nhập là yếu tố rất quan trọng.
Thiếu sự liên kết này, việc thực hiện BHYT sẽ không thành công do không
đảm bảo được nguyền lý chia sẻ rủi ro. Thực tế cho thấy bệnh tật và những rủi
ro về sức khoẻ không phải khi nào cũng xuất hiện cùng một lúc với tất cả mọi
người, chúng cũng không xuất hiện giống nhau ở mỗi người, có người ốm lúc
nảy người ốm lúc khác; có người bệnh nặng, có người bệnh nhẹ; có người hay
ốm, ngươi ít ốm và bệnh tật thường đến bất ngờ không báo trước. Nếu cứ để
ai có bệnh người đó tự chống đỡ sẽ gây khó khăn cho chính họ và người thân
vì khơng đủ tiền để trang trải. Do đó sự liên kết mang tính cộng đồng rộng rãi
để chia sẻ rủi ro bệnh tật là một đòi hỏi tất yếu. Một quỹ chung cho chăm sóc
sức khoẻ sẽ điều tiết để nhiều người chưa hoặc khơng ốm chăm sóc, san sẻ
đặc biệt về tài chính cho những khơng may gặp phải các rủi ro về sức khoẻ.
Tính xã hội tương trợ cộng đồng nhân văn của pháp luật BHYT còn thể
hiện ở sự đồng đều, cơng bằng xã hội trong chăm sóc y tế. Chăm sóc y tế thơng
qua BHYT khơng phân biệt mức đóng nhiều hay đóng ít, khơng phân biệt
thành phần xã hội, tôn giáo, giai cấp mà phụ thuộc vào mức độ rủi ro về bệnh
tật. Thực tế cho thấy những người nghèo, người có thu nhập thấp thường là
người hay ốm và thiếu kinh phí chữa bệnh. Hơn nữa đau ốm lại làm giảm hoặc
mất thu nhập do nghỉ việc nên càng làm cho họ khó khăn hơn về tài chính để
tiếp cận các dịch vụ y tế. Pháp luật BHYT là một giải pháp thực tế đưa họ tiếp
cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Như vậy, bản chất xã hội của BHYT thể hiện ở
sự trợ giúp mang tính nhà nước và sự tương trợ mang tính cộng đồng. BHYT
thể hiện bản chất nhân đạo vả sự văn minh của xã hội phát triển với mục đích

đảm bảo khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cho đa số dân chúng, thực hiện cơng
bằng trong chăm sóc sức khoẻ.

15


Về bản chất kinh tế, BHYT là một chính sách xã hội, hoạt động vì mục
tiêu trợ giúp xã hội, khơng vì lợi nhuận nhưng nó lại mang yếu tố kinh tế,
thuộc phạm trù kinh tế - y tế. Thực hiện BHYT có hiệu quả là giải một bài
tốn về kinh tế y tế, giúp phân phối lại thu nhập. Có thể thấy được điều này
ngay chính trong bản chất xã hội ở sự tương trợ mang tính cộng đồng của
BHYT. Có hai góc độ thể hiện chính đó là sự phân phối trực tiếp và sự phân
phối gián tiếp. Phân phối trực tiếp thể hiện ở sự chuyển phần thu nhập của
người tạm thời khoẻ sang người đang ốm, của người bệnh nhẹ sang người
bệnh nặng, của người trẻ khoẻ sang người già yếu, thông qua sự điều hành
luân chuyển của chính phần thu nhập đóng trực tiếp cho quỹ BHYT. Phân
phối gián tiếp thể hiện ở sự hỗ trợ giữa người giàu và nghèo, người thu nhập
cao và thu nhập thấp.
1.1.1.3. Vai trò của bảo hiểm y tế
BHYT ngày nay được coi như một giải pháp quan trọng mang lại sự
công bằng trong tiếp cận các dịch vụ y tế, xây dựng một lá chắn về tài chính,
bảo vệ người dân trước những rủi ro về sức khoẻ góp phần phát triển kinh tế,
xã hội một cách bền vững. Vai trị của BHYT được thể hiện những điểm
chính như sau:
Thứ nhất, BHYT đảm bảo tính cơng bằng trong tiếp cận dịch vụ chăm
sóc y tế. Thực tế, chúng ta khơng hồn tồn bình đẳng trước bệnh tật bởi vì
bệnh tật đến từ cơ địa, phản ứng với mơi trường, điều kiện kinh tế và cả chất
lượng cuộc sống. Rất khó để thay đổi khả năng miễn nhiễm với bệnh tật của
các nhóm đối tượng dân cư nhưng chúng ta hồn tồn có thể đảm bảo để mỗi
người có thể bình đẳng tiếp cận các dịch vụ y tế cho nhu cầu khám chữa bệnh

khi xảy ra các rủi ro về sức khoẻ thông qua BHYT. BHYT là một trong những
giải pháp, cơng cụ mà con người có thể chi phối được giúp xố đi sự bất cơng
giữa người giàu và người nghèo, để mọi người có bệnh đều được điều trị với

16


điều kiện họ tham gia đầy đủ BHYT. Điều này được cụ thể hoá qua nguyên tắc
hỗ trợ chi trả của BHYT, hỗ trợ theo tình trạng bệnh chứ khơng hỗ trợ theo
mức đóng của các thành viên tham gia BHYT, tơn giáo, giới tính hay bất kỳ
các yếu tốt kinh tế xã hội nào khác.
Thứ hai, BHYT là một trong những lưới an tồn chống lại nghèo đói,
bệnh tật. Đói nghèo và bệnh tật khơng chỉ là mối quan tâm của riêng cá nhân
mà là vấn đề chung của tồn nhân loại. Nghèo đói và bệnh tật có mỗi quan hệ
nhân quả, bệnh tật từ đói nghèo mà ra và bệnh tật làm cho đói nghèo. Các chi
phí y tế thường không được dự liệu và không thể biết trước bởi vì bệnh tật
đến khơng báo trước và khơng biết trước sẽ phải trả bao nhiêu chi phí. Thực
tế đã ghi nhận, chi phí chữa trị cho các bệnh mãn tính, hiểm nghèo một năm
thường cao hơn cả tổng thu nhập cả gia đình người bệnh, đặc biệt ở nhóm dân
số mắc bệnh hiểm nghèo, mãn tính... Đó là chưa kể người bệnh gần như
khơng cịn khả năng lao động, người nhà phải cắt cử người chăm sóc, nhiều
trường hợp đã phải bán hết tài sản mà vẫn không đủ tiền chữa bệnh phải
chứng kiến người thân ra đi từ từ.
Với bản chất nhân văn, nhân đạo và được xã hội hố theo ngun tắc
số đơng bù số ít, tất cả những cá nhân tham gia BHYT phải đóng một
khoản phí nhất định để hình thành quỹ và quỹ này dùng để chi trả chi phí
dịch vụ y tế cho các cá nhân tham gia BHYT không may gặp phải các rủi
ro về sức khoẻ. BHYT có thể coi là “cứu cánh” với những người không
may phải đối diện với những rủi ro về sức khoẻ, đặc biệt là nhóm dân số có
thu nhập thấp, các gia đình bệnh nhân mắc các bệnh mãn tính, bệnh hiểm

nghèo với chi phí điều trị lớn.
Thứ ba, BHYT góp phần nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế tại các
cơ sở khám chữa bệnh đồng thời làm giảm gánh nặng ngân sách cho y tế của
Chính phủ. Hiện nay kinh phí cho y tế tại các quốc gia được hình thành từ bốn

17


nguồn chính: ngân sách nhà nước; quỹ BHYT; phần đồng chi trả của người
dân và các khoản viện trợ từ các tổ chức. Cho tới hiện nay, ngân sách nhà
nước vẫn được coi như nguồn cung cấp chủ yếu cho các dịch vụ y tế, việc mở
rộng BHYT tạo ra quỹ BHYT góp phần giảm bớt gánh nặng cho ngân sách
nhà nước. Từ nguồn quỹ của BHYT, các cơ sở hạ tầng và chất lượng khám
chữa bệnh được nâng lên đáng kể. Hệ thống máy móc hiện đại được tăng
cường, đội ngũ y bác sĩ được đào tạo bài bản cả về chuyên môn lẫn y đức sẽ
đem đến cho người bệnh những chất lượng khám chữa bệnh với sự hài lịng
tối đa. Người có thẻ BHYT được tiếp cận gần như tối đa các dịch vụ kỹ thuật
y tế tiên tiến, hầu hết thuốc, dịch vụ kỹ thuật đều đã dần được quỹ BHYT chi
trả. Ngoài ra, nguồn quỹ tạm thời nhàn rỗi của BHYT có thể được sử dụng để
đầu tư theo các hình thức quy định của nhà nước giúp tăng ngân sách cho y tế,
an sinh xã hội …
Thứ tư, BHYT có vai trị quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển
bền vững của xã hội, gia đình và mỗi cá nhân. Sức khoẻ chính là tài sản đặc
biệt của mỗi quốc gia, một quốc gia "khoẻ" đó là một nhân tố đầu tiên và là
chìa khố vơ cùng quan trọng cho việc phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
Ngược lại, kém sức khoẻ là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra tình
trạng năng suất lao động thấp tại nhiều nước chậm và đang phát triển. Với
nguyên tắc hoạt động của mình, BHYT đã và đang đảm bảo sự cơng bằng
trong chăm sóc y tế, cung cấp dịch vụ y tế tới toàn bộ dân cư. Sự kết hợp
khám bệnh và chữa bệnh giúp người dân phòng ngừa và đẩy lùi sớm các bệnh

tật, hạn chế các biến chứng, phát sinh. BHYT trang bị cho từng cá nhân cơ
chế để bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bản thân và ý thức về sức khỏe của cộng
đồng. BHYT góp phần quan trọng cùng với các chế độ khác của an sinh xã
hội giải quyết tận gốc rễ của đói nghèo, bất ổn và luôn song hành cùng sự
phát triển bền vững của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội.

18


Trong xu thế hội nhập ngày nay, các tiêu chí đánh giá độ văn minh, tiến
bộ của một quốc gia không chỉ thuần túy ở sự phát triển kinh tế mà còn phụ
thuộc vào chất lượng cuộc sống ở từng quốc gia; mức độ, phạm vi bảo vệ
quyền cơ bản của con người; giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là cơng tác
chăm sóc y tế.. Việc đảm bảo thực hiện BHYT nói riêng và pháp luật an sinh
xã hội nói chung trong nhiều trường hợp tạo ra lợi thế lớn cho quốc gia ở tất
cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội…
1.1.2. Phân biệt bảo hiểm y tế với các loại bảo hiểm khác
So với thời điểm sơ khai của hoạt động bảo hiểm với chỉ duy nhất một
loại hình bảo hiểm là bảo hiểm hàng hải thì đến thời điểm hiện tại, có rất
nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau được khai thác, phục vụ cho mọi mặt đời
sống xã hội. Để quản lý các loại hình bảo hiểm này, người ta phân loại thành
các nhóm dựa trên các tiêu chí phân biệt khác nhau. Cùng với bảo hiểm y tế,
bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thương mại là ba loại hình bảo hiểm phổ biến
nhất, tồn tại ở hầu hết các quốc gia.
BHYT được hiểu như là một hình thức bảo hiểm được áp dụng trong
lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhằm bảo đảm chi trả một phần hoặc tồn bộ chi
phí khám, chữa bệnh cho người tham gia BHYT khi họ ốm đau, bệnh tật bằng
nguồn quỹ BHYT do sự đóng góp theo chu kỳ của người tham gia BHYT và
sự hỗ trợ của nhà nước.
BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của

người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ
sở đóng vào quỹ BHXH.
Bảo hiểm thương mại (hay còn được gọi là hoạt động kinh doanh bảo
hiểm) chỉ những hoạt động mà ở đó các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi
ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm

19


×