Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em trong luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.32 KB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG ĐỖ KHÁNH LINH

NGUY£N TắC BảO Vệ Bà Mẹ Và TRẻ EM
TRONG LUậT HÔN NHÂN Và GIA ĐìNH VIệT NAM NĂM 2014

LUN VN THC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG ĐỖ KHÁNH LINH

NGUY£N TắC BảO Vệ Bà Mẹ Và TRẻ EM
TRONG LUậT HÔN NHÂN Và GIA ĐìNH VIệT NAM NĂM 2014
Chuyờn ngnh: Lut Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGÔ HUY CƢƠNG

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hồng Đỗ Khánh Linh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC BẢO
VỆ BÀ MẸ VÀ TRẺ EM TRONG CÁC QUY ĐỊNH CỦA
LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 ............................ 8
1.1.

Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 ............................................................................. 8

1.2.


Khái niệm và cơ sở pháp lý của nguyên tắc bảo vệ bà mẹ
và trẻ em .......................................................................................... 10

1.2.1.

Khái niệm bà mẹ và trẻ em ................................................................ 10

1.2.2.

Khái niệm nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em ................................. 12

1.2.3.

Tính cần thiết tất yếu của việc ghi nhận nguyên tắc ......................... 13

1.2.4.

Sự phát triển của việc ghi nhận nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ
em qua các thời kì pháp luật ............................................................. 19

1.3.

Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em đƣợc ghi nhận trong những
văn bản Pháp luật Quốc tế ............................................................. 22

CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC BẢO VỆ BÀ MẸ VÀ
TRẺ EM ĐƢỢC QUY ĐỊNH TRONG LUẬT HƠN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 .............................................................. 28
2.1.


Nội dung Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ theo quy định của Luật
Hơn nhân và gia đình năm 2014 .................................................... 28

2.1.1.

Hạn chế quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai,
sinh con hoặc đang ni con dưới 12 tháng tuổi .............................. 28

2.1.2.

Quyền sinh con và nuôi con ................................................................... 30


2.1.3.

Bảo vệ người mẹ trong mối quan hệ gia đình ........................................ 32

2.1.4.

Các quy định khác liên quan đến ly hôn ................................................ 33

2.2.

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em............................... 36

2.2.1.

Bảo vệ quyền trẻ em dưới góc độ quyền con người ......................... 36

2.2.2.


Bảo vệ các quyền lợi liên quan đến tài sản của con .......................... 42

2.2.3.

Bảo vệ quyền lợi của trẻ em trong một số trường hợp đặc biệt ........ 46

CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA BÀ MẸ VÀ TRẺ
EM TRONG QUAN HỆ HƠN NHÂN GIA ĐÌNH ............................55
3.1.

Nhận xét chung về thực tiễn thực hiện những quy định về bảo
vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em trong pháp luật hơn nhân gia
đình hiện hành.................................................................................. 55

3.1.1.

Ưu điểm ............................................................................................. 55

3.1.2.

Hạn chế còn tồn tại ............................................................................ 59

3.2.

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em trong quan hệ hơn
nhân gia đình .................................................................................... 68


KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu
Hơn nhân và gia đình có vai trị quan trọng trong sự phát triển ổn định
của xã hội. Không chỉ vợ chồng, các con mà cả Nhà nước, xã hội đều quan
tâm đến việc xây dựng và củng cố quan hệ hôn nhân. Sự bền vững của hôn
nhân là sự bền vững của từng gia đình, tạo nền tảng vững chắc cho sự bền
vững của toàn xã hội. Gia đình có đầm ấm, hạnh phúc thì các thành viên mới
phấn khởi lao động, hăng say sản xuất, xóa đói giảm nghèo. Nói đến bảo vệ
sự bền vững của hôn nhân, chúng ta không thể không nhắc đến việc bảo vệ
quyền lợi chính đáng của bà mẹ và trẻ em – đối tượng đặc biệt của quan hệ
hôn nhân gia đình.
Với đặc trưng riêng về giới tính, người mẹ - người phụ nữ là một
nhóm người dễ bị tổn thương, cần được quan tâm và bảo vệ một cách đặc
biệt. Trong gia đình, người mẹ với tư cách là người vợ, người con dâu, tần
tảo, hi sinh chịu thương chịu khó. Ngồi xã hội, họ là thành phần lao động
chính trong các ngành cơng nghiệp nhẹ, tiểu thủ cơng nghiệp, góp phần xây
dựng kinh tế.
Mục đích của hơn nhân là để duy trì nịi giống, vì vậy bên cạnh người
mẹ không thể không nhắc đến trẻ em. Con trẻ là hạnh phúc của gia đình, là
tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Người xưa có câu: “Trẻ em như một tờ giấy trắng”. Nếu trẻ em không
được sự quan tâm của xã hội, sự bảo vệ của pháp luật thì những mầm non của
hơm nay khơng thể trở thành những cơng dân có ích cho xã hội mai sau.
Bảo vệ quyền trẻ em thường gắn với việc bảo vệ quyền người mẹ và
các quan hệ gia đình. Hiến pháp đã gắn nhu cầu chăm sóc trẻ em bên cạnh

nhu cầu chăm sóc người mẹ. Vì vậy, chăm sóc, giáo dục và bảo vệ bà mẹ và
trẻ em là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân. Và việc thể chế hóa

1


mối quan tâm này một cách cụ thể toàn diện, phù hợp với sự phát triển kinh tế
- xã hội là địi hỏi mang tính cấp thiết và ln được các ban ngành trong cả
nước chú trọng.
Ở nước ta, vị trí vai trị của người mẹ trong các lĩnh vực đời sống, xã
hội và gia đình ngày càng được đề cao. Trong những năm qua, Nhà nước đã
ban hành nhiều chính sách, văn bản pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp liên
quan đến bảo vệ các quyền của bà mẹ và trẻ em. Từ các bản Hiến pháp, các
Bộ luật; Luật đến các văn bản dưới luật đã tạo thành một hệ thống pháp luật
bảo vệ bà mẹ và trẻ em phù hợp với các công ước quốc tế và truyền thống văn
hoá của dân tộc. Đặc biệt phải kể đến Luật hơn nhân và gia đình, nơi phụ nữ
và trẻ em là thành viên của gia đình lại có cách điều chỉnh đặc thù được thể
hiện ở địa vị pháp lý - các quyền và nghĩa vụ - bổn phận của trẻ em cùng với
các quyền và nghĩa vụ - bổn phận pháp luật - đạo đức của các thành viên khác
trong đại gia đình... Bởi vì, sự bình yên của mỗi gia đình là tiền đề quan trọng
cho sự hình thành và phát triển nhân cách, là nền tảng để mỗi cá nhân vươn
tới hồn thiện, góp sức mình vào việc xây dựng xã hội phồn vinh tiến bộ. Đặc
biệt là sự hòa thuận yên ấm của cha mẹ ảnh hưởng quan trọng đến sự phát
triển của những đứa trẻ - mầm non tương lai của đất nước và cũng là những
cá thể tham gia vào các mối quan hệ xã hội sau này.
Trong buổi họp tổng kết cơng tác thi hành Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2000, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xn Phúc chỉ rõ:
Dự án Luật phải thể hiện được 2 quan điểm rất quan trọng, đó là tơn
trọng và bảo đảm thực hiện quyền con người, bình đẳng giới, bảo
vệ bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi và những người yếu thế khác trong

quan hệ hơn nhân và gia đình; thể hiện được các giá trị truyền thống
tiến bộ, văn minh của gia đình Việt Nam vừa phù hợp với pháp luật
và các giá trị chung về hơn nhân và gia đình của các nước trên thế
giới, góp phần thúc đẩy hội nhập quốc tế.

2


Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 ra đời mang một giá trị nhân văn
cao đẹp trong việc thể hiện qua nguyên tắc “bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng
của bà mẹ và trẻ em”, hướng tới việc xây dựng một xã hội bình đẳng, dân
chủ, tiến bộ - thực hiện mục tiêu cao đẹp được Đảng và Nhà nước cũng như
toàn dân hướng tới.
Thế nhưng trong khi nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI thì khắp mọi
nơi trên trái đất phụ nữ vẫn phải chịu những bất công, bị ngược đãi, bị đánh
đập vẫn tồn tại và phổ biến. Khi vợ chồng ly hơn, ngồi việc tình nghĩa mặn
nồng vợ chồng bao năm vun đắp khơng cịn thì ngay cả vấn đề tài sản, sự
thiệt thịi vẫn nghiêng về người phụ nữ. Có rất nhiều lý do dẫn đến sự thiệt
thịi đó như q tin tưởng chồng, hạn chế về hiểu biết pháp luật, trình độ văn
hóa thấp… Bên cạnh đó, theo các báo cáo hàng năm "Tình trạng trẻ em trên
thế giới", trẻ em thường phải mang những gánh nặng và chịu sự đối xử
khơng bình đẳng.
Việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em là
hết sức quan trọng, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Do vậy, đề tài
“Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em trong Luật Hơn nhân và gia đình năm
2014” được lựa chọn để tìm hiểu và nghiên cứu nhằm góp phần bảo vệ quyền
lợi, kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn thi
hành việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ và trẻ em trong
quan hệ hơn nhân và gia đình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thực tế, nghiên cứu pháp luật về bảo vệ bà mẹ và trẻ em là một
mảng đề tài lớn được khá nhiều nhà khoa học, thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm.
Trong khoa học luật nói chung và Luật Hơn nhân và gia đình nói riêng, bảo
vệ phụ nữ và trẻ em được nghiên cứu như một cơ sở pháp lý quan trọng tạo
khung sườn cho việc ban hành các quy phạm pháp luật nhằm thực hiện tốt

3


chính sách được nhà nước đề ra. Đã có một số cơng trình nghiên cứu, giáo
trình chun sâu, bài báo cũng như luận văn, luận án đề cập đến vấn đề này
trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội dung liên quan như:
Nhóm giáo trình, sách chun sâu: Nguyễn Ngọc Điện, Bình luật
khoa học Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam, tập I, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh, 2002; Nguyễn Ngọc Điện, Nghiên cứu về tài sản trong Luật Dân
sự Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002; Tưởng Duy Lượng,
Bình luận một số án dân sự và hơn nhân gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001; Đinh Thị Mai Phương, Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và gia
đình Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. Trường Đại học Luật
Hà Nội, Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Cơng an nhân
dân, Hà Nội, 2009. Ngồi ra cịn một số giáo trình và bình luận khoa học Luật
Hơn nhân và gia đình.
Nhóm luận văn, luận án: Nguyễn Thị Phương Thảo (2007), Nguyên
tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em khi ly hôn theo Luật Hơn nhân và
gia đình Việt Nam năm 2000, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Luật – ĐH Quốc
gia Hà Nội; Lê Thị Nhung (2010), Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em trong
hệ thống pháp luật hơn nhân gia đình Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường ĐH Luật Hà Nội; Lường Ánh Nhàn (2016), “Bảo vệ quyền của người
phụ nữ trong quan hệ hơn nhân gia đình”, Luận văn Thạc sĩ Luật học,Trường

ĐH Luật Hà Nội…
Tuy nhiên, những nghiên cứu này cịn khá khiêm tốn, các cơng trình
này dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của pháp luật hơn nhân
và gia đình về quan hệ tài sản nói chung giữa vợ, chồng, chưa đề cập hoặc ít
đề cập đến thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về vấn đề trên và
chưa thể hiện được rõ ràng nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em được quy định
như thế nào trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

4


Nhận thức được điều đó và mong muốn làm phong phú thêm nội dung
nghiên cứu về quyền lợi hợp pháp của phụ nữ và trẻ em, khai thác rõ ràng, cụ
thể những quy định pháp luật rồi từ đó đưa ra những giải pháp, đề xuất thực tế
để khắc phục hồn thiện, tơi đã mạnh dạn chọn đề tài "Ngun tắc bảo vệ bà
mẹ và trẻ em trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014" làm cơng trình
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận
văn phải giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, đề cập khái quát về các nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam, việc ghi nhận, tính thiết yếu của nguyên tắc bảo
vệ bà mẹ và trẻ em thể hiện trong quy định của Luật.
Thứ hai, nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em được thể chế hóa qua các
chế định hơn nhân gia đình trong các văn bản pháp luật từ trước đến nay và
được phát triển ở Luật Hơn nhân và gia đình hiện hành như thế nào.
Thứ ba, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật thể hiện nguyên tắc
bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm thực hiện được
tối ưu nhất nguyên tắc này vào thực tế cuộc sống.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài

Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em là một trong những nội dung quan
trọng, là mục tiêu hướng tới của nhiều ngành luật khác nhau. Trong khuôn khổ
luận văn thạc sĩ, phạm vi nghiên cứu luận văn thạc sĩ được giới hạn trong các
văn bản pháp luật: Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2014…và một số văn bản có liên quan như: Nghị định số
126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, Thơng tư liên
tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm

5


2016 của do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao ban hành để hướng dẫn thi hành quy định của Luật Hơn nhân
và gia đình ... Nội dung luận văn giới hạn trong vấn đề nội dung nguyên tắc
bảo vệ bà mẹ và trẻ em được quy định trong Luật Hơn nhân và gia đình hiện
hành và khảo sát thực tiễn việc áp dụng nguyên tắc này trong thực tế.
Thông qua việc nghiên cứu trong phạm vi được đề ra ở trên, tác giả
mong muốn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến việc bảo vệ
quyền lợi chính đáng của bà mẹ và trẻ em theo Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2014. Đây khơng chỉ đơn thuần là sự tổng hợp các quy định của pháp
luật về quyền phụ nữ và trẻ em mà còn nhằm để xem xét diễn biến của q
trình giải phóng phụ nữ và chăm sóc, bảo vệ trẻ em qua từng giai đoạn lịch sử
nước ta, qua đó thấy được sự phát triển của xã hội về vấn đề này. Đồng thời,
đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm khắc phục những vướng mắc thực
tiễn khi áp dụng các quy định pháp luật hơn nhân và gia đình hiện hành vào
việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của bà mẹ và trẻ em.
5. Đối tƣợng nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ vấn đề lý luận về việc bảo vệ quyền
lợi của người phụ nữ và trẻ em trong quan hệ hơn nhân và gia đình; quy định

của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 về việc bảo vệ quyền lợi của người
phụ nữ; nêu và phân tích các hạn chế của pháp luật; nghiên cứu thực tiễn các
vấn đề liên quan đến nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em. Từ đó, tác giả nêu
lên những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao
hiệu quả trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của bà mẹ và trẻ em.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:

6


Về phương pháp luận: Luận văn sử dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam làm
phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp… Từ đó tìm ra mối liên hệ
giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn đã phù hợp hay chưa, xem xét
nội dung quy định của pháp luật về nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng
của bà mẹ và trẻ em trong mối quan hệ gia đình.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tỏ việc thể hiện
nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em được cụ thể hóa trong Luật Hơn nhân và
gia đình hiện hành. Từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ
sở quan trọng để các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình
sửa đổi, bổ sung, hồn thiện pháp luật. Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu
ích khơng chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà cịn có giá trị đối với các
cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật về
hơn nhân và gia đình ở Việt Nam.

8. Cơ cấu của luận văn
Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về sự thể hiện nguyên tắc bảo
vệ bà mẹ và trẻ em theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Chương 2: Nội dung của nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em được quy
định trong Luật Hơn nhân và gia đình hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi chính đáng của bà mẹ và trẻ
em trong quan hệ hơn nhân và gia đình.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC BẢO VỆ BÀ MẸ VÀ
TRẺ EM TRONG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH NĂM 2014
1.1. Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014
Hơn nhân và gia đình là các hiện tượng xã hội phát sinh cùng với sự
phát triển của xã hội lồi người, đó là sự gắn kết giữa mối quan hệ vợ chồng,
cha mẹ và con cái, giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Và mỗi cá
nhân con người trong xã hội khơng ai khơng có quan hệ gia đình và đây là
mối quan hệ mang tính phổ biến. Hơn nhân và gia đình là những quan hệ tất
yếu trong đời sống xã hội của loài người ở bất cứ thời kỳ nào. Tuy nhiên, xã
hội là bất biến và hơn nhân gia đình cũng vậy, ln có sự thay đổi, ln phát
sinh mâu thuẫn, vì vậy cần thiết phải có Luật Hơn nhân và gia đình ra đời để
điều chỉnh các mối quan hệ này.
Có thể hiểu Luật Hơn nhân và gia đình với các ý nghĩa khác nhau: là

một môn học, là một văn bản pháp luật cụ thể hay là một ngành luật riêng.
Với ý nghĩa là một môn học: Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
được hiểu là hệ thống những khái niệm, quan điểm, nhận thức, đánh giá mang
tính lý luận về pháp luật hơn nhân và gia đình và thực tiễn áp dụng, thi hành
pháp luật hôn nhân và gia đình.
Với ý nghĩa là một văn bản pháp luật cụ thể, Luật Hơn nhân và gia đình
Việt Nam là đạo luật trong đó chứa đựng các quy phạm pháp luật hơn nhân và
gia đình.
Với ý nghĩa là một ngành luật trong hệ thống pháp luật: Khác với các
quốc gia theo hệ thống pháp luật chung (Common Law), các nước theo hệ
thống pháp luật lục địa trong đó có Việt Nam phân chia hệ thống pháp luật

8


quốc gia thành những ngành luật khác nhau dựa vào nhóm quan hệ xã hội mà
nó điều chỉnh và phương thức mà nó tác động lên quan hệ xã hội đó. Sự phân
chia như vậy có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhằm điều chỉnh pháp luật tốt hơn.
Như vậy, có thể hiểu tồn diện là: Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam
là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tất cả các quy
phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều
chỉnh các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh trong đời sống hơn
nhân gia đình.
Những ngun tắc cơ bản của chế độ hơn nhân và gia đình:
Có 5 ngun tắc cơ bản của chế độ hơn nhân và gia đình ở nước ta
được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình 2014 là:
1. Hơn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
2. Hơn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo,
giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa
người có tín ngưỡng với người khơng có tín ngưỡng, giữa cơng

dân Việt Nam với người nước ngồi được tơn trọng và được pháp
luật bảo vệ.
3. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia
đình có nghĩa vụ tơn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau;
không phân biệt đối xử giữa các con.
4. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ
em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hơn
nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao
quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
5. Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình [22, Điều 2].

9


1.2. Khái niệm và cơ sở pháp lý của nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em
1.2.1. Khái niệm bà mẹ và trẻ em
1.2.1.1. Khái niệm bà mẹ
Trong hệ thống khoa học pháp lý khơng có văn bản nào đưa ra khái
niệm cụ thể về “bà mẹ”. Tuy nhiên, để hiểu sâu về thuật ngữ “bà mẹ”, ta
có thể tìm hiểu từ khái niệm người phụ nữ để từ đó đưa ra khái niệm về bà
mẹ như sau:
- Dưới góc độ xã hội học: phụ nữ là một bộ phận của cơ cấu xã hội.
Dựa vào tiêu chí, đặc điểm nhân khẩu, kết cấu xã hội được phân chia thành
nam và nữ, người già người trẻ, người lớn trẻ em, …
- Dưới góc độ giới tính học: phụ nữ là khái niệm chung để chỉ một
người, một nhóm người hay toàn bộ những người trong xã hội mà một cách tự
nhiên, mang đặc điểm giới tính được xã hội về khả năng mang thai và sinh nở
khi cơ thể họ được hồn thiện và chức năng giới tính hoạt động bình thường.
- Dưới góc độ pháp lý: Phụ nữ hay nữ giới được xác định là những chủ

thể tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất định mà không phải là nam giới.
Từ khái niệm người phụ nữ, có thể đưa ra kết luận về khái niệm “bà
mẹ”. Bà mẹ được hiểu là người phụ nữ mang thai, sinh con và nuôi con khôn
lớn, thực hiện chức năng cao cả của người phụ nữ mà khơng ai có thể thay
thế được. Như vậy, khái niệm bà mẹ nằm trong khái niệm về phụ nữ, phụ nữ
được hiểu rộng hơn còn bà mẹ là những người phụ nữ đã mang thai và sinh
con, nuôi con – một tập hợp nhóm người phụ nữ có đặc điểm riêng biệt.
Hiện nay, với những tiến bộ trong y học, chức năng làm mẹ sinh học
được chia ra thành nhiều nhóm: làm mẹ do di truyền sinh học (người phụ nữ
cung cấp trứng), người mẹ mang thai (người phụ nữ có thai, người phụ nữ
mang thai hộ), người mẹ xã hội (người mẹ nuôi dưỡng đứa trẻ).

10


1.2.1.2. Khái niệm về trẻ em
Trẻ em là một thuật ngữ được nhắc đến thường xuyên và được đề cập
trong Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ năm 1924, Tuyên ngôn Liên hợp quốc về quyền
trẻ em năm 1959, tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1968…
Hiểu theo các thơng thường thì trẻ em bao gồm bé trai, bé gái còn nhỏ
tuổi, thường là lớp thiếu niên, nhi đồng hay còn được gọi là thế hệ măng non
của xã hội, là nguồn hạnh phúc trong gia đình.
Theo định nghĩa sinh học, trẻ em là người trong giai đoạn phát triển, từ
khi còn trong trứng nước đến tuổi trưởng thành. Tâm lý học cho rằng trẻ em
là giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý – nghiên cứu con người.
Nhìn từ góc độ xã hội học, trẻ em là giai đoạn xã hội hóa mạnh nhất và là
giai đoạn đóng vai trị quyết định của việc hình thành nhân cách mỗi con người.
Dưới góc độ luật học, việc xác định trẻ em căn cứ vào việc phân định
độ tuổi. Tuổi là một trong những căn cứ để đánh giá giai đoạn phát triển thể
chất, nhận thức cũng như tâm – sinh lý của con người.

Theo công ước về quyền trẻ em: “trẻ em là những người dưới 18 tuổi,
trừ những trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em có quy định tuổi thành
niên thấp hơn”. (Điều 1)
Tại một số quốc gia khác nhau, phụ thuộc vào cách đánh giá về sự phát
triển cũng như dựa vào các điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội để xác định và
quy định về nhóm người là trẻ em. Tại một số quốc gia Bắc Âu như Thụy Điển,
Đan Mạch,… chú ý nhiều đến vấn đề an sinh xã hội thì có quy định lớn hơn về
mức tuổi của trẻ em, cụ thể quy định trẻ em là người dưới hai mươi tuổi.
Ở Việt Nam, theo quy định tại Điều 1 Luật trẻ em thì trẻ em được định
nghĩa là người dưới 16 tuổi.
Như vậy, có thể hiểu trẻ em là một nhóm người ở một độ tuổi nhất định
trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người, có những đặc điểm về sức

11


khỏe, tâm sinh lý khác với các nhóm khác trong xã hội và được hưởng những
quy chế pháp lý đặc thù.
1.2.2. Khái niệm nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em
Theo từ điển Tiếng Việt, nguyên tắc được hiểu là: “Điều cơ bản đã
được định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, nguyên tắc của một ngành luật được
xây dựng trên cơ sở những tư tưởng chỉ đạo nhất định. Những tư tưởng này
đòi hỏi phải được tuân thủ, chấp hành một cách tuyệt đối trong quá trình lập
pháp cũng như áp dụng pháp luật.
Với ý nghĩa là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, Luật Hơn nhân và gia đình cũng có những ngun tắc cơ bản riêng. Đó
là những “nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo quán triệt toàn bộ hệ thống các quy
phạm pháp Luật Hơn nhân và gia đình” [25, tr.33]. Nội dung của các nguyên
tắc thể hiện quan điểm pháp luật của Đảng và Nhà nước đối với nhiệm vụ,

quyền hạn và chức năng của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, của các cá
nhân và thành viên trong gia đình trong việc thực hiện chế độ hơn nhân và gia
đình. Các quy phạm pháp Luật Hơn nhân và gia đình phải thể hiện đúng nội
dung các nguyên tắc cơ bản.
Hệ thống các nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình từ khi được
ban hành lần đầu tiên cho đến nay đã không ngừng được bổ sung và hoàn
thiện cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Ngay từ Luật
Hơn nhân và gia đình năm 1959, bà mẹ và trẻ em đã là đối tượng được nhà
nước dành sự quan tâm và bảo vệ đặc biệt. Tuy nhiên phải đến Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1986 thì nguyên tắc này mới được ghi nhận thành một
nguyên tắc riêng. Và nguyên tắc này được cụ thể hóa tại Luật Hơn nhân và
gia đình năm 2014 như sau: “4. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm
bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về

12


hơn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của
người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình” [22, Điều 2, Khoản 4]
Làm mẹ là một thiên chức thiêng liêng của người phụ nữ. Với những
đặc điểm và chức năng riêng, người mẹ ln nỗ lực và cố gắng dung hịa với
nhiều vai trò khác nhau. Tuy nhiên, người mẹ lại là những người chân yếu tay
mềm, dễ bị tổn thương và bị ảnh hưởng nhiều bởi tục lệ phong kiến, phong
tục tập qn,… Vì lẽ đó, pháp luật ghi nhận quyền làm mẹ, bảo vệ người mẹ
bằng việc cụ thể hóa các nội dung trong các văn bản pháp luật, bảo vệ quyền
sinh con, quyền nhận con nuôi, quyền được ưu tiên nuôi con dưới 36 tháng
tuổi… của người mẹ.
Đối với trẻ em, để đảm bảo cho sự phát triển toàn diện của trẻ, pháp
luật cần trao cho trẻ em những quyền nhất định và mọi người không những
phải tôn trọng những quyền đó mà cịn phải thực hiện những hành vi phù hợp

pháp luật để trẻ em thực hiện quyền lợi của mình.
Bảo vệ bà mẹ ln gắn liền với bảo vệ con của họ. Bảo vệ bà mẹ là bảo
vệ quyền làm được làm mẹ, quyền nuôi con, … của họ và bảo vệ con của họ.
Bảo vệ trẻ em cũng vậy, mục đích của bảo vệ chính là để chăm sóc, ni
dưỡng đặc biệt, dành điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ em. Nguyên
tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em trở thành nguyên tắc xun suốt tồn bộ nội dung
của Luật Hơn nhân và gia đình, trở thành tư tưởng chủ đạo của các điều luật,
thể hiện sự nhất quán trong quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.
1.2.3. Tính cần thiết tất yếu của việc ghi nhận nguyên tắc
Người mẹ không chỉ có vai trị làm mẹ mà đối với gia đình, họ cịn là
người vợ, người con trong gia đình, đối với xã hội, họ là người xây dựng
kinh tế. Người Việt Nam xưa đã có câu “Đàn ơng xây nhà, đàn bà xây tổ
ấm”, nhằm đề cao vai trò của người phụ nữ trong việc xây dựng một gia
đình bền vững.

13


Ở nước ta, Nghị quyết số 11-NQ/TW của bộ Chính trị về Công tác phụ
nữ thời kỳ đầy mạnh CNH-HĐH đất nước đã khẳng định: “Phụ nữ vừa là
người lao động, người công dân, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của
con người”. Thực tế cũng đã chứng minh, trong xã hội truyền thống cũng như
xã hội hiện đại, với thiên chức mang thai, sinh con và làm mẹ, phụ nữ ln
đảm đương vai trị cao cả: duy trì và phát triển nòi giống, tái sản xuất sức lao
động; ni dạy, hình thành nhân cách thế hệ trẻ, góp phần xây dựng nguồn
nhân lực có chất lượng cho đất nước. Khơng chỉ vậy, phụ nữ cịn là người giữ
vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các mối quan hệ và tổ chức cuộc sống gia
đình; Là người vun đắp hạnh phúc, người duy trì và phát triển những giá trị
văn hóa gia đình, giữ gìn bản sắc dân tộc.
Người mẹ còn là tấm gương phản chiếu cho con, người mẹ đức độ vị

tha thường có con sẽ ngoan ngỗn, lễ phép. Người mẹ có vai trị to lớn trong
việc nuôi dạy con trở thành những người tốt. Đề tài nghiên cứu “Vai trị của
phụ nữ trong gia đình” của Trung tâm nghiên cứu phụ nữ và gia đình - Học
viện Phụ nữ Việt Nam cho thấy, có 32,4

người vợ đảm nhiệm việc kèm cặp

đôn đốc con học trong khi tỷ lệ này ở chồng chỉ có 10,7

và hai vợ chồng

đảm nhiệm ngang nhau là 18,8 . Không chỉ kèm cặp con về kiến thức, người
mẹ còn là người bạn lớn của con; chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, giúp con giải
quyết những khúc mắc từ đáy lòng, vượt qua những khó khăn trong cuộc
sống. Bác Hồ đã dạy rằng: “Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng
thiếu giáo dục trong gia đình và ngồi xã hội thì cũng khơng hồn tồn mang
lại kết quả tốt”. Bao giờ gia đình cũng là nơi giáo huấn đầu tiên của đứa trẻ.
Trong thời kỳ mang thai, mọi tình cảm, hành vi cũng như thể lực của người
mẹ đều trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý của đứa con sau
này. Những năm tháng của thời ấu thơ, những việc chăm sóc, dạy dỗ của cha
mẹ, ơng bà đều có tác động mạnh đến việc hình thành nhân cách của đứa trẻ.

14


Điểm mạnh nhất của giáo dục gia đình là quan hệ tình cảm ruột thịt giữa cha
mẹ và con cái. Từ ánh mắt, nụ cười của người mẹ, đến cách răn dạy của người
cha, đã tạo nhiều cảm xúc tích cực, yêu thương, có sực mạnh cảm hóa con cái.
Trong một xã hội đang có nhiều biến động về kinh tế, xã hội, văn hóa như
hiện nay thì liệu chức năng cơ bản của gia đình là giáo dục, chăm sóc, bảo vệ

con cái càng phải được quan tâm, đề cao và chú trọng. Mỗi gia đình phải là
một tổ ấm lành mạnh, đủ sức để bảo vệ con cái được sống an toàn trong thế
giới đầy sự bất ổn này.
Đối với trẻ em, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là vấn đề có tính
chiến lược lâu dài, góp phần quan trọng trong việc chuẩn bị và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đầu tư cho trẻ em là đầu tư cho tương lai
của đất nước. Làm tốt công tác này là trách nhiệm của các cấp Ủy Đảng,
chính quyền, đồn thể, gia đình, nhà trường và xã hội. Để tăng cường cơng
tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong thời gian tới, Chỉ thị số 20CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính Trị đã quán triệt một số nhiệm vụ
trọng tâm như sau:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, kiến thức, kỹ
năng chăm sóc giáo dục và bảo vệ trẻ em, nâng cao trách nhiệm của gia đình,
nhà trường, cộng đồng dân cư và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Rà sốt, sửa đổi bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính
sách về chăm sóc giáo dục và bảo vệ trẻ em, xây dựng và tổ chức thực hiện
có hiệu quả các chương trình, đề án chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, của từng địa
phương, từng ngành…
- Bố trí tăng nguồn ngân sách cho sự nghiệp chăm sóc, giáo dục và bảo
vệ trẻ em, trong đó ưu tiên kinh phí đầu tư cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số,

15


vùng đặc biệt khó khăn,trẻ em các gia đình chính sách, gia đình nghèo và trẻ
em có hồn cảnh đặc biệt.
- Mở rộng răng cường hợp tác quốc tế nhằm trao đổi kinh nghiệm; huy
động nguồn lực bên ngoài cho cơng tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em.
- Tăng cường quản lý nhà nước, củng cố, kiện tồn tổ chức bộ máy, cán

bộ làm cơng tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em các cấp, thường xuyên thanh tra,
kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật và cơng tác chăm sóc, bảo vệ trẻ
em, phát hiện ngăn chặn lên án các hành vi bạo lực, vi phạm quyền trẻ em.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, người
truyền bá chủ nghĩa Mác – Lenin vào Việt Nam đã mở ra kỷ nguyên mới về
quyền con người, quyền công dân cho nhân dân Việt Nam. Người đặc biệt
quan tâm đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ em. Người từng nói:
Muốn có chế độ XHCN thì phải có con người XHCN
Muốn có con người XHCN thì phải có tư tưởng XHCN
Rồi từ đó di đến phải trồng người, phải giáo dục rèn luyện ngay từ
khi cịn nhỏ.
Vấn đề trẻ em nói chung và quyền trẻ em nói riêng được cương lĩnh
hóa trong Chương trình Việt Minh và sau đó Cách mạng tháng tám dành
chính quyền về tay nhân dân lao động đã được thể chế hóa về mặt nhà nước
trong hệ thống pháp luật. Hiến pháp 1946 – hiến pháp đầu tiên khẳng định trẻ
con được săn sóc về mặt giáo dưỡng. Hiến pháp 1959 và 1980 đều quy định
nhà nước bảo hộ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em, dành một điều riêng quy định
quyền của trẻ em trong Chương quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến
pháp năm 1992 ngoài việc quy định quyền của trẻ em, đã quy định trách
nhiệm của nhà nước và gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Hiến pháp năm 2013 một lần nữa khẳng định, đề cao và mở rộng hơn các
quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 1992 ngoài việc quy định

16


quyền trẻ em còn quy định trách nhiệm của Nhà nước, gia đình trong việc bảo
vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Hiến pháp 2013 một lần nữa khẳng định, đề
cao và mở rộng các quyền con người, quyền công dân. Trong đó, trẻ em là đối
tượng được nhà nước chủ trương quan tâm đặc biệt: Nhà nước bảo hộ hơn

nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. (Điều 36)
Như vậy, quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của nhà nước về
quyền trẻ em là cơ sở để xây dựng và bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản
của trẻ em trên thực tế. Đồng thời, được cụ thể hóa bằng các chương trình,
chính sách, chế độ ưu đãi hỗ trợ để trẻ em được hưởng các quyền của mình
một cách tồn vẹn nhất.
Tuy nhiên, dưới chế độ phong kiến, bà mẹ và trẻ em là lớp người bị áp
bức, bóc lột, chịu nhiều thiệt thịi bất cơng. Quyền lợi của họ hầu như chưa
được quan tâm xem xét. Người mẹ chỉ là cái bóng của chồng, khơng có quyền
tự quyết định và làm gì cũng phải xin phép. Với quan niệm “nhất nam viết
hữu, thập nữ viết vô” (sinh một con trai coi như có con, mười con gái coi như
khơng có con), cùng với lễ giáo phong kiến: thuyết “tam tịng”, “tứ đức” đã
biến phụ nữ thành nơ lệ trong gia đình phong kiến. Quyền lợi của trẻ em (đặc
biệt là bé gái) cũng không được đảm bảo mà phụ thuộc vào người cha. Người
cha có thể quyết định bán, cho thuê, gán nợ và quyết định cả chuyện cưới xin
của con mình. Ở xã hội mới, quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em đã được
bảo đảm hơn nhưng do một phần ảnh hưởng của chế độ phong kiến và đặc
điểm riêng về giới tính, lứa tuổi nên trong quan hệ hơn nhân và gia đình,
người mẹ và trẻ em vẫn thường gặp phải khơng ít khó khăn và phần nào chịu
yếu thế hơn so với nam giới, trong việc bảo đảm những nhu cầu sống, nhu cầu
phát triển cho bản thân và trong việc đảm bảo quyền lợi của mình. Do đó,
việc ghi nhận ngun tắc sẽ là cơ sở vững chắc cho việc xóa bỏ tận gốc rễ
những tàn dư cịn lại của chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến, đồng thời

17


chống lại ảnh hưởng tiêu cực của hôn nhân và gia đình tư sản để củng cố chế
độ hơn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, việc ghi nhận bằng pháp luật là điều cần thiết bởi vì “đảm

bảo bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để quyền
con người dược thực hiện” [28, tr.50]. Thông qua và bằng các quy định pháp
luật cụ thể, Nhà nước và xã hội còn xác định được những ưu tiên nhằm động
viên và phát huy vai trò của người phụ nữ trong mọi mặt đời sống, để trẻ em
có thể có một mơi trường phát triển lành mạnh nhất, trở thành tương lai, trụ
cột đất nước. Đóng vai trị quan trọng trong bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ
em trong quan hệ Hôn nhân và gia đình chính là Nhà nước – cơ quan cao nhất
đại diện cho quốc gia, dân tộc. Còn Nhà nước đã sử dụng pháp luật như một
công cụ và là cách thức chủ yếu để các quốc gia ghi nhận vấn đề bảo vệ
quyền của phụ nữ, của trẻ em. Bảo vệ quyền của họ bằng pháp luật không chỉ
là việc ghi nhận các quyền mà còn bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện
bằng tính cưỡng chế tuyệt đối. Để sử dụng được hiệu quả công cụ này chính
là thể hiện sự quản lý của một quốc gia. “Tôn trọng, thực thi và bảo vệ quyền
con người về hơn nhân và gia đình đã thực sự là tiêu chí để đánh giá tiến bộ
xã hội khơng chỉ mang tính quốc gia mà cịn mang tính tồn cầu” [7, tr.15].
Ngoài ra, việc ghi nhận nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em trong pháp
luật hôn nhân và gia đình là một xu hướng tất yếu, phù hợp với tình hình thế
giới. Vấn đề quyền con người của phụ nữ và trẻ em được đề cập khá sớm
trong các văn bản pháp luật quốc tế. Đã có rất nhiều văn bản pháp luật ghi
nhận quyền con người của phụ nữ và quyền trẻ em. Mục đích của việc ghi
nhận này là để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, đảm bảo những quyền
này được thực hiện trên thực tế. Công ước CEDAW – công ước về xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 đã được Việt Nam phê
chuẩn năm 1982 và Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 cũng đã

18


được Việt Nam gia nhập năm 1990. Theo quy định của Cơng ước thì các quốc
gia thành viên phải có những biện pháp để “nội luật hóa” đảm bảo những quy

định trong công ước được thực hiện trên thực tế. Trong hệ thống pháp luật
Việt Nam, Luật Hôn nhân và gia đình là ngành luật gần gũi, bảo vệ một cách
cụ thể quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. Vì vậy, việc bảo vệ bà mẹ và trẻ em
được ghi nhận thành một nguyên tắc quan trọng trong luật là điều tất yếu.
1.2.4. Sự phát triển của việc ghi nhận nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ
em qua các thời kì pháp luật
Lịch sử Việt Nam gắn liền với chế độ phong kiến tập quyền kéo dài
hàng nghìn năm, luật pháp chịu ảnh hưởng nhiều của tư tưởng triết học Nho
giáo, Phật giáo với quan niệm “trọng nam khinh nữ”, “tam tịng tứ đức”. Bên
cạnh đó, pháp luật về hơn nhân và gia đình có liên quan nhiều đến phong tục
tập quán và đạo đức, rất nhiều điều luật được bắt rễ từ phong tục tập quán của
Việt Nam, đi sâu vào tiềm thức, thành thói quen ứng xử trong nhân dân.
 Dưới thời kì phong kiến
Ngay thời gian đầu Nhà nước phong kiến đã lên tiếng bảo vệ quyền trẻ
em từ rất sớm. Thời nhà Trần đã lập hàng loạt kho thóc ở Trung ương và địa
phương nhằm chẩn cấp cho dân nghèo, Nhà nước cũng bảo trợ cho người tàn
tật, trẻ mồ côi. Thời Lê Sơ (thế kỉ XV) cứu trợ của Nhà nước cho các đối
tượng đặc biệt khó khăn trong đó việc bảo vệ quyền trẻ em đã được Quốc
triều hình luật quy định. Thời nhà Nguyễn, Pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em
cũng được đề cập trong Bộ luật Gia Long (thế kỉ XIX). Bộ luật Gia Long và
Bộ luật Hồng đức được đánh giá là những thành tự lập pháp của nhà nước
phong kiến Việt Nam thời bấy giờ. Nhưng nổi bật hơn vẫn là Luật Hồng Đức
của nhà Lê. Với năm mối quan hệ cơ bản theo quan niệm của Khổng Tử:
quần thân (Vua – Tôi), phụ tử (Vợ - chồng) huynh đệ (Anh- Em) bằng hữu
(Bạn – bè) thì đã có ba mối quan hệ gắn bó trực tiếp gia đình. Do ảnh hưởng

19


của tư tưởng Nho giáo và đề cao quyền gia trưởng trong gia đình cùng với sự

kết hợp giữa phong tục tập qn nên gia đình có vị trí, vai trò hết sức quan
trọng trong xã hội phong kiến, quyền lợi của gia đình ln được đặt trên
quyền lợi của cá nhân. Những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của trẻ em,
quyền lợi của các con trong gia đình chỉ ở mức độ nhất định, sự công nhận
quyền sở hữu tài sản riêng của các con và cho phép các con ra ở riêng: con cái
khi đủ 15 tuổi được cấp ruộng đất công để tự nuôi sống bản thân (điều 347)
con cái được quyền sở hữu tài sản do được thừa kế với quyền thừa kế như
nhau (điều 388) không phân biệt con trai với con gái; không cho phép cha mẹ
bán tài sản của con thông qua những quy định bảo vệ quyền thừa kế tuyệt
đối của con cái và trừng phạt mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu của các
con (điều 377 Điều 379); cha mẹ phải chịu trách nhiệm về những hành vi
của con vì hơn ai hết cha mẹ là người có nghĩa vụ và trách nhiệm dạy bảo,
giáo dục con do đó mà khi con làm sai thì cha mẹ là người có lỗi đầu tiên.
Do đó, cha mẹ phải chịu trách nhiệm hình sự và dân sự trong bồi thường
thiệt hại (điều 457). Bộ luật này còn quy định việc trừng trị tội gian dâm với
trẻ em gái, tội buôn bán phụ nữ, trẻ em; việc giảm hoặc hoãn thi hành án đối
với phụ nữ có thai hay đang ni con nhỏ; quyền thừa kế của con nuôi.
Tuy nhiên, bộ luật này vẫn bộc lộc nhiều hạn chế: chưa quy định về hậu
quả pháp lý của ly hôn; chưa quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối
với con về tài sản mà chỉ mới quy định các quan hệ nhân thân giữa cha mẹ đối
với con; đặc biệt là chưa quan tâm bảo vệ quyền lợi của con ngồi giá thú;
chưa có quy định về xác định cha mẹ - con nên đứa trẻ sinh ra ngoài giá thú
đều không được bảo vệ quyền lợi pháp lý.
 Thời kỳ Pháp thuộc, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong
kiến, đặt dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Sau khi hoàn thành việc xâm
lược nước ta, để thực hiện chính sách chia để trị, thực dân pháp đã ban hành ở

20



×