Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong hoạt động của luật sư việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THÚY HẰNG

QUY TẮC ĐẠO ĐỨC VÀ ỨNG XỬ NGHỀ
NGHIỆP
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ VIỆT
NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THÚY HẰNG

QUY TẮC ĐẠO ĐỨC VÀ ỨNG XỬ NGHỀ
NGHIỆP
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 8380101.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM THỊ DUYÊN THẢO



HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu, vi dụ và trích dẫn Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và
đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Thúy Hằng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ QUY TẮC ĐẠO ĐỨC VÀ ỨNG XỬ NGHỀ
NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ ................................. 4
1.1.

Khái quát về luật sư và nghề luật sư ............................................................. 4


1.2.

Khái niệm, đặc điểm quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong
hoạt động của luật sư ..................................................................................... 7

1.3.

Cơ chế đảm bảo thực hiện quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
trong hoạt động của luật sư ......................................................................... 12

1.4.

Ý nghĩa, hiệu quả của Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong
hoạt động của luật sư ................................................................................... 18

1.5.

Khái quát lịch sử hình thành và nội dung Quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp luật sư của một số Quốc gia trên Thế giới .............................. 30

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY TẮC ĐẠO ĐỨC VÀ ỨNG
XỬ NGHỀ NGHIỆP LUẬT SƯ VIỆT NAM ............................................ 49
2.1.

Thực trạng thực hiện quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong
hoạt động của luật sư Việt Nam .................................................................. 49

2.2.


Thực trạng cơ chế đảm bảo thực hiện quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp trong hoạt động của luật sư Việt Nam............................................. 65

2.3.

Đánh giá ...................................................................................................... 73

Chương 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUY TẮC ĐẠO ĐỨC VÀ ỨNG XỬ
NGHỀ NGHIỆP LUẬT SƯ VIỆT NAM ................................................ 86
3.1.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến quy chế hoạt
động của luật sư ........................................................................................... 86

3.2.

Tiếp tục hoàn thiện những chuẩn mực trong bộ quy tắc đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp của luật sư Việt Nam .................................................. 88


3.3.

Tăng cường sự phối hợp giữa Liên đoàn Luật sư với các Sở Tư pháp
trong việc quản lý tình hình hoạt động của các Đoàn và tổ chức hành
nghề luật sư ở địa phương ........................................................................... 89

3.4.

Tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp giữa
Liên đoàn Luật sư với các Đoàn luật sư địa phương và các tổ chức

hành nghề luật sư ......................................................................................... 93

3.5.

Tăng cường đào tạo kỹ năng, đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp cho
luật sư .......................................................................................................... 95

3.6.

Hoàn thiện những quy định về xử lý kỷ luật đối với luật sư vi phạm
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong hoạt động của luật sư ........ 96

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 98


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghề luật sư là một nghề, trong đó, các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư
cung cấp dịch vụ pháp lý cho cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật.
Nghề luật sư đặc biệt bởi khi hành nghề, trách nhiệm của luật sư không chỉ tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật mà còn tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
luật sư. Đối với nghề luật sư nói riêng, những chuẩn mực ấy ln gắn bó chặt chẽ
trong suốt thời gian hành nghề, những quy tắc này điều chỉnh hành vi người hành
nghề luật sư trong cả công việc và đời sống riêng của họ.
Như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Có tài mà khơng có đức là người
vơ dụng”, đạo đức nghề nghiệp là vấn đề khơng mới nhưng ln mang tính thời sự,
cấp thiết. Song song với những mặt tích cực, tiến bộ của quá trình mở cửa, hội
nhập, giao lưu quốc tế, mặt trái của kinh tế thị trường, của đồng tiền, danh vị và lợi
ích cá nhân, lợi ích nhóm đang tạo ra những hệ lụy, làm băng hoại và suy thoái đạo

đức con người ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực, nghề luật sư cũng không ngoại lệ
trong xu hướng đó. Dù pháp luật có chặt chẽ đến đâu vẫn không thể điều chỉnh kịp
theo tốc độ phát triển của kinh tế thị trường và các mối quan hệ mới phát sinh, chính
vì thế đã tạo ra những khe hở, những khẽ hở này có khả năng bị lợi dụng bởi sự
chuyên nghiệp của luật sư.
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư góp phần quan trọng trong
việc hạn chế tình huống trên; là “tấm gương” soi hàng ngày để các luật sư tự điều
chỉnh thái độ, hành vi của mình, khiến bản thân ngày càng đẹp hơn về hình ảnh
chuyên nghiệp, tận tâm trong quá trình hành nghề, xứng đáng với sự tin tưởng của
xã hội đối với nghề luật sư. Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Quy tắc đạo đức
và ứng xử nghề nghiệp trong hoạt động của luật sư Việt Nam” để thực hiện luận
văn thạc sỹ của mình.
2. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu
Mục tiêu chung của đề tài luận văn là làm rõ tình hình thực tế thực hiện các
chuẩn mực đạo đức và ứng xử trong hoạt động nghề luật sư, cơ chế đảm bảo hiệu

1


quả của Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. Trên cơ sở đó
chỉ ra những bất cập, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện bộ Quy tắc nghề luật sư
và phát huy các giá trị nhân văn của nghề luật sư.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Một số đề tài về nghề luật sư đã được thực hiện như: Luận văn thạc sĩ Luật
học “Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam hiện nay” của Trần Thị
Việt Hà; luận văn thạc sĩ Luật học “Văn hóa pháp luật của luật sư ở Việt Nam” của
Trần Thị Ngọc; luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt
Nam” của Hoàng Thị Anh Thư; chuyên đề “Nghề luật sư ở Việt Nam – thực trạng
và giải pháp” của Lê Văn Cao;
Ngồi ra, cịn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí và báo, như: Bài viết “Lịch

sử hình thành và phát triển thiết chế luật sư tại Việt Nam” – Thạc sĩ, luật sư Ngô
Văn Hiệp; bài viết “Chuyện về chiếc thẻ luật sư” – Tiến sĩ, luật sư Phan Trung
Hoài; bài viết “Từ việc giải quyết khiếu nại liên quan đến quyết định kỷ luật luật sư
- Những tồn tại và đề xuất, kiến nghị” – Tạ Thị Tài,…
Những đề tài luận văn và các bài viết trên đây tập trung vào quá trình hình
thành, phát triển nghề luật sư, những bất cập và giải pháp hoàn thiện quy định pháp
luật liên quan đến hành nghề luật sư, tuy yếu tố đạo đức nghề luật sư cũng được
nhắc tới trong các đề tài, bài viết trên nhưng chỉ đưa ra một cách khái quát nhất
nhằm giới thiệu với người đọc biết đạo đức nghề luật sư được xây dựng thành một
văn bản thống nhất áp dụng trên cả nước; hoặc chỉ phân tích một số quy tắc đạo đức
và ứng xử trong vài mối quan hệ thường xuyên của luật sư như đối với khách hàng
trong việc thanh toán thù lao, cách ứng xử khi làm việc với các cơ quan nhà nước
nên chưa có đề tài hay bài viết nào nghiên cứu toàn diện về các chuẩn mực đạo đức
và ứng xử hành nghề luật sư trong Quy tắc nghề nghiệp luật sư ở Việt Nam.
4. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu: khái quát nội dung của các quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp luật sư, chỉ ra những bất cập của các quy tắc đó với quy định của pháp
luật và đề xuất hướng hoàn thiện.

2


- Đối tượng nghiên cứu: nội dung các chuẩn mực về đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư trong hoạt động nghề tại Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu theo phạm vi áp dụng của Bộ
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong hoạt động của luật sư Việt Nam,
khơng phân tích từng nguyên tắc cụ thể mà tiến hành phân tích khái quát theo từng
nhóm quy tắc mà luật sư tiếp xúc trong hoạt động nghề nghiệp. Qua đó đối chiếu
với các quy định của pháp luật và so sánh với chuẩn mực nghề nghiệp luật sư được
thể hiện trong Quy tắc nghề nghiệp của một số nước để chỉ ra những điểm tiến bộ,

điểm chưa hợp lý để đưa ra phương án hoàn thiện bộ Quy tắc nghề nghiệp luật sư
Việt Nam.
5. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của đề tài tập trung vào những vấn đề sau: Lý luận và
thực tiễn thực hiện Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong hoạt động của
luật sư; Thực trạng thực hiện quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong hoạt
động của luật sư Việt Nam; Kiến nghị các giải pháp hoàn thiện.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận trong đề tài được vận dụng từ
chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong đời sống và sử
dụng phương pháp khoa học như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh,
phương pháp thống kê,…
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm ba chương:
Chương 1. Lý luận về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong hoạt
động của luật sư.
Chương 2. Thực trạng thực hiện quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
trong hoạt động của luật sư Việt Nam.
Chương 3. Giải pháp đảm bảo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong
hoạt động của luật sư Việt Nam.

3


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ QUY TẮC ĐẠO ĐỨC VÀ ỨNG XỬ NGHỀ NGHIỆP
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ
1.1. Khái quát về luật sư và nghề luật sư
1.1.1. Lịch sử hình thành nghề luật sư ở một số nước trên Thế giới
Nhà nước Hy Lạp cổ đại, từ Thế kỷ V trước cơng ngun, đã hình thành một

Hội đồng xét xử với sự tham gia của mọi người dân, nguyên đơn tự trình bày hoặc
nhờ người khác trình bày hộ lý lẽ, ý kiến của mình trước Hội đồng. Đây là cơ sở
hình thành nghề luật sư.
Thế kỷ thứ IV trước công nguyên, chế độ bào chữa bước đầu phát triển khi
người đi kiện biết nhờ đến người mình tín nhiệm biện hộ cho mình. Những người
như vậy, khơng chỉ có uy tín trong vùng về nhân cách mà cịn am hiểu và đưa ra
những phân tích điều khoản pháp luật đê áp dụng trong đời sống.
Đến thế kỷ I trước công nguyên hoạt động bào chữa bắt đầu xuất hiện nhưng
chủ yếu do những người thân, những nhà quý phái La Mã tham gia như là mô ̣t hoa ̣t
đô ̣ng xã hô ̣i phu ̣ thêm , chưa phải thành mô ̣ t nghề nghiê ̣p đ ộc lập. Trước nhu cầu
thực tế, hoạt động bào chữa dần trở nên phổ biến và được pháp luật thừa nhận. Vào
giai đoa ̣n cuố i của nề n Cô ̣ng hòa La Mã , Nhà cầm quyền La Mã đã công nh ận việc
hành nghề bào chữa dựa theo những truyề n thố ng và tâ ̣p quán đã đươ ̣c hình thành
sau nhiề u thế kỷ.
Giai đoạn các hoàng đế Justin (518-578) của vương triều Justin (Justinian
Dynasty : 518-602) thuô ̣c Đế chế La Mã phiá Đông , mô ̣t đa ̣o luâ ̣t chin
́ h thức thiế t
lâ ̣p đoàn thể luâ ̣ t sư La Mã mới đư ợc ban hành . Kể từ đó , lầ n đầ u tiên luâ ̣t sư
đoàn đươ ̣c công nhâ ̣ n bởi luâ ̣t lê ̣ của nhà vua . Theo con đường xâm lươ ̣c và đô
hô ̣ của thực dân phương Tây , nó đươ ̣c lan truyề n đế n mô ̣t số quố c gia Đông Nam
Á từ thế kỷ XVII – XVIII.
Ở Anh, từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIII, nghề luật sư được xây dựng trên mơ
hình tổ chức tư pháp và tố tụng. Hiện nay, nghề luật sư ở Anh được phân chia thành
hai hoạt động riêng biệt là tư vấn và tranh tụng. Tương ứng với hai hoạt động này là

4


đặc điểm của nghề luật sư ở Anh có hai dịch vụ luật sư: luật sư tư vấn và luật sư
tranh tụng cùng tồn tại song song với chức năng riêng biệt. Luật sư tranh tụng chỉ

thực hiện biện hộ tại tịa án và chi phí rất cao; ngược lại, luật sư tư vấn thực hiện
các công việc liên quan đến việc đại diện đàm phán thương mại, giải quyết những
vấn đề liên quan đến tài sản nên số lượng luật sư tư vấn cũng nhiều hơn luật sư
tranh tụng [1, tr.21].
Ở Mỹ, khơng có sự phân biệt giữa hai nghề luật sư như ở Anh, mà với chế độ
liên bang cũng như tính đa dạng về sắc tộc địi hỏi phải có một mơ hình tư pháp
riêng và mơ hình luật sư một nghề luật sư duy nhất [1, tr.25].
Ở Nhật Bản, cùng với quá trình xác lập chế độ tư pháp độc lập vào năm
1876 đã ban hành văn bản quy định về chế độ luật sư. Theo đó, người viết thế
(người chuyên viết hộ đơn kiện) và người phát ngơn thế (người biện hộ tại Tịa án)
được cơng nhận chính thức. Năm 1893, Luật luật sư được ban hành, người phát
ngôn thế được chuyển thành luật sư và có quyền tham gia tất cả các vụ án tại tất cả
các Tịa án trên phạm vi tồn quốc. Năm 1933, phụ nữ Nhật Bản đã được quyền
hành nghề luật sư [1, tr.36].
Ở Việt Nam, nghề luật sư xuất hiện vào nửa sau thế kỷ XIX , khi Việt Nam
trở thành thuộc địa của Pháp. Sau này, với các văn bản như các bản Hiến pháp từ
năm 1946 cho đến Hiến pháp 2013 cùng các văn bản như Sắc lệnh số 46/SL ngày
10/10/1945 về tổ chức đoàn thể luật sư, sắc lệnh số 217/SL, ngày 22/01/1946, sắc
lệnh số 96/SL ngày 18/06/1949, pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987, pháp lệnh luật
sư 2001, Luật luật sư 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012), Nghị quyết 49-NQ/TW của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Chiến lược phát triển
nghề luật sư đến năm 2020 đã tạo điều kiện cho nghề luật sư ở Việt Nam phát triển.
1.1.2. Khái niệm về nghề luật sư
Nghề luật sư là một nghề, trong đó các luật sư bằng kiến thức pháp luật của
mình, độc lập thực hiện các hoạt động trong phạm vi hành nghề theo quy định của
pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự cơng lý,
góp phần tích cực bảo vệ pháp chế và xây dựng Nhà nước.

5



Nghề luật sư đồng thời chịu sự điều chỉnh của pháp luật và quy tắc đạo đức
nghề. Đây được coi là ranh giới kép để ngăn ngừa luật sư thực hiện những hành vi
vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật. Luật sư là chủ thể độc lập trong hoạt động tư
pháp, là người thực thi và truyền bá pháp luật của Nhà nước. Nghề luật sư có bộ Quy
tắc đạo đức nghề nghiệp được lập thành văn bản. Đây là một nét đặc thù riêng của
nghề luật sư và nét đặc thù này tác động chủ yếu đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là
kỹ năng tranh tụng của luật sư.
1.1.3. Khái niệm về luật sư
Theo cách hiểu thường ngày, dân gian từ lâu cho rằng, luật sư – hay còn gọi là
thầy cãi, là người bảo vệ quyền lợi cho đương sự trước Tòa án xét xử. Lại có quan
điểm cho rằng, Luật sư là người hành nghề liên quan đến lĩnh vực pháp luật khi có đủ
điều kiện và tiêu chuẩn hành nghề theo quy định của pháp luật mỗi quốc gia [31].
Theo Đại từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Luật sư là người có chức trách
dùng pháp luật bào chữa cho bị can trước Tòa án” [39, tr. 50]
Ở Việt Nam, trước khi có Luật Luật sư, trong các bản Hiến pháp năm 1980,
1992, Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987 thì người thực hiện các hoạt động tư vấn
pháp luật và bào chữa trước Tòa án được gọi là luật sư. Thực tế hoạt động bào chữa
trên Tịa khơng chỉ có luật sư, điều này được lịch sử hình thành nghề luật sư trên thế
giới và Việt Nam ghi nhận. Cụ thể, Hiến pháp nước ta quy định: “Người bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư
hoặc người khác bào chữa” [24]; Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định người bị
buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa để bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại,
đương sự. Hiện nay, với quy định của Luật Luật sư, định nghĩa thống nhất về luật
sư ở Việt Nam là: người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của
Luật Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức
(gọi chung là khách hàng) [27].
* Phân biệt khái niệm “luật sư” và “luật gia”
Bên cạnh “luật sư” cịn có “luật gia” cũng hoạt động trong lĩnh vực pháp luật

khiến nhiều người nhầm lẫn về chức năng và phạm vi hoạt động của hai tên gọi này.

6


Luật gia là những công dân đã hoặc đang làm cơng tác pháp luật trong cơ
quan, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức văn
hoá, tổ chức giáo dục, đơn vị vũ trang nhân dân với thời gian từ ba năm trở lên.
Công dân sau khi được kết nạp vào Hội luật gia mới được gọi là luật gia [3].
Sự khác nhau giữa luật gia và luật sư được thể hiện, là:
Tính chất của Hội Luật gia Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội - nghề
nghiệp, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; cịn Liên đồn Luật sư là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp với tính chất tự
quản đặc trưng.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội luật gia: tham gia giám sát việc thực hiện pháp
luật, kiến nghị với cơ quan nhà nước những vấn đề về xây dựng và thi hành pháp
luật; phối hợp hoạt động với các cơ quan tổ chức có liên quan để thực hiện nhiệm
vụ của Hội. Bên cạnh đó, tính chất và phạm vi hoạt động của Hội luật gia tập trung
vào hoạt động nghiên cứu khoa học là chủ yếu. Vì khơng có chứng chỉ hành nghề
nên họ tham gia trợ giúp pháp lý ở các Trung tâm trợ tư vấn pháp luật không được
thực hiện dịch vụ pháp lý có thù lao với khách hàng với danh nghĩa cá nhân mà phải
thông qua Trung tâm tư vấn pháp luật của Hội Luật gia hoặc Trung tâm tư vấn pháp
luật mà họ cộng tác. Đây là điểm khác biệt đặc trưng giữa Luật sư và Luật gia.
1.2. Khái niệm, đặc điểm quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong
hoạt động của luật sư
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm Quy tắc đạo đức và ứng xử trong hoạt động
của luật sư
Đạo đức nghề nghiệp là những chuẩn mực mà người hành nghề đó tự nguyện

tuân theo. Người có đạo đức tốt là người lấy pháp luật làm chuẩn, có hiểu biết ở
mức độ cần thiết với nghề và bảo về quyền lợi, nghĩa vụ theo cách của mình.
Nếu pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện của luật
sư trong quá trình hành nghề thì những quy tắc đạo đức có tính hướng dẫn được

7


trình bày trong Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư sẽ đưa ra một vài
gợi ý cách ứng xử của luật sư trong những tình huống cụ thể và trên cơ sở đó, luật
sư là người quyết định cách hành xử của riêng mình. Việc vi phạm bất kỳ quy định
nào của Quy tắc đạo đức nghề có thể dẫn tới việc Đồn luật sư ra quyết định kỷ luật
với mức kỷ luật cao nhất là xóa bỏ tư cách hành nghề luật sư.
1.2.2. Quy tắc đạo đức trong hoạt động của luật sư
Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư là hệ thống quy tắc do Tổ chức xã hội –
nghề nghiệp của luật sư ban hành dưới hình thức nhất định, quy định chuẩn mực
hành vi ứng xử của luật sư trong hoạt động nghề nghiệp và trong xã hội, xác định
cách ứng xử với khách hàng, đồng nghiệp, cơ quan Nhà nước, người tiến hành tố
tụng, các cơ quan nhà nước khác, cơ quan thông tin đại chúng, các tổ chức và cá
nhân khác phù hợp với chuẩn mực hành nghề, đòi hỏi và giá trị chung của Nhà
nước và xã hội mà các luật sư có nghĩa vụ phải tuân theo; nếu vi phạm sẽ bị xử lý
kỷ luật theo điều lệ của Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư [1, tr. 86].
Nhận thức rõ được chức năng xã hội và trách nhiệm đạo đức của người luật
sư, nhiều quốc gia trên thế giới như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản, … đã xây dựng Quy
tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư sau khi đúc kết và khái quát thành quy
tắc thành văn với những phạm vi quy định cơ bản nhau như quy định về bảo vệ
công bằng và lẽ phải, vấn đề về thù lao, quảng cáo, tiếp xúc khách hàng, bảo vệ sự
thật,... Đây vừa là nguồn tham khảo cho việc xây dựng quy tắc nghề luật sư ở Việt
Nam giúp nâng cao vị thế người luật sư Việt Nam với đồng nghiệp quốc tế.
1.2.3. Ứng xử trong hoạt động nghề nghiệp luật sư

Ứng xử là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người trước sự
tác động của người khác với mình trong một tình huống nhất định được thể hiện qua
thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt trong mối
quan hệ giữa con người với nhau. Ứng xử chính là những đặc điểm tính cách của cá
nhân được thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân với
những người xung quanh.
Do vậy, ứng xử nghề nghiệp luật sư được hiểu là sự lựa chọn hành vi xử sự
của luật sư thể hiện thái độ, hành động thích hợp của luật sư phát sinh trong hoạt

8


động hành nghề giữa luật sư với chủ thể khác theo đúng quy định pháp luật và phù
hợp quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư [1, tr.87].
1.2.4. Mối quan hệ giữa quy tắc đạo đức và ứng xử trong hoạt động nghề
nghiệp luật sư
Quy tắc đạo đức nghề luật sư đưa ra nhiều phương án dự liệu khác nhau để
giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động nghề thì ứng xử nghề nghiệp là biểu
hiện cụ thể, sinh động của việc thực hiện các quy tắc đạo đức ấy. Ứng xử nghề
nghiệp với vai trò hỗ trợ, định hướng hành vi của luật sư nhằm tạo sự chuẩn mực
trong hành vi, thái độ của luật sư nên không thể trái với quy tắc đạo đức nghề
nghiệp luật sư và phải phù hợp quy định pháp luật. Ứng xử nghề nghiệp luật sư với
vị trí hỗ trợ cho Quy tắc đạo đức nghề nên không thể trái với những quy tắc đạo đức
đã nêu. Trong thực tiễn xây dựng bộ Quy tắc, đạo đức và quy tắc ứng xử được quy
định đan xen nhau, không tách rời. Quy tắc đạo đức và ứng xử luật sư đặt ra những
chuẩn mực đạo đức của giới luật sư, tạo cơ sở để luật sư tự giác rèn luyện, tu dưỡng
trong suốt quá trình hành nghề và sinh hoạt đời sống; là thước đo giá trị nhân phẩm
của mỗi luật sư.
1.2.5. Đặc điểm Quy tắc đạo đức và ứng xử trong hoạt động của luật sư
- Chủ thể ban hành: Liên đoàn Luật sư - tổ chức được hợp thành từ nhiều tổ

chức hành nghề luật sư nhỏ - ban hành những quy tắc chung, bắt buộc để các tổ
chức nghề nghiệp luật sư và luật sư thành viên thống nhất tuân thủ thực hiện. Ngoài
ra, các tổ chức hành nghề luật sư thành viên có thể căn cứ trên những quy tắc đạo
đức chung cùng thực tiễn hành nghề và quản lý thành viên của đơn vị mình để đề ra
một bộ quy tắc đạo đức riêng nhưng không trái và phải thống nhất với quy tắc
chung của Liên đồn (ví dụ như ở Mỹ có hệ thống quy tắc đạo đức nghề luật sư của
Liên bang và hệ thống quy tắc đạo đức nghề luật sư ở các tiểu bang).
- Đối tượng áp dụng: chỉ những ai là luật sư mới có nghĩa vụ thực hiện Quy
tắc đạo đức và ứng xử nghề luật sư. Khác với những ngành nghề khác như bác sĩ,
kỹ sư xây dựng hành nghề ngay sau khi được cấp phép hoạt động, một luật sư muốn
hoạt động nghề bắt buộc phải tham gia vào Đoàn luật sư – tổ chức xã hội nghề

9


nghiệp của Luật sư. Đây là quy định được nhiều nước trên thế giới áp dụng như
Nhật Bản [14, tr.38], Việt Nam [18, Điều 11],…. Quy định chặt chẽ như vậy nhằm
hạn chế những người không đủ tiêu chuẩn, điều kiện vẫn thực hiện dịch vụ pháp lý
với tư cách luật sư, đảm bảo tính chuyên nghiệp nghề luật sư, bảo vệ quyền lợi
khách hàng, lợi ích Nhà nước và tăng cường tính tự quản nghề luật sư. Do đó,
những ai chưa gia nhập Đồn luật sư thì khơng được hành nghề và không phải đối
tượng của Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.
- Cơ sở xây dựng: Việc công nhận chức năng nghề được quy định trước hết
trong Hiến pháp, tiếp theo đó là các văn bản liên quan như Luật luật sư, các nghị
định, thơng tư, nghị quyết mang tính chất điều chỉnh, hướng dẫn và đưa ra các biện
pháp xử lý vi phạm pháp luật của luật sư. Quy định pháp luật nhiều quốc gia đã trao
quyền tự quản cho Hiệp hội luật sư, Liên đoàn luật sư để quản lý và phát triển nghề
luật sư nên cần thiết phải có một bộ Quy tắc ứng xử chung nhất cho các tổ chức
nghề luật sư cùng thống nhất thực hiện. Bên cạnh mục đích cung cấp dịch vụ pháp
lý của luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, bảo vệ công lý,

sự tuân thủ pháp luật hay vấn đề thù lao mà luật sư có được sau mỗi vụ việc thì mục
đích khác mà các luật sư hướng tới chính là tính nhân văn, sự tơn vinh xã hội đối
với luật sư.
- Hiệu quả pháp lý: vi phạm những quy tắc về ứng xử nghề nghiệp, hành
động của luật sư sẽ dẫn đến việc xử lý kỷ luật theo Quy định của tổ chức xã hội –
nghề nghiệp của luật sư. Hình thức cao nhất là thu hồi chứng chỉ hành nghề và xóa
tên khỏi danh sách Đoàn luật sư.
- Hiệu quả xã hội: Xuất phát từ chức năng bảo vệ công lý, công bằng xã
hội của mình, luật sư trước hết là một chuyên gia pháp luật, là một cố vấn pháp
luật mà ở họ có những kỹ năng nghề nghiệp thực thụ. Để công chúng, các nhà
kinh doanh tuân thủ pháp luật và tin tưởng vào sự cơng bằng, bình đẳng của pháp
luật thì những người hành nghề luật sư phải tự mình tơn trọng pháp luật, chuẩn
mực hành nghề., do đó, nghề luật sư được quản lý và điều chỉnh chặt chẽ để duy
trì lòng tin của xã hội.

10


Trong hoạt động của mình, luật sư tiếp xúc với nhiều đối tượng, nhiều thành
phần xã hội nhưng tựu chung lại, những đối tượng, thành phần trên được chia làm
các nhóm quan hệ sau:
- Quan hệ với cơ quan nhà nước: cơ quan nhà nước bao gồm cơ quan tố tụng
và các cơ quan Nhà nước khác. Đây là mối quan hệ giữa một bên đại diện cho
quyền lực nhà nước với một bên đại diện cho công dân (đương sự). Trước đó, trong
một số bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư đều thể hiện nghĩa vụ của
Luật sư với việc bảo vệ công lý và lẽ phải, như bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư tư vấn ở các nước Anh, Đức, Việt Nam.
Đối với cơ quan tiến hành tố tụng: Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
đòi hỏi luật sư phải có thái độ tơn trọng, hợp tác với những người làm trong cơ quan
nhà nước, không được có những hành vi lơi kéo họ thực hiện công việc trái pháp

luật, trái đạo đức nghề. Mối quan hệ giữa luật sư với cơ quan tiến hành tố tụng thể
hiện đặc thù vừa hợp tác, vừa giám sát nhau. Một mặt, các cơ quan tiến hành tố tụng
và luật sư đều phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật, tôn trọng
nhau và tạo điều kiện thuận lợi cho nhau trong khuôn khổ pháp luật để cùng tìm ra
sự thật của vụ án, để có được phán quyết chính xác đối với vụ án. Mặt khác, họ
giám sát lẫn nhau trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, địi hỏi cả
những người tiến hành tụng và luật sư không chỉ biết áp dụng đúng các quy định
của pháp luật mà cịn phải có sự tôn trọng lẫn nhau trong quan hệ trên nguyên tắc
tuân thủ và thực hiện đúng pháp luật [41].
Đối với cơ quan Nhà nước khác: bên cạnh vai trò tranh tụng, luật sư còn đảm
nhiệm vai trò tư vấn, nhận ủy thác thực hiện công việc từ khách hàng. Luật sư thường
tiếp xúc với nhiều cơ quan nhà nước, thường là thực hiện thủ tục hành chính.
- Quan hệ với khách hàng: Quan hệ giữa luật sư với khách hàng là quan hệ
chủ yếu trong hoạt động nghề của luật sư nên được quy định nhiều quy tắc nhất.
Bản chất quan hệ của luật sư với khách hàng là quan hệ pháp luật dân sự, được thiết
lập trên cơ sở bình đẳng, thỏa thuận với sự tự nguyện của các bên. Do đó, quy tắc
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư như một phương tiện bảo vệ cho khách hàng
trước những hành động của luật sư.

11


- Quan hệ với đồng nghiệp: Trên cơ sở quy tắc chung này, các luật sư có
nghĩa vụ phải tơn trọng và hợp tác với đồng nghiệp, có ý thức giúp đỡ đồng nghiệp
trong hành nghề cũng như trong cuộc sống; góp ý kịp thời khi thấy đồng nghiệp làm
điều sai trái, ảnh hưởng đến uy tín nghề nghiệp luật sư.
- Quan hệ với cơ quan truyền thông: Đối với cơ quan thông tin đại chúng
và quảng cáo trong quá trình hành nghề, luật sư cần đảm bảo cung cấp thơng tin
chính xác, khách quan và khơng trái với ngun tắc bảo mật và bảo đảm quyền
lợi khách hàng.

- Giải quyết xung đột lợi ích: Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật
sư của một số nước trên thế giới đều có quy định về cách giải quyết xung đột lợi ích
giữa các khách hàng, giữa nghĩa vụ của luật sư với nghĩa vụ của khách hàng, xung
đột lợi ích với bên thứ ba,... Để việc giải quyết xung đột lợi ích đạt hiệu quả, chế tài
xử lý vi phạm kỷ luật thường được quy định ở một văn bản luật khác, tuy nhiên
cũng có một số bộ Quy tắc và ứng xử nghề nghiệp luật sư quy định về chế tài xử lý
vi phạm kỷ luật đối với luật sư như bộ quy tắc mẫu của Mỹ.
Đây là những nhóm quan hệ cơ bản thường thấy trong các bộ Quy tắc đạo
đức và ứng xử nghề luật sư của các nước trên thế giới, là những nhóm quan hệ ảnh
hưởng thường xuyên, trực tiếp tới hoạt động của luật sư. Ở Việt Nam, bộ Quy tắc
đạo đức và ứng xử trong hoạt động nghề nghiệp của Luật sư cũng đã tiếp thu, thể
hiện được những vấn đề trên. Điều này cho thấy các luật sư Việt Nam có thể dễ
dàng tiếp hoạt động ở nước ngồi khi tuân thủ nghiêm chỉnh những quy tắc này khi
hoạt động ở nước ngoài và ngược lại, những luật sư nước ngồi có thể thích ứng
nhanh với mơi trường và văn hóa nghề luật sư ở Việt Nam.
1.3. Cơ chế đảm bảo thực hiện quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
trong hoạt động của luật sư
Cơ chế được hiểu là cách thức tổ chức nội bộ và quy trình vận hành của một
hiện tượng, một hoạt động. Cơ chế bảo đảm thực hiện quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp trong hoạt động của luật sư là một tổng thể các yếu tố có quan hệ mật
thiết, tương tác lẫn nhau, hình thành một hệ thống và phương thức vận hành của hệ

12


thống đó để tiến hành hoạt động bảo vệ Quy tắc, nhằm bảo đảm sự tơn trọng, giữ
gìn, ngăn ngừa và chống lại hành vi vi phạm bộ Quy tắc này.
Hệ thống những quy định liên quan đến tiêu chuẩn luật sư và điều kiện hành
nghề luật sư được xây dựng chặt chẽ ở nhiều nước trên thế giới, có đạo luật riêng
điều chỉnh về tổ chức và hành nghề luật sư như Bộ luật về hành nghề của Đoàn Luật

sư Vương quốc anh và xứ Wales; Luật số 71 năm 1991 của Pháp; Luật về hành
nghề luật sư số 205 năm 1949 của Nhật Bản, sửa đổi ngày 24/06/2011. Ngồi đạo
luật về luật sư, một số nước cịn có văn bản quy phạm pháp luật riêng quy định về
tổ chức luật sư toàn quốc, bộ quy tắc chung giải thích các đạo luật trong đó quy
định các tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề của luật sư, ví dụ như bộ quy tắc liên bang
(CFR) của Mỹ, Luật về Liên đoàn luật sư Nhật Bản.
Đối với quản lý nghề luật sư, thẩm quyền công nhận và cấp phép hành nghề
luật sư được giao cho Tòa án, Bộ tư pháp, Liên đoàn luật sư hoặc Hội luật sư. Pháp
luật các nước đều quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn luật sư, tiêu chuẩn tối thiểu để
được công nhận là luật sư bao gồm: có bằng cử nhân luật và có phẩm chất đạo đức
tốt. Ngoài 2 tiêu chuẩn phổ biến này, ở quốc gia như Mỹ còn quy định thêm một số
tiêu chuẩn khác, như các Toà án tối cao bang dựa vào các quy định của Hiến pháp,
các đạo luật và tham khảo các quy định của Hiệp hội luật sư Mỹ (ABA) để quy định
điều kiện trở thành luật sư của bang mình. Cơ quan này sẽ chứng nhận lời tuyên thệ
của người xin công nhận luật sư và ghi tên người đó vào danh sách luật sư [1, tr.26].
Một ví dụ khác là Nhật Bản, người muốn hành nghề luật sư phải đăng ký tên vào
Danh sách luật sư lưu giữ tại Liên đoàn luật sư Nhật Bản, thơng qua Đồn luật sư
nơi người đó dự định gia nhập [1, tr.39].
Nghề luật sư được hình thành từ hoạt động tham gia tố tụng quyền và nghĩa
vụ của luật sư trong tố tụng các nước cũng khác nhau. Đối với các nước theo hệ
thống luật án lệ, quyền của luật sư trong tố tụng được mở rộng hơn so với các nước
theo hệ thống luật thành văn, luật sư được quyền tham gia vào bất kỳ giai đoạn nào
của quá trình tố tụng, kể từ khi bắt giữ người bị tình nghi phạm tội như ở Anh, Mỹ;
một số nước khác thì luật sư thường được tham gia từ giai đoạn điều tra như ở Việt

13


Nam. Những quy định này là căn cứ để xây dựng, thực hiện bộ Quy tắc đạo đức và
ứng xử hành nghề luật sư cho phù hợp với chức năng, phạm vi hoạt động và cư xử

của luật sư đối với cơ quan Nhà nước, trong đó có cơ quan tiến hành tố tụng để bảo
vệ công lý, quyền lợi hợp pháp của công dân.
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư là tổ chức tự quản trong hoạt động
nghề nghiệp, thông thường được thành lập ở hai cấp: ở địa phương có Đồn luật sư
hoặc Hội luật sư tỉnh, thành phố hoặc khu vực; ở trung ương có tổ chức đại diện cho
luật sư ở phạm vi quốc gia như Liên đoàn luật sư, Hiệp hội Luật sư.
Ở địa phương, Đoàn luật sư, Hội luật sư địa phương là tổ chức có tư cách
pháp nhân, thực hiện chức năng tự quản đối với luật sư và tổ chức hành nghề của
luật sư ở phạm vi địa phương trên cơ sở Điều lệ, cụ thể như: Đăng ký tên và rút tên
luật sư khỏi danh sách luật sư của Đoàn, Hội luật sư địa phương; giám sát việc thực
hiện quy tắc đạo đức nghề nghiệp; hòa giải các tranh chấp giữa các luật sư hoặc
giữa luật sư với khách hàng, khi có yêu cầu của các bên; xử lý kỷ luật luật sư theo
thẩm quyền; và một số chức năng, nhiệm vụ cụ thể khác.
Tại Nhật Bản, Pháp và một số quốc gia khác, Đoàn luật sư, Hội luật sư địa
phương được thành lập theo phạm vi thẩm quyền tịa án cấp tỉnh. Ở Việt Nam,
Đồn luật sư do Bộ Tư pháp cho phép thành lập và chịu sự giám sát của Liên đoàn
luật sư Việt Nam và Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Quy chế thành lập của Đoàn luật sư và
việc sửa đổi quy chế sau này do Liên đồn luật sư Việt Nam thơng qua nhưng phải
được sự đồng ý của Bộ Tư pháp. Số lượng thành viên của mỗi Đồn luật sư khá
đơng, tuỳ thuộc từng địa phương và không giới hạn số lượng tối đa.
* Mối quan hệ giữa tổ chức luật sư toàn quốc với cơ quan quản lý về luật sư,
các cơ quan và tổ chức hữu quan khác
Theo thông lệ của nhiều nước, tổ chức luật sư toàn quốc là chủ thể độc lập,
nhưng chịu sự quản lý của Nhà nước. Tổ chức luật sư toàn quốc sẽ thực hiện một số
nhiệm vụ quản lý được Nhà nước giao trên cơ sở quy định của pháp luật. Tuy nhiên,
ở các nước, Bộ Tư pháp vẫn giữ vai trò ảnh hưởng trong việc giám sát hoạt động
của tổ chức luật sư ở phạm vi quốc gia.

14



Đối với quản lý nhà nước, Tòa án và Bộ Tư pháp là hai cơ quan được Nhà
nước trao quyền quản lý luật sư và nghề luật sư bằng hệ thống các văn bản pháp luật
và quản lý trực tiếp với sự phân cấp, phân định thẩm quyền rõ ràng. Bộ Tư pháp liên
bang, Tòa án tối cao liên bang có chức năng nghiên cứu dự thảo, sửa đổi bổ sung quy
định pháp luật, giám sát hoạt động của Đoàn luật sư liên bang, Liên đoàn luật sư
trong việc thực hiện những quy định đó; tổ chức kỳ thi quốc gia về công nhận luật sư
và thực hiện công nhận luật sư. Chủ nhiệm Đoàn luật sư liên bang, Liên đồn luật sư
có nghĩa vụ báo cáo hàng năm về hoạt động của Đồn, Liên đồn mình.
Cơ quan tư pháp ở địa phương là các Tòa án, Sở Tư pháp bang căn cứ vào
quy định của pháp luật, quy định của bang và nhiệm vụ được Tòa án liên bang, Bộ
tư pháp liên bang trao cho để triển khai thực hiện đối với Đoàn luật sư địa phương,
thành viên đoàn theo quy trình đào tạo, chiến lược phát triển nghề; tổ chức, kiểm
tra, giám sát tổ chức nghề nghiệp luật sư thực hiện nhiệm vụ được giao thông qua
đánh giá kết quả, báo cáo nghiệm thu công việc; quản lý luật sư bằng các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, kiểm tra và xử lý kịp thời những luật sư có
hành vi vi phạm kỷ luật cũng như vi phạm pháp luật với biện pháp cao nhất là xóa
tên khỏi danh bạ luật sư.
Tổ chức cao nhất trong tổ chức xã hội – nghề nghiệp luật sư, tùy theo cách
gọi của mỗi quốc gia với những tên gọi phổ biến như Liên đoàn luật sư, Đoàn luật
sư liên bang, Hiệp hội luật sư,… Đây là tổ chức được hợp thành từ các Đoàn luật sư
địa phương, nhiệm vụ chủ yếu là triển khai, thực hiện nhiệm vụ do Tòa án, Bộ tư
pháp liên bang giao, triển khai kế hoạch thực hiện nhiệm vụ thống nhất tới các
Đoàn luật sư địa phương; đại diện, bảo vệ quyền lợi, sự bình đẳng cho tất cả luật sư
nói chung trước cơ quan Nhà nước; bảo đảm sự độc lập, tự do hành nghề trong hoạt
động của luật sư. Do đó, tổ chức này đại diện chung cho quyền lợi của toàn thể luật
sư trong cả nước chứ không đại diện riêng cho bất kỳ cá nhân nào. Việc kiểm tra
thực hiện nhiệm vụ của Liên đoàn luật sư, Đoàn luật sư liên bang trong mơ hình có
Bộ tư pháp do Bộ trưởng Bộ tư giám sát.
Đoàn luật sư địa phương là tổ chức nghề nghiệp của luật sư. Đồn có chức


15


năng hướng dẫn, theo dõi và giám sát hoạt động của luật sư thành viên nhằm duy trì
đạo đức nghề nghiệp, phát triển Đoàn luật sư về số lượng và chất lượng. Đoàn luật
sư ở địa phương được thành lập và chịu sự quản lý của Tòa án địa phương (Mỹ), cơ
quan tư pháp địa phương (Sở tư pháp - Việt Nam). Là đơn vị quản lý trực tiếp luật
sư, thường xuyên tiếp xúc, theo dõi luật sư nên việc xử lý kỷ luật luật sư do vi phạm
quy tắc đạo đức nghề ở các nước đều được thực hiện ở Đồn luật sư địa phương;
bên cạnh đó, luật sư có thể khiếu kiện các quyết định của đơn vị lên Liên đồn, Tịa
án nếu có căn cứ cho rằng quyết định đó khơng đúng quy định pháp luật và xâm
phạm quyền lợi của mình. Đối với tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp luật sư,
bản thân các Đoàn luật sư là một tổ chức tự quản độc lập, được phân cấp theo hai
hai cách: tự quản nội bộ Đồn và tự quản có sự phối hợp giữa các Đoàn địa phương.
Nhà nước và Liên đoàn luật sư giao cho các Đoàn luật sư thực hiện triển khai
việc đào tạo nghề luật sư hàng năm, bồi dưỡng chuyên môn thường xuyên nhằm
củng cố chức năng của luật sư là bảo vệ cơng bằng, lợi ích Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của khách hàng đi kèm với đó là giám sát việc thực hiện nghĩa vụ của
luật sư đối với Nhà nước và nhân dân bằng cách đối chiếu với những quy tắc đạo
đức nghề luật sư.
Cơ chế khiếu nại được thực hiện hiệu quả. Để điều chỉnh hành vi con người
và hướng tới ổn định trật tự xã hội, pháp luật ln có tính phịng ngừa với những
quy định về điều được làm, điều không được làm cùng chế tài xử lý vi phạm pháp
luật đi kèm. Các văn bản pháp luật ra đời là cơ sở pháp lý để người dân thực hiện
quyền khiếu nại, các cơ quan nhà nước có căn cứ giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên,
hoạt động này còn nhiều vướng mắc, hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu giải
quyết khiếu nại và yêu cầu quản lý của Nhà nước như về cơ chế, chính sách chưa
phù hợp; quy định của pháp luật cịn chồng chéo, mâu thuẫn, cơng tác quản lý nhà
nước còn nhiều yếu kém, sai phạm; việc tuyên truyền pháp luật còn yếu và ý thức

pháp luật của người dân còn hạn chế. Việc khiếu nại diễn biến phức tạp, trải qua
nhiều cấp, kéo dài, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự xã hội. Thực
tế này có nhiều nguyên nhân từ quy định phân cấp, phân quyền quản lý trong cơ

16


quan Nhà nước và tổ chức nghề luật sư nên việc khiếu nại bắt buộc phải trải qua
đơn vị quản lý trực tiếp rồi mới đến đơn vị quản lý hành chính.
Đối với nghề luật sư có hai hình thức chính để xử lý vi phạm: xử lý vi phạm
kỷ luật Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư và xử lý vi phạm hành chính
trong hoạt động nghề luật sư. Các biện pháp này phải được thiết kế tương ứng với
các mức vi phạm, vừa thể hiện sự cảnh báo đối với những vi phạm lần đầu chưa gây
hậu quả cho Nhà nước và pháp luật vừa thể hiện sự nghiêm khắc trong việc răn đe,
trừng phạt những hành vi gây hậu quả nghiêm trọng, làm xấu hình ảnh Nhà nước,
uy tín và hình ảnh của nghề nghiệp luật sư trong xã hội.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện, xử lý vi phạm trong hoạt động nghề luật
sư có phạm vi là tồn bộ nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ phải thực hiện đối với bên có
quyền, kể cả trách nhiệm dân sự, bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong mối quan hệ hợp
tác thường xuyên giữa giữa luật sư với khách hàng (về vấn đền thực hiện cơng việc,
thù lao,..); bên cạnh đó, các biện pháp đảm bảo này cũng giúp bảo vệ luật sư trước
cơ quan Nhà nước, nhất là quá trình tham gia đại diện cho khách hàng trong tố tụng
và ngoài tố tụng. Nếu bên nào phá vỡ các biện pháp bảo đảm này đều bị xem xét xử
lý vi phạm. Cho nên, cần có những biện pháp đảm bảo có tính ràng buộc trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ của các bên ít chịu sự ảnh hưởng của quy định quy tắc
nghề nghiệp như khách hàng, cơ quan Nhà nước để tạo điều kiện cho luật sư hồn
thành cơng việc, trách nhiệm nghề nghiệp của họ.
Những quy định liên quan đến việc xử lý vi phạm của luật sư do cơ quan
Nhà nước ban hành có được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực Nhà nước, là quyết
định cuối cùng buộc luật sư phải tuân thủ thực hiện; tổ chức xã hội – nghề nghiệp

quản lý luật sư về mặt nội dung, hiện thực hóa các quy định pháp luật bằng hành
động cụ thể của mỗi luật sư, đảm bảo tính tự quản đặc trưng nghề luật sư so với các
nghề khác. Việc giao cho Đoàn luật sư toàn quyền xử lý vi phạm kỷ luật thể hiện
được tính tự quản của tổ chức nghề luật sư, đề cao tính tự giác thực hiện Quy tắc
đạo đức và ứng xử nghề, số lượng luật sư vi phạm kỷ luật ít do quy định pháp luật
về quá trình hành nghề rất khắt khe, cạnh tranh trong nghề cao vì vậy, nếu bị xử lý

17


vi phạm kỷ luật, luật sư bị ảnh hưởng lớn tới hình ảnh, uy tín cá nhân. Rất hiếm
những quyết định của Đoàn luật sư bị cơ quan Nhà nước do sự phân cấp, phân định
thẩm quyền trong tổ chức và quản lý nghề luật sư ở các nước được xây dựng chặt
chẽ, có tính chun mơn hóa cao.
Với cơ chế quản lý “kép” nêu trên, Liên đoàn, Đoàn luật sư giúp cơ quan
Nhà nước giúp cho việc cập nhật, nắm bắt tình hình hoạt động của luật sư đầy đủ,
kịp thời, là căn cứ cho việc điều chỉnh, bổ sung quy định pháp luật về hành nghề
luật sư. Nhà nước dựa trên hiệu quả của việc quản lý để suy xét định hướng và phát
triển nghề luật sư trong tương lai.
1.4. Ý nghĩa, hiệu quả của Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong
hoạt động của luật sư
1.4.1. Ý nghĩa Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong hoạt động
của luật sư
Chuẩn mực đạo đức là thước đo giúp luật sư giữ gìn phẩm giá và uy tín của
luật sư trong hoạt động hành nghề, trong lối sống và giao tiếp xã hội; Cơ sở để các
luật sư hoạt động, rèn giũa, tu luyện đạo đức của mình, góp phần thực hiện chức
năng xã hội quan trọng của luật sư và nâng cao uy tín của luật sư trong xã hội.
Những chuẩn mực này có tính bắt buộc cao. Tính bắt buộc thể hiện khi Quy tắc đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp được xây dựng thành môn học đầu tiên và bắt buộc
trong chương trình đào tạo nghề luật sư và kỳ thi kết thúc tập sự nghề luật sư ở

nhiều nước trên thế giới. Bất kỳ ai muốn trở thành luật sư đều phải ghi nhớ suốt đời
những quy tắc này. Việc vi phạm bất kỳ quy định nào của Quy tắc đạo đức nghề có
thể dẫn tới việc Đồn luật sư ra quyết định kỷ luật với mức kỷ luật cao nhất là xóa
tên khỏi danh sách đồn luật sư của Đồn luật sư.
Nếu pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện của luật
sư trong quá trình hành nghề thì những quy tắc đạo đức lại mang tính hướng dẫn
được trình bày trong Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư sẽ đưa ra một
vài gợi ý cách ứng xử của luật sư trong những tình huống cụ thể và trên cơ sở đó,
luật sư là người quyết định cách hành xử của riêng mình.

18


×