Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Quyền trợ giúp pháp lý của người chưa thành niên vi phạm pháp luật trong pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN THỊ HỒNG

Qun trỵ giúp pháp lý
của ng-ời ch-a thành niên vi phạm pháp luật
trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam

LUN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN THỊ HỒNG

Qun trỵ giúp pháp lý
của ng-ời ch-a thành niên vi phạm pháp luật
trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
Chuyờn ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TƢỜNG DUY KIÊN

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Phan Thị Hồng


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT ..... 8
1.1.
Khái niệm, đặc điểm quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa
thành niên vi phạm pháp luật .............................................................. 8
1.2.
Nội dung quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi

phạm pháp luật trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam ............ 24
1.3.
Vai trò của pháp luật bảo đảm quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời
chƣa thành niên vi phạm pháp luật .................................................... 40
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 44
Chƣơng 2: NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT VỀ
QUYỀN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH
NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG PHÁP LUẬT QUỐC
TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM .................................................. 45
2.1.
Những điểm tƣơng đồng về quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời
chƣa thành niên vi phạm pháp luật trong pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam............................................................................ 45
2.2.
Những điểm khác biệt về quyền đƣợc trợ giúp pháp lý của ngƣời
chƣa thành niên vi phạm pháp luật trong pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam............................................................................ 63
2.3.
Nguyên nhân của những điểm tƣơng đồng và khác biệt về quyền
trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật
trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam................................. 69
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 73


Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TRỢ
GIÚP PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN VI PHẠM
PHÁP LUẬT PHÙ HỢP VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT QUỐC TẾ VÀ THỰC TIỄN VIỆT NAM...................................... 74
3.1.
Những hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam về quyền trợ giúp

pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật ........................ 74
3.2.
Quan điểm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền trợ giúp
pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật...................... 79
3.3.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam và bảo đảm thực hiện
hiệu quả quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi
phạm pháp luật .................................................................................. 83
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3.............................................................................. 100
KẾT LUẬN .................................................................................................. 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 102


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

LHQ:

Liên Hợp quốc

NCTN:

Ngƣời chƣa thành niên


TGPL:

Trợ giúp pháp lý

TGVPL:

Trợ giúp viên pháp lý


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây, Việt Nam tham gia nhiều văn kiện quốc tế về
quyền con ngƣời, bao gồm Bộ luật nhân quyền và các cơng ƣớc về quyền của
các nhóm yếu thế. Trong các văn kiện quan trọng, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã khẳng định đƣờng lối nhất quán quan điểm luôn tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
và thúc đẩy quyền con ngƣời, thể hiện cam kết mạnh mẽ cùng mong muốn
góp phần xây dựng, thúc đẩy phát triển nền văn hóa nhân quyền trên tồn thế
giới, song, cũng nhấn mạnh những khó khăn, thách thức trong mặt trận này,
đặc biệt là việc đảm bảo quyền tiếp cận pháp lý và sự bình đẳng pháp luật cho
các nhóm yếu thế, thiệt thịi. Do đó, phát triển TGPL đƣợc Đảng và Nhà nƣớc
ta xác định không chỉ là một trong những giải pháp của chƣơng trình “xóa
đói, giảm nghèo”, thu hẹp các khoảng cách trong xã hội mà còn là biện pháp
hỗ trợ cho các thiết chế thực thi pháp luật, bảo đảm bảo vệ quyền con ngƣời
nói chung và quyền con ngƣời của các nhóm ngƣời yếu thế nói riêng, đảm
bảo cơng bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Ngay từ khi đất nƣớc ta vừa mới đƣợc thành lập, Đảng và Nhà nƣớc đã
ln xem việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một trọng trách, liên
quan đến tiền đồ của dân tộc. Việc chăm sóc, bảo vệ, giáo dục và thực hiện
trách nhiệm phòng ngừa, ngăn chặn trẻ em - NCTN vi phạm pháp luật là một
trong những việc làm quan trọng từ trƣớc đến nay của gia đình, nhà trƣờng và

xã hội. Do vậy, hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế về tƣ pháp NCTN,
TGPL cho NCTN vi phạm pháp luật đã đƣợc hình thành tƣơng đối đầy đủ và
tồn diện các quy định về vấn đề này. Các quy định trong văn bản pháp luật
về TGPL đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của NCTN, đó là quyền tiếp cận cơng lý và quyền công bằng trƣớc

1


pháp luật. Hiện nay, tình hình NCTN vi phạm pháp luật gần đây là rất đáng lo
ngại. Thực trạng đó dẫn đến vai trị của tƣ pháp NCTN nói chung và pháp luật
về TGPL cho NCTN vi phạm pháp luật nói riêng ngày càng trở nên quan
trọng về nhiều phƣơng diện. Nếu khơng có sự trợ giúp của các chun gia
pháp luật có tâm huyết và đƣợc đào tạo bài bản, rất ít trẻ em có khả năng tự
bảo vệ quyền của mình theo quy định của pháp luật.
Về mặt lý luận, Luật TGPL năm 2006 đã đƣa công tác TGPL trở thành
cầu nối giữa chính quyền và nhân dân, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của ngƣời đƣợc TGPL, thực hiện tốt chính sách nhân đạo, đền ơn đáp
nghĩa của Đảng và Nhà nƣớc, đồng thời nâng cao ý thức pháp luật cho nhân
dân, phát triển kinh tế - xã hội. Luật TGPL đã có tác động tích cực trong việc
thực thi pháp luật, đƣa pháp luật vào cuộc sống, nhất là đối với nhóm đối
tƣợng dễ bị tổn thƣơng: trẻ em, góp phần đáng kể vào sự ổn định, phát triển
nhiều mặt của đời sống xã hội. Sau 9 năm thực hiện Luật TGPL và các văn
bản hƣớng dẫn thi hành về vấn đề TGPL cho NCTN vi phạm pháp luật, các
văn bản pháp luật này đã bộc lộ một số bất cập, gây khó khăn cho hoạt động
TGPL đối với NCTN. Luật TGPL năm 2017 đƣợc thơng qua ngày 20 tháng 6
năm 2017, có hiệu lực thi hành và thay thế Luật TGPL năm 2006 kể từ ngày
01 tháng 01 năm 2018. Về cơ bản, đối tƣợng NCTN đƣợc TGPL đã đƣợc sửa
đổi theo hƣớng tƣơng thích với pháp luật quốc tế mà Việt Nam là thành viên,
tƣơng thích với BLTTHS 2015 và các quy định khác về TGPL cho NCTN,

thể hiện bản chất nhân đạo và chính sách của Nhà nƣớc ta trong việc bảo đảm
quyền con ngƣời, quyền trẻ em. Tuy nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu về TGPL
cho NCTN vi phạm pháp luật sẽ có nhiều đóng góp cho việc hồn thiện pháp
luật về lĩnh vực này theo hƣớng đảm bảo tƣơng thích hơn nữa với pháp luật
quốc tế, để pháp luật của Nhà nƣớc ta là công cụ thực sự hiệu quả trong việc
đảm bảo quyền đƣợc TGPL cho NCTN vi phạm pháp luật, ngăn ngừa sự vi

2


phạm quyền từ phía các cơ quan cơng quyền và giáo dục các em trở thành
những cơng dân tốt, có ích cho xã hội.
Xuất phát từ những yêu cầu nhƣ phân tích ở trên, việc nghiên cứu đề
tài: “Quyền trợ giúp pháp lý của người chưa thành niên vi phạm pháp luật
trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” là yêu cầu khách quan, cần
thiết cả về phƣơng diện lý luận và thực tiễn, nhằm đƣa ra các giải pháp hồn
thiện pháp luật về TGPL.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết viết riêng về tƣ pháp NCTN
và vai trị TGPL nhƣng ở các góc độ, khía cạnh khác nhau. Một số cơng trình
tiêu biểu có thể kể đến nhƣ:
- Nhóm tác giả TS. Cao Dức Thái, GS.TS Hồng Văn Hảo, TS. Hoàng
Thị Ngân, TS Tƣờng Duy Kiên, Th.S Hoàng Hùng Hải, Th.S Nguyễn Lộc,
Th.S Nguyễn Thị Báo – Viện Nghiên cứu Quyền con ngƣời, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh đã nghiên cứu về “Tư pháp người chưa thành niên”,
Cục Xuất bản năm 2006, để đáp ứng công tác nghiên cứu, giảng dạy và xử lý
trẻ làm trái pháp luật.
- Tiến sĩ Đỗ Thị Ngọc Tuyết – Học viện Tƣ pháp; Đỗ Ngọc Hà, Đỗ
Thu Hằng – Học viện Nghiên cứu Thanh niên; Nguyễn Hƣơng Giang, Lê
Ngọc Bảo – Tổ chức Cứu trợ Trẻ em Anh nghiên cứu, biên soạn: “Tài liệu tập

huấn tư pháp người chưa thành niên”, Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 2008.
Cuốn sách trình bày kết quả khảo sát các nhu cầu và những vấn đề có liên
quan của tình trạng NCTN vi phạm pháp luật, đƣa ra mục tiêu hỗ trợ những
ngƣời làm công tác tập huấn các kiến thức và kỹ năng cần thiết về tƣ pháp
NCTN, trang bị đầy đủ hơn, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ cơ sở về
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế và những nội dung quan trọng
của pháp luật Việt Nam về tƣ pháp NCTN. Từ đó nâng cao kỹ năng thực hành

3


những công việc cụ thể trong lĩnh vực công tác của cán bộ cơ sở với mục đích
bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN vi phạm pháp luật và
phạm tội, tạo cơ hội thuận lợi cho việc tái hòa nhập cộng đồng và giúp họ trở
thành cơng dân có ích cho xã hội.
- TS. Hồng Phong Hà, Đinh Lục, Nguyễn Minh “hướng dẫn thực
hành các tiêu chuẩn quốc tế về tư pháp người chưa thành niên”, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội 2007. Cuốn sách viết về hệ thống các chính sách nhất
quán coi trẻ em là lớp công dân đặc biệt mà Đảng, Nhà nƣớc và tồn dân phải
chăm sóc, dành cho những ƣu tiên… và từng bƣớc đƣợc luật hóa; đồng thời
chính sách đó đƣợc cam kết thực hiện của Chính phủ Việt Nam thực hiện
Công ƣớc của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các văn kiện quốc tế khác về
quyền trẻ em bao gồm cả hệ thống TGPL về thực hành các quy định và tiêu
chuẩn quốc tế liên quan đến tƣ pháp NCTN.
- Tổ chức Cứu trợ Trẻ em của Thụy Điển; UNICEF khu vực Đông
Nam Á, 2005, nghiên cứu về “Quyền trẻ em - Biến nguyên tắc thành hành
động”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. Cuốn sách viết về tăng cƣờng và hỗ
trợ cơng việc của Chính phủ về quyền trẻ em, và đƣa ra kinh nghiệm của các
tổ chức phi Chính phủ về tuyên truyền và phổ biến Cơng ƣớc quốc tế về
Quyền trẻ em.

- “Hồn thiện pháp luật về xử lý chuyển hướng đối với người chưa
thành niên vi phạm pháp luật”, bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp
số 136 - tháng 12/2008 của Ths. Đỗ Thúy Vân nghiên cứu chỉ ra rằng, những
biện pháp xử lý tƣ pháp chính thống thƣờng làm cho NCTN lún sâu hơn vào
con đƣờng lầm lỗi vì bị phân biệt đối xử. Các kết quả nghiên cứu đã làm nảy
sinh ý tƣởng là cần phải tránh áp dụng các biện pháp xử lý chính thức đối với
NCTN vi phạm pháp luật bằng cách khuyến khích cán bộ tƣ pháp chuyển
NCTN từ hệ thống tƣ pháp chính thức sang các chƣơng trình giải quyết tranh

4


chấp dựa vào cộng đồng, các dịch vụ hỗ trợ hoặc các chƣơng trình giáo dục
tại cộng đồng.
- Luật sƣ Trần Cơng Ly Tao với “Một số mơ hình về hoạt động trợ giúp
pháp lý”, qua các nghiên cứu và thực tiễn của ngƣời làm cơng tác TGPL đã
góp phần trong cơng tác giảm thiểu sự “thiếu, đói pháp luật” trong dân. Phản
ánh về việc TGPL cho ngƣời nghèo, diện chính sách, trẻ em – NCTN,… địi
hỏi ngƣời trợ giúp phải là ngƣời vừa có tâm, vừa có tầm.
Có thể thấy các cơng trình nghiên cứu trên đã đƣa ra đƣợc một cách
nhìn tổng qt về vai trị TGPL với mơ hình, chính sách trên thế giới và ở
Việt Nam, các giải pháp hồn thiện pháp luật TGPL… trong đó có vai trị
TGPL cho NCTN phạm tội (tại mỗi thời điểm phù hợp với nghiên cứu).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu, so sánh pháp luật về
quyền TGPL của NCTN vi phạm pháp luật giữa pháp luật quốc tế và pháp
luật Việt Nam. Từ đó, rút ra những điểm tƣơng đồng/tƣơng thích và chƣa
tƣơng thích nhằm đƣa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam theo hƣớng
phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế, đồng bộ với các quy định

khác của pháp luật Việt Nam và phù hợp với thực tiễn của đất nƣớc.
3.2. Nhiệm vụ
Thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý về pháp luật TGPL cho
NCTN vi phạm pháp luật theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá những điểm tƣơng thích và chƣa tƣơng thích giữa hai
hệ thống pháp luật về TGPL cho NCTN vi phạm pháp luật; luận giải vấn đề này.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
quyền TGPL của NCTN vi phạm pháp luật.

5


4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn góp phần chứng minh sự phát triển đúng đắn của hoạt động
TGPL. Đánh giá sâu sát, toàn diện quy định pháp luật về TGPL cho NCTN vi
phạm pháp luật, phân tích các yêu cầu đặt ra về mặt pháp lý để phục vụ cho
việc phát triển bền vững hoạt động TGPL cho NCTN; đề xuất giải pháp có
“tính mới” để hoàn thiện pháp luật TGPL tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao
hiệu quả TGPL cho NCTN trong thời gian tới.
Đồng thời, luận văn có thể phục vụ cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về
pháp luật TGPL ở Việt Nam.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là quyền TGPL của NCTN vi phạm
pháp luật theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó có các
định hƣớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam để phù hợp với pháp
luật quốc tế và đồng bộ với các quy định khác của pháp luật Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các vấn đề về pháp luật quốc tế và
Việt Nam về TGPL cho NCTN vi phạm pháp luật, gồm: khái niệm NCTN,
NCTN vi phạm pháp luật TGPL; khái niệm TGPL; thực trạng pháp luật quốc

tế và Việt Nam về quyền TGPL của NCTN vi phạm pháp luật; các giải pháp
hoàn thiện pháp luật TGPL cho đối tƣợng này.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng trong luận văn là phƣơng pháp
luận của Triết học Mác - Lê nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp
luật, những quan điểm của Đảng về TGPL. Các văn kiện của Đảng, Hiến pháp
năm 1992, Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2001, năm 2013 và các văn bản
pháp luật về TGPL, các báo cáo kết quả hoạt động, các cơng trình nghiên cứu
khoa học trong và ngoài nƣớc cũng đƣợc tham khảo và kế thừa có chọn lọc.
- Trong q trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phƣơng pháp

6


nghiên cứu hệ thống, phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh. Đồng thời, tác
giả còn sử dụng phƣơng pháp khai thác và sử dụng các tƣ liệu thực tiễn để
hồn chỉnh luận văn.
7. Kết cấu luận văn
Khơng bao gồm Mục lục, Phần mở đầu, Kết luận và nguồn tài liệu
tham khảo, luận văn đƣợc xây dựng với bố cục gồm 03 Chƣơng:
Chương 1. Cơ sở lý luận về quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa
thành niên vi phạm pháp luật.
Chương 2. Những điểm tƣơng đồng và khác biệt về quyền trợ giúp
pháp lý trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam.
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền trợ giúp pháp lý của
ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam phù hợp với các quy
định của pháp luật quốc tế và thực tiễn Việt Nam.

7



Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa
thành niên vi phạm pháp luật
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên, người chưa thành niên vi
phạm pháp luật
1.1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên
Thuật ngữ NCTN thƣờng đƣợc dùng phổ biến ở tất cả các nƣớc trên thế
giới cũng nhƣ ở các ngành khoa học khác nhau, nhƣng khi nói đến khái niệm
về NCTN thì đến nay vẫn cịn nhiều ý kiến khác nhau. Ngay cả trong văn bản
pháp luật thực định cũng có những tên gọi khác nhau nhƣ: “Ngƣời chƣa thành
niên, trẻ vị thành niên hoặc trẻ em”. Trên phƣơng diện luật pháp quốc tế khái
niệm NCTN đƣợc đề cập tại các văn kiện pháp lý quan trọng và nó trở thành
giá trị chuẩn mực chung cho tất cả các dân tộc, các quốc gia muốn hƣớng tới
nhằm thúc đẩy sự tôn trọng để bảo vệ quyền con ngƣời của NCTN. Cụ thể các
văn kiện quốc tế nhƣ:
Công ƣớc của LHQ về quyền trẻ em tại Điều 1 quy định “Trong phạm vi
Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [33, tr.177]. Nhƣ
vậy, theo Công ƣớc về quyền trẻ em thì trẻ em đƣợc xác định là ngƣời dƣới
18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia cơng nhận tuổi thành niên sớm hơn. Cịn
theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lứa tuổi 10 - 19 tuổi là độ tuổi vị thành
niên; thanh niên trẻ là lứa tuổi 19-24 tuổi. Chƣơng trình Sức khỏe sinh
sản/Sức khỏe tình dục vị thành niên - thanh niên của khối Liên minh Châu Âu
(EU) và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) lấy độ tuổi 15 - 24 tuổi.

8



Bên cạnh đó Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về việc áp dụng pháp
luật đối với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) cũng nêu rõ “Người chưa thành niên là
trẻ em hay người ít tuổi tùy theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vi phạm
pháp theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn” [29, số 2.2, mục a].
Văn kiện Những quy tắc của LHQ về bảo vệ NCTN bị tƣớc quyền tự do ghi:
“Những người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”.
Tuy nhiên, trên thực tế các văn kiện pháp lý quốc tế đều có sự đồng
nhất giữa khái niệm NCTN và trẻ em, đồng thời độ tuổi đƣợc xác định chung
là dƣới 18 tuổi. Bởi lẽ đây là giai đoạn trẻ em phát triển lên ngƣời lớn, và đặc
điểm chính của NCTN trong giai đoạn này là chƣa phát triển toàn diện về thể
chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách; chƣa đủ khả năng để sử dụng quyền
và gánh vác nghĩa vụ pháp lý nhƣ ngƣời đã thành niên. Do vậy, pháp luật ở
mỗi quốc gia quy định riêng độ tuổi cụ thể của NCTN phù hợp với điều kiện
kinh tế, xã hội để có hệ thống pháp luật phù hợp.
Ở Việt Nam, định nghĩa, khái niệm NCTN theo Từ điển Tiếng Việt Viện ngôn ngữ học viết “Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy
đủ, tồn diện về thể lực, trí lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ
quyền và nghĩa vụ công dân” [22, tr.55]. Khái niệm đã chỉ rõ, NCTN là ngƣời
chƣa hồn thiện cả về thể lực, trí lực lẫn tinh thần. Do sự phát triển chƣa hoàn
thiện mà NCTN chƣa tự mình thực hiện quyền cũng nhƣ chƣa thể tham gia
một cách đầy đủ, chủ động vào các quan hệ pháp luật làm phát sinh các
quyền, nghĩa vụ cụ thể từ các quan hệ pháp luật đó.
Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét quan niệm NCTN theo Từ điển Tiếng việt
thì rất khó xác định phạm vi đối tƣợng cụ thể trong cơ cấu dân số là NCTN.
Theo quan niệm này, yếu tố để xác định đối tƣợng là NCTN hoàn toàn phụ
thuộc vào dấu hiệu sự phát triển về tâm sinh lý, nhận thức. Dấu hiệu này đƣợc
xác định bởi yếu tố định tính, cịn yếu tố định lƣợng (có thể coi độ tuổi là yếu

9



tố định lƣợng) chƣa đƣợc xác định. Pháp luật Việt Nam hiện hành, độ tuổi của
NCTN đã đƣợc thống nhất trong BLHS, BLTTHS, Bộ luật Dân sự, Bộ luật
lao động, Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp
luật khác. Các văn bản này đều quy định tuổi của NCTN là dƣới 18 tuổi.
+ Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Người chưa thành niên
là người chưa đủ mười tám tuổi” [24];
+ Điều 161 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định “Người lao động
chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi” [23];
+ BLHS năm 2015 có những quy định về các nguyên tắc xử lý khác
nhau đối với các độ tuổi khác nhau của ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội (Chƣơng
XII), theo đó:
Việc xử lý ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích
tốt nhất của ngƣời dƣới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục,
giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành cơng
dân có ích cho xã hội.
Việc xử lý ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi,
khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm [24].
+ BLTTHS năm 2015 cũng có quy định liên quan đến việc tham gia tố
tụng hình sự của ngƣời dƣới 18 tuổi và dành hẳn một chƣơng quy định về thủ
tục tố tụng đặc biệt đối với ngƣời dƣới 18 tuổi (Chƣơng XXVIII) [25].
Nhƣ vậy về độ tuổi, NCTN là ngƣời chƣa đủ 18 tuổi. Đây có thể coi là
giới hạn trên (tối đa) của tuổi chƣa thành niên, còn giới hạn dƣới (tối thiểu)
thông thƣờng là 0 [28]. Ở độ tuổi này, những đặc điểm về tâm sinh lý của
NCTN có những biểu hiện khá phức tạp và mang những đặc trƣng về tâm,
sinh lý, xã hội của NCTN, có thể nhận thấy một số điểm khác biệt của NCTN
so với ngƣời thành niên:

10



- NCTN là ngƣời chƣa phát triển đầy đủ về thể chất. Sự phát triển biểu
hiện ở sự tăng trƣởng về chiều cao, trọng lƣợng cơ bắp, sự hoàn thiện các giác
quan… Điểm khác biệt này là do nhân tố sinh học.
- NCTN là ngƣời chƣa phát triển đầy đủ về trí tuệ và tâm sinh lý. Cũng
là q trình sinh học, bộ não của nhóm đối tƣợng này phát triển cùng với sự
phát triển thể chất.
- NCTN chƣa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Độ tuổi của
NCTN là ranh giới để phân biệt họ với ngƣời thành niên. Theo đó, ngƣời chƣa
đủ 18 tuổi là NCTN, chƣa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ cơng dân. Còn ngƣời
từ đủ 18 tuổi trở lên, về nguyên tắc có đầy đủ quyền và nghĩa vụ cơng dân.
Từ những phân tích trên có thể đƣa ra định nghĩa, khái niệm “NCTN là
người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa
có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên”.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì khái niệm
"NCTN" và khái niệm "trẻ em" khơng đồng nhất với nhau nhƣ theo pháp luật
quốc tế. Về khái niệm “trẻ em”, Công ƣớc về quyền trẻ em quy định: “Trẻ em
có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em
đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Pháp luật Việt Nam quy định độ tuổi
trẻ em thấp hơn quy định chung của Công ƣớc về quyền trẻ em. Luật Trẻ em
năm 2016 quy định trẻ em là ngƣời dƣới 16 tuổi. Nhƣ vậy, tƣơng tự nhƣ một
số nƣớc, quy định về độ tuổi trẻ em dƣới 16 tuổi của Luật Trẻ em Việt Nam
không trái với quy định của Công ƣớc về quyền trẻ em vì thuộc phần “ngoại
lệ” Điều 1 Công ƣớc này.
Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm “NCTN” có nội hàm rộng hơn so
với khái niệm “trẻ em”; NCTN bao gồm cả trẻ em và những ngƣời từ đủ 16
tuổi đến dƣới 18 tuổi. Quyền và nghĩa vụ của NCTN tùy thuộc vào quan hệ
pháp luật mà ngƣời đó tham gia. Do đó, việc nắm vững các khái niệm và đặc


11


thù của trẻ em và NCTN rất quan trọng vì liên quan đến việc xác định năng
lực pháp luật, năng lực hành vi, quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của một
ngƣời khi tham gia vào các quan hệ dân sự, hơn nhân và gia đình, lao động,
hành chính; năng lực chịu trách nhiệm hình sự của trẻ em và NCTN; cũng
nhƣ trách nhiệm của Nhà nƣớc đối với các đối tƣợng này.
1.1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên vi phạm pháp luật
Theo từ điển pháp luật “vi phạm pháp luật” có hai ý nghĩa. Theo nghĩa
rộng, vi phạm pháp luật là các việc sai, trái pháp luật nói chung, bao gồm tất cả
các loại vi phạm pháp luật đƣợc quy định trong hệ thống pháp luật. Theo nghĩa
hẹp, vi phạm pháp luật cũng là các việc sai, trái pháp luật nhƣng không cấu
thành tội phạm (không phải là tội phạm theo quy định của BLHS 2015), theo
nghĩa này, thì các hành vi vi phạm pháp luật có thể là hành vi bị phạt vi phạm
hành chính nhƣ phạt tiền, phạt cảnh cáo, bồi thƣờng thiệt hại, phạt kỷ luật lao
động. Tất cả các hành vi trên có mức độ nguy hiểm cho xã hội ít hơn tội phạm.
Tuy nhiên, dƣới góc độ lý luận chung nhà nƣớc và pháp luật thì vi
phạm pháp luật đƣợc hiểu theo cách thứ nhất, trên cơ sở đó phân loại vi phạm
pháp luật đƣợc chia ra:
- Vi phạm hình sự: là hành vi trái pháp luật, có lỗi, nguy hiểm cho xã
hội, đƣợc quy định trong BLHS, do ngƣời có trách nhiệm hình sự thực hiện.
- Vi phạm hành chính: là hành vi vi phạm pháp luật, có lỗi, nhƣng mức
độ nguy hiểm thấp hơn so với tội phạm, xâm hại đến các quan hệ xã hội đƣợc
pháp luật hành chính bảo vệ.
- Vi phạm kỷ luật: là hành vi có lỗi, trái pháp luật, kỷ luật của đơn vị, cơ
quan nhà nƣớc.
- Vi phạm dân sự: là hành vi vi phạm đến các quan hệ tài sản và quan
hệ nhân thân, chủ yếu đƣợc quy định trong Bộ luật Dân sự.
Vậy, vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động)


12


trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện,
xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến quan hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo vệ.
NCTN vi phạm pháp luật là hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội đƣợc
pháp luật bảo vệ mà chủ thể thực hiện hành vi là NCTN, có năng lực trách
nhiệm pháp lý, có lỗi và có thể bị xử lý hành chính, hình sự, lao động, kỷ
luật... Nói cách khác, NCTN vi phạm pháp luật là ngƣời dƣới 18 tuổi thực
hiện bất cứ hành vi nào bị pháp luật cấm.
1.1.2. Khái niệm trợ giúp pháp lý, quyền trợ giúp pháp lý của người
chưa thành niên vi phạm pháp luật
1.1.2.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” có nguồn gốc từ tiếng Anh là “legal aid”
đƣợc sử dụng phổ biến trên thế giới từ giữa thế kỷ 20. Theo đó, “legal aid”
đƣợc dịch ra tiếng Việt với nhiều tên gọi và thuật ngữ khác nhau. Theo Từ
điển Anh - Việt của tác giả Lê Khả Kế, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1997
thì “legal aid” có nghĩa là “trợ cấp pháp lý”. Trong Từ điển pháp luật AnhViệt, Nhà xuất bản Thế giới do Nguyễn Thành Minh chủ biên, 1998 thì “legal
aid” trong cụm từ “legal aid schem” (kế hoạch bảo trợ tƣ pháp) có nghĩa là
“bảo trợ tƣ pháp”. Trong một số tài liệu khác còn dịch là “hỗ trợ pháp luật”,
“hỗ trợ pháp lý” hoặc “hỗ trợ tƣ pháp”. Từ điển Anh - Việt, Viện Ngôn ngữ
học, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (Nhà xuất bản Thành
phố Hồ Chí Minh, 1999) khơng đƣa ra thuật ngữ chung bằng tiếng Việt về
cụm từ “legal aid” mà diễn giải nghĩa của thuật ngữ này bằng tiếng Việt là “lấy
tiền từ cơng quỹ để trả chi phí cho việc cố vấn hoặc làm đại diện pháp lý”.
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” là một cụm từ ghép “trợ giúp” và “pháp
lý”. Theo Từ điển tiếng Việt, thì “trợ giúp” đƣợc hiểu là “giúp đỡ”, pháp lý
tức là “nguyên lý về pháp luật” [34, tr.1045]. Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt
Nam, thì “trợ giúp” là góp sức hoặc góp tiền cho một ngƣời hoặc vào một


13


việc chung, giúp làm hộ mà không lấy tiền công, còn “pháp lý” là “nguyên lý
của pháp luật” [13, tr.1431]. Theo Đại từ điển tiếng Việt, thì “trợ giúp” đƣợc
hiểu là “sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem lại cho ai cái gì,
lúc khó khăn, đang lúc cần đến”, thuật ngữ “pháp lý” đƣợc hiểu là lý lẽ, lẽ
phải theo pháp luật, nói một cách khái quát pháp lý là lý luận; theo Từ điển
Luật học, NXb Từ điển Bách khoa - Nxb Tƣ pháp, 2006, thì pháp lý là những
khía cạnh, phƣơng diện khác nhau của đời sống pháp luật của một quốc gia,
“pháp lý” chỉ những lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, giá trị pháp lý bắt buộc từ
một sự việc, hiện tƣợng xã hội, những nguyên lý, phạm trù, khái niệm lý luận
về pháp luật [35, tr.606]. Do vậy, dù là “giúp đỡ”, “bảo trợ” hay “hỗ trợ” cũng
có thể đƣợc hiểu là “trợ giúp”. Ở đây trợ giúp đƣợc hiểu là sự giúp đỡ cho ai
đó đang gặp khó khăn, nhằm giảm bớt khó khăn về một vấn đề mà họ đang
cần và cái họ đang cần ở đây là pháp lý.
Nhƣ vậy, có nhiều cách gọi khác nhau có cùng nghĩa với thuật ngữ
“TGPL” nhƣng thuật ngữ “TGPL” có nghĩa chung nhất, rõ nhất nêu bật đƣợc
sự giúp đỡ, hỗ trợ đối với những trƣờng hợp có khó khăn về mặt pháp lý.
Ở Việt Nam, mặc dù, đƣợc sử dụng từ năm 1995, tuy nhiên, phải đến
khi Luật TGPL ra đời năm 2006 thì khái niệm “TGPL” mới đƣợc xây dựng
tổng quát và mang tính pháp lý. Luật TGPL năm 2006 vừa đƣợc thay thế bởi
Luật TGPL năm 2017 (đƣợc Quốc hội thông qua vào ngày 20 tháng 6 năm
2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018). Theo đó, Luật
TGPL năm 2017 quy định:
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí
cho ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý
theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con ngƣời,
quyền cơng dân trong tiếp cận cơng lý và bình đẳng trƣớc pháp

luật [27, Điều 7].

14


Nhƣ vậy, dù pháp luật các nƣớc quy định tƣơng đối khác nhau, song
tựu chung khái niệm TGPL đều đƣợc xây dựng dựa trên những nền tảng sau:
- Sự hỗ trợ về chi phí: hỗ trợ một phần hoặc hồn tồn các chi phí liên
quan đến các dịch vụ pháp lý. Các chi phí này có thể là chi phí thuê luật sƣ,
phí tƣ vấn pháp luật, phí soạn thảo văn bản, đơn kiện... Thậm chí, một số
quốc gia cịn trang trải cho việc đi lại, điện thoại liên hệ...trong q trình
ngƣời TGPL cung cấp thơng tin. Một số quốc gia quy định cụ thể những
trƣờng hợp đƣợc miễn phí hồn tồn và những trƣờng hợp phải đóng một
khoản phí phù hợp với mức thu nhập của ngƣời đƣợc TGPL.
- Đối tượng hưởng lợi: là ngƣời khơng có khả năng hoặc bị hạn chế về
khả năng tiếp cận pháp lý. Sự hạn chế này có thể xuất phát do yếu tố tài chính
(nghèo đói, trẻ em khơng có cha mẹ, ngƣời giám hộ lo các khoản phí...), thể
chất, tinh thần (ngƣời khuyết tật...), giới tính, quốc tịch (ngƣời nƣớc ngồi...)...
- Mục đích: nhằm tạo sự cơng bằng về khả năng tiếp cận công lý cho tất
cả mọi ngƣời trong xã hội. Xuất phát từ quan điểm “bình đẳng thực chất” cho tất
cả mọi ngƣời, sự TGPL sẽ giúp mọi cá nhân có thể tiếp cận với pháp luật, vƣợt
qua các rào cản để thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Từ các phân tích trên, có thể đƣa ra định nghĩa TGPL nhƣ sau:
TGPL là một hoạt động hỗ trợ xã hội, cung cấp các dịch vụ pháp lý
miễn phí hoặc thu phí một phần cho những người gặp khó khăn trong việc
tiếp cận, thực hiện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình do cơ quan, tổ
chức, cá nhân có chun mơn, nghiệp vụ tiến hành nhằm bảo đảm quyền tiếp
cận công lý, công bằng xã hội của họ.
1.1.2.2. Khái niệm quyền trợ giúp pháp lý của người chưa thành niên vi
phạm pháp luật

Quyền TGPL là một bảo đảm để mọi công dân và cá nhân trong xã hội
đều có thể thực hiện quyền tiếp cận công lý. Công lý là điều mọi ngƣời hƣớng

15


tới và do đó quyền tiếp cận cơng lý nhƣ một vấn đề hiển nhiên trong trách
nhiệm bảo đảm của Nhà nƣớc đối với công dân và các cá nhân trong xã hội
mà mình là chủ thể đƣợc trao quyền quản lý. Tiếp cận công lý là nhu cầu của
mọi ngƣời trong xã hội, nhƣng khơng phải ai cũng bình đẳng về cơ hội đƣợc
tiếp cận công lý. Trong một xã hội ln có những đối tƣợng yếu thế, gặp khó
khăn về nhận thức pháp lý, về yếu tố kinh tế trong sử dụng các dịch vụ pháp
lý để thực hiện các quyền tố tụng của mình... so với những ngƣời khác trong
thực hiện quyền tiếp cận cơng lý, vì vậy trách nhiệm của Nhà nƣớc phải trợ
giúp họ có cơ hội thực hiện đƣợc quyền này. Từ đó, quyền đƣợc TGPL có thể
hiểu nhƣ một quyền phái sinh của quyền tiếp cận cơng lý.
Nhƣ vậy, có thể hiểu quyền TGPL của NCTN vi phạm pháp luật là việc
đƣợc tiếp cận hệ thống dịch vụ và tƣ vấn pháp lý miễn phí dựa trên quy định
của pháp luật nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa họ và các chủ thể khác trong
tiếp cận công lý. Quyền TGPL này dùng để chỉ khả năng và năng lực của chủ
thể thụ hƣởng sự TGPL đƣợc pháp luật bảo đảm.
Quyền TGPL của NCTN nhằm mục đích kiểm tra xem việc tƣớc tự do
của họ trƣớc tịa án có đúng quy định của pháp luật hay không và nhằm đƣa ra
câu trả lời cho câu hỏi trên một cách nhanh chóng và chính xác. Quyền TGPL
còn là điều kiện để tiếp cận, thúc đẩy, thực thi các quyền con ngƣời khác của
NCTN nên nó có vị trí đặc biệt trong hệ thống các quyền con ngƣời.
1.1.3. Đặc điểm quyền trợ giúp pháp lý của người chưa thành niên vi
phạm pháp luật
NCTN luôn là đối tƣợng đƣợc quan tâm ở bất kỳ một quốc gia nào. Bởi
lẽ, đó là thế hệ trẻ, thế hệ tƣơng lai quyết định vận mệnh phát triển của một

đất nƣớc, một dân tộc. Theo Luật TGPL năm 2017, “trẻ em”, “ngƣời bị buộc
tội từ đủ 16 tuổi đến dƣới 18 tuổi” và “ngƣời từ đủ 16 tuổi đến dƣới 18 tuổi là
bị hại trong vụ án hình sự” sẽ đƣợc TGPL miễn phí. Trong thời kì này, NCTN

16


đang trong quá trình trƣởng thành thành ngƣời lớn, sự “đang phát triển” chính
là yếu tố làm họ dễ tổn thƣơng nhất. Họ phải trải qua những khó khăn, thách
thức liên quan đến quá trình phát triển thể chất, tâm lý và tâm lý xã hội. Khoa
học cũng nhƣ pháp luật đều coi NCTN là những ngƣời chƣa hoàn toàn phát
triển đầy đủ về thể chất và nhân cách, chƣa có quyền lợi và nghĩa vụ của một
cơng dân. Vì vậy, pháp luật có những chế định riêng đối với NCTN nhằm
mục đích bảo vệ và tạo điều kiện cho đối tƣợng này phát triển và hồn thiện.
Vì năng lực hành vi không đầy đủ, NCTN không thể thực hiện đƣợc quyền
của mình, nên rất cần sự trợ giúp của gia đình, nhà nƣớc và xã hội. Do đó,
quyền TGPL của NCTN vi phạm pháp luật cũng có những điểm khác biệt so
với những đối tƣợng khác. Có thể xem xét quyền TGPL của NCTN vi phạm
pháp luật ở những đặc điểm dƣới đây:
Một là, quyền TGPL của NCTN vi phạm pháp luật là quyền con người.
Trong pháp luật tố tụng, quyền con ngƣời đƣợc bảo vệ thông qua việc
quy định các quyền của ngƣời bào chữa, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
cho đối tƣợng trong q trình tham gia tố tụng. Các quyền cơ bản nhƣ: quyền
đƣợc tham gia bào chữa ngay khi đối tƣợng bị tạm giữ, tạm giam; quyền đƣợc
có mặt trong hỏi cung, lấy lời khai; quyền đƣợc tranh tụng tại phiên tòa;
quyền xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp cho Tòa án…đƣợc pháp luật
quy định rất cụ thể.
Mục đích của TGPL là nhằm giúp đỡ, tƣơng trợ cho những ngƣời gặp
nhiều khó khăn trong việc vƣợt qua các rào cản để bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của mình, góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Các đối tƣợng trên do sức

khỏe, giới tính, xu hƣớng tình dục, nguồn gốc, dân tộc và các yếu tố khác mà
có vị thế chính trị, xã hội, kinh tế hay pháp lý thấp hơn các nhóm khác, vì vậy,
khơng có khả năng hoặc bị hạn chế về khả năng tiếp cận, thực hiện và bảo vệ
các quyền con ngƣời của mình, dẫn đến có nguy cơ cao bị phớt lờ, bị bỏ quên

17


hoặc bị vi phạm các quyền con ngƣời đó. Chính bởi thế, họ cần có sự trợ giúp
về pháp lý, kinh tế, giáo dục, y tế nhằm khắc phục hoặc hạn chế phần nào đặc
tính bị dễ tổn thƣơng để hòa nhập cộng đồng và phát triển đời sống cá nhân.
Quyền đƣợc TGPL khơng những đem lại nhiều lợi ích cho NCTN vi phạm
pháp luật, mà còn giúp cho các cơ quan chức năng nắm bắt tâm tƣ, nguyện
vọng của ngƣời dân từ cơ sở, nhất là những nguyện vọng chính đáng của ngƣời
nghèo và đối tƣợng chính sách, qua đó, Nhà nƣớc sẽ có những chủ trƣơng,
quyết sách đúng đắn trong việc thực hiện các chức năng xã hội của mình [19].
Hai là, quyền TGPL của NCTN vi phạm pháp luật xác định trách nhiệm,
nghĩa vụ của cơ quan nhà nước, các tổ chức được pháp luật quy định.
Luật TGPL năm 2017 quy định TGPL là trách nhiệm của Nhà nƣớc.
Nhà nƣớc có trách nhiệm quản lý sự hoạt động, phối hợp của các cơ quan này
trong hoạt động TGPL: Chính phủ, Bộ Tƣ pháp, Bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa
án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Cơng an, Bộ Quốc
phịng, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, trách nhiệm Liên đoàn Luật sƣ Việt Nam
và tổ chức chủ quản của các tổ chức tƣ vấn pháp luật. Đồng thời Nhà nƣớc
cần có trách nhiệm đƣa ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lƣợng dịch vụ
TGPL; khuyến khích các lực lƣợng xã hội đóng góp, hỗ trợ cho cơng tác
TGPL và tiếp tục sử dụng nguồn lực của mình để thực hiện các dịch vụ TGPL
miễn phí, thiện nguyện cho xã hội thực hiện nhằm giảm bớt gánh nặng cho
Nhà nƣớc; hơn nữa cần có sự ghi nhận, tơn vinh cơ quan, tổ chức, cá nhân có
đóng góp tích cực cho cơng tác TGPL. Việc thực hiện TGPL cho ngƣời

nghèo, ngƣời có cơng với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số cƣ trú ở vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và một số nhóm ngƣời yếu thế
khác trong xã hội là một loại hình dịch vụ sự nghiệp công, là chức năng xã
hội của Nhà nƣớc. Xuất phát từ bản chất của Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc pháp
quyền của dân, do dân và vì dân, do đó, Nhà nƣớc có trách nhiệm bảo đảm

18


việc cung ứng dịch vụ pháp lý vì lợi ích chung của cộng đồng nhằm bảo đảm
sự ổn định và cơng bằng xã hội.
Nhà nƣớc có trách nhiệm tổ chức cung ứng dịch vụ TGPL với tƣ cách
là một dịch vụ công với những cơ chế, biện pháp, cách thức để bảo đảm các
đối tƣợng thuộc diện TGPL đƣợc TGPL một cách tốt nhất. Do đó, cần thực
hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lƣợng dịch vụ TGPL, bảo đảm quyền
đƣợc TGPL phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội theo từng thời kỳ của đất
nƣớc. Quyền tiếp cận tƣ pháp nói chung và quyền tiếp cận TGPL nói riêng
đƣợc quy định tại một số cơng ƣớc quốc tế mà Việt Nam đã tham gia và là
thành viên nhƣ: Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966),
Cơng ƣớc chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW), Công ƣớc quốc
tế về quyền trẻ em… Từ đó, với tƣ cách là một trong những những phƣơng
thức nhằm bảo đảm quyền con ngƣời, quyền cơng dân, địi hỏi Nhà nƣớc có
các biện pháp để bảo đảm quyền TGPL nhằm đáp ứng yêu cầu tiếp cận pháp
luật ngày càng cao của ngƣời dân.
Việc huy động xã hội thực hiện TGPL là quan điểm tồn tại ở hầu khắp
các nƣớc trên thế giới, chỉ khác nhau ở mức độ tham gia vào hoạt động này.
Mức độ tham gia của xã hội thƣờng phụ thuộc vào chính sách của Nhà nƣớc
khuyến khích xã hội tham gia; nguồn kinh phí hoạt động; trách nhiệm của
các lực lƣợng xã hội; nhu cầu đƣợc cung cấp một dịch vụ TGPL khách quan
và độc lập của cơng dân. Do đó, Luật TGPL đề cập đến việc Nhà nƣớc

khuyến khích các tổ chức, cá nhân đóng góp, hỗ trợ cơng tác TGPL. Việc
Nhà nƣớc khuyến khích, kêu gọi các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện
việc TGPL cho ngƣời dân cũng phù hợp với việc khẳng định TGPL là trách
nhiệm của Nhà nƣớc, do đó, Nhà nƣớc cũng đƣa ra những biện pháp nhằm
cung cấp kịp thời, đầy đủ nhu cầu TGPL trong xã hội nhƣ đa dạng hóa chủ
thể thực hiện TGPL...

19


×