Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Tội cướp tài sản theo bộ luật hình sự việt nam năm 1999 trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn huyện từ liêm thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (859.45 KB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HƢƠNG

Téi c-íp tài sản
theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
(trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn huyện Từ Liêm, thµnh phè Hµ Néi)

Chun ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHẮC HẢI

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan tồn bộ cơng trình nghiên cứu
này là của riêng tôi. Các số liệu, sự kiện và kết quả được
trình bày trong luận văn là hồn tồn trung thực, khách
quan và chưa từng được cơng bố trong bất kỳ một cơng
trình nghiên cứu khoa học nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Hƣơng



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CƢỚP TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................ 8
1.1.

Khái niệm và đặc điểm tội cƣớp tài sản ........................................ 8

1.1.1.

Khái niệm .......................................................................................... 8

1.1.2.

Đặc điểm tội cướp tài sản................................................................ 13

1.2.

Lịch sử hình thành và phát triển tội cƣớp tài sản trong pháp
luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay. ............................. 17

1.2.1.

Tội cướp tài sản trong pháp luật hình sự giai đoạn 1945 – 1985.... 17


1.2.2.

Tội cướp tài sản trong pháp luật hình sự giai đoạn 1985 - 1999 .... 21

1.3.

Tội cƣớp tài sản trong Luật hình sự một số nƣớc trên thế giới 25

1.3.1.

Tội cướp tài sản trong luật hình sự Liên bang Nga ........................ 25

1.3.2.

Tội cướp tài sản trong luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
năm 1997 ......................................................................................... 26

1.3.3.

Tội cướp tài sản trong luật hình sự Nhật Bản ................................. 27

Chương 2: TỘI CƢỚP TÀI SẢN THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ ............................. 29
2.1.

Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội cƣớp tài sản .... 29

2.1.1.


Dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản ............................................. 29


2.1.2.

Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cướp tài sản ............. 38

2.1.3.

Phân biệt tội cướp tài sản với một số tội phạm khác ...................... 46

2.2.

Thực tiễn xét xử tội cƣớp tài sản trên địa bàn huyện Từ Liêm,
thành phố Hà Nội (từ năm 2008 đến năm 2013) ........................ 50

2.2.1.

Tình hình xét xử tội cướp tài sản trên tồn Thành phố Hà Nội ...... 50

2.2.2.

Tình hình xét xử tội cướp tài sản trên địa bàn huyện Từ Liêm ...... 59

2.2.3.

Một số vướng mắc tồn tại trong thực tiễn xét xử tội cướp tài sản...... 63

2.3.


Nguyên nhân những tồn tại, vƣớng mắc trong thực tiễn xét xử.....73

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ TỘI
CƢỚP TÀI SẢN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ................ 81
3.1.

Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội
cƣớp tài sản .................................................................................... 81

3.2.

Nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tội cƣớp tài sản trong
thực tiễn xét xử .............................................................................. 88

3.2.1.

Nâng cao năng lực, trình độ chun mơn và đạo đức nghề nghiệp
của cán bộ công chức thuộc các cơ quan tư pháp ........................... 88

3.2.2.

Tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật, trong đó có
nâng cao năng lực nhận thức và vận dụng quy định của pháp luật
hình sự về tội cướp tài sản .............................................................. 90

3.3.

Giải pháp khác............................................................................... 92

3.3.1.


Củng cố và hoàn thiện các Cơ quan tư pháp trong việc điều tra, xử
lý đối với tội phạm nói chung và tội cướp tài sản nói riêng. .......... 92

3.3.2.

Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực về an
ninh trật tự ....................................................................................... 97

KẾT LUẬN .................................................................................................. 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 103


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CTTP

Cấu thành tội phạm


HĐXX

Hội đồng xét xử

TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XXST

Xét xử sơ thẩm


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Số vụ án và số bị cáo phạm tội cướp tài sản bị

xét xử sơ thẩm trên toàn thành phố Hà Nội từ
năm 2008 – 2013

51

Bảng 2.2: Số vụ án/ bị cáo XXST về Tội cướp tài sản so
với tổng số vụ án/ bị cáo trên toàn thành phố
Hà Nội từ năm 2008 – 2013

52

Bảng 2.3: Tỷ lệ số vụ án XXST về Tội cướp tài sản
trong tổng số vụ án trên toàn thành phố Hà
Nội từ năm 2008 - 2013

54

Bảng 2.4: Bảng thống kê thụ lý và giải quyết hình sự sơ
thẩm các vụ án cướp tài sản trên toàn thành
phố Hà Nội từ năm 2008 - 2013

55

Bảng 2.5: Các biện pháp và hình phạt được áp dụng đối
với bị cáo XXST về tội cướp tài sản trên toàn
TP. Hà Nội từ năm 2008 – 2013

58

Bảng 2.6: Số vụ án và số bị cáo phạm tội cướp tài sản bị

xét xử sơ thẩm trên địa bàn huyện Từ Liêm từ
năm 2008 – 2013

60

Bảng 2.7: Số vụ án/ bị cáo XXST về Tội cướp tài sản so
với tổng số vụ án/ bị cáo bị XXST trên địa bàn
huyện Từ Liêm từ năm 2008 - 2013

61

Bảng 2.8: Số vụ án, bị cáo phạm tội cướp tài sản bị xét
xử sơ thẩm trên địa bàn huyện Từ Liêm so với
toàn thành phố Hà Nội từ năm 2008 – 2013

62


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, quá trình đơ thị hố - hiện đại
hố hiện nay, phải thừa nhận rằng nền kinh tế thị trường đã mang lại những lợi
ích to lớn về mọi mặt như kinh tế, đời sống, xã hội cho nhân dân… Bên cạnh
những mặt tích cực thì vẫn ln có những mặt trái của nó. Hiện nay tình hình
an ninh, trật tự trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói chung và huyện Từ Liêm
nói riêng đáng báo động, diễn biến của các loại tội phạm rất phức tạp, thủ đoạn
tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, tổ chức băng đảng, ổ nhóm, đặc biệt nhóm
tội xâm phạm về sở hữu mà nổi cộm là cướp tài sản, cướp giật tài sản, lừa đảo
chiếm đoạt tài sản,… xảy ra liên tiếp và không ngừng gia tăng. Chỉ riêng địa
bàn huyện Từ Liêm trong 10 tháng đầu năm 2013, Cơ quan điều tra Công an

huyện Từ Liêm đã khởi tố 242 vụ /312 bị can tội xâm phạm về sở hữu trong đó
cướp tài sản 24 vụ /33 bị can. Một số vụ đối tượng sử dụng hung khí nguy hiểm
đe doạ nạn nhân để chiếm đoạt tài sản, gây thiệt hại cho nhiều người, nhiều vụ
không thu hồi được tài sản trả chủ sở hữu gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình
hình, an ninh, trật tự xã hội, gây tâm lý bất ổn trong nhân dân.
Xét về lịch sử luật hình sự Việt Nam, tội cướp tài sản là một trong các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được quy định và xét xử theo Luật
hình sự khá sớm và hiện nay được quy định tại Điều 133 BLHS năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009). Tuy nhiên trong lý luận và thực tiễn có những
nhận thức khác nhau về các dấu hiệu của tội phạm này dẫn đến việc áp dụng
pháp luật trong thực tiễn chưa chính xác và kém hiệu quả.
Để đảm bảo truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội thì việc
nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu pháp lý cơ bản về tội cướp tài sản là cần
thiết để áp dụng quy phạm này vào thực tiễn xét xử đạt hiệu quả cao đồng
thời qua hoạt động xét xử phát hiện những điểm còn vướng mắc, những mặt

1


tồn tại, hạn chế từ đó có những giải pháp để hoàn thiện, nâng cao chất lượng
xét xử là rất cần thiết. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Tội cướp tài sản theo Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 1999 (Trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn huyện Từ
Liêm, thành phố Hà Nội)” làm luận văn thạc sĩ luật học để nghiên cứu làm
sáng tỏ những vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Là một trong những tội phạm khá phổ biến và được quy định từ rất sớm
trong pháp luật hình sự trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng. Hiện
nay đã có những cơng trình nghiên cứu về tội cướp tài sản ở những cấp độ
khác nhau như: khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, đề tài
khoa học và ở những khía cạnh khác nhau như: tội phạm học, khoa học luật

hình sự, lý luận và thực tiễn,...Cụ thể:
Nhóm thứ nhất, đó là giáo trình, sách giáo khoa, sách chuyên khảo,
bình luận khoa học như: Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Chương XX:
Các tội xâm phạm sở hữu, Trường đại học Luật Hà Nội, Nxb Cơng an nhân
dân (2001) do GS.TS Nguyễn Ngọc Hịa chủ biên; Giáo trình luật hình sự
Việt Nam (Phần các tội phạm), khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội (2001) do GS.TSKH Lê Văn Cảm chủ biên (tái
bản năm 2003, 2007); Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)
do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2001);
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm), Nxb Công an
nhân dân (2007) của Tập thể tác giả PGS.TS. Phùng Thế Vắc; TS. Trần Văn
Luyện; LS. Thạc sỹ. Phạm Thanh Bình; TS. Nguyễn Đức Mai; Thạc sỹ
Nguyễn Sỹ Đại; Thạc sỹ Nguyễn Mai Bộ; Bình luận khoa học BLHS phần
các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh (2006) của Th.s
Đinh Văn Quế - Chánh án Tịa Hình sự, TANDTC; Sách chuyên khảo sau
đại học Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần chung),
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội (2005) của GS. TSKH Lê Văn Cảm; Định tội

2


danh (Lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
(2011) của GS.TSKH Lê Văn Cảm, TS. Trịnh Quốc Toản; Sách chuyên
khảo Vi phạm pháp luật trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, Nxb
Tư Pháp (2006) của tác giả Lê Thị Kim Chung,….
Hầu hết những tài liệu khoa học trên có phạm vi nghiên cứu rộng, bao
quát nhiều vấn đề về tội phạm nói chung trong khoa học luật hình sự Việt
Nam mà chưa có một cơng trình nghiên cứu riêng về tội cướp tài sản.
Nhóm thứ hai, đó là luận án, luận văn, bài viết và đề tài khoa học như:
Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ của

Nguyễn Ngọc Chí (2000); Đấu tranh phòng chống tội Cướp tài sản trên địa
bàn Hà Nội, Luận án tiến sĩ của Đỗ Kim Tuyến (2001); Đấu tranh phòng
chống các tội cướp tài sản ở nước ta hiện nay, Luận án cao học của Tào Thị
Hoàng Yến (1997) và một số luận văn thạc sỹ của tác giả Trần Đình Hải về
Dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999, năm 2012; Trần Thị Phường về Định tội danh đối với
nhóm tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2006 – 2010, năm
2011; Võ Minh Tiến về Đấu tranh phòng chống tội Cướp tài sản trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi, năm 2006; Hồ Phước Linh về Phòng ngừa tội Cướp tài sản
trên địa bàn tỉnh Nghệ An, năm 2011; Đặng Quang Dũng Các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong luật hình sự Việt Nam năm 2010,...
Bên cạnh đó có một số bài viết trên các báo, tạp chí như: Một số trường
hợp sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm trong tội cướp tài sản, Đặng Văn
Phượng - Tạp chí Tịa án nhân số 17/2008, tr 37 – 40; Tội cướp tài sản, Mai
Bộ - Tạp chí Tạp chí Tịa án nhân số 3/2007, tr 8 – 13; Tội cướp tài sản trong
luật hình sự Việt Nam, Phạm Văn Báu – Tạp chí Luật học số 10/2010, tr 3 –
9; Về hậu quả chết người ở tội cướp tài sản trong Bộ luật hình sự hiện hành,
Phạm Văn Beo - Tạp chí Tạp chí Tịa án nhân số 14/2013, tr 13 – 14, 24;….
Nhìn chung những luận án, luận văn và các bài viết trên đã đề cập đến

3


một khía cạnh nào đó của tội cướp tài sản như vấn đề trách nhiệm hình sự,
định tội danh, dấu hiệu định khung, đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này
nhưng chưa có một cơng trình nào nghiên cứu cụ thể về các dấu hiệu pháp lý
cơ bản của tội cướp tài sản cũng như thực tiễn xét xử tội cướp tài sản trên địa
bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2008 – 2013. Vì vậy
tác giả chọn đề tài tài “Tội cướp tài sản theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 (Trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội)”

để nghiên cứu chuyên sâu về một loại tội phạm cụ thể cũng như áp dụng chế
định này vào trong thực tiễn xét xử. Những vướng mắc, tồn tại trong việc áp
dụng pháp luật, từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi và thời gian nghiên cứu
của Luận văn
3.1. Mục đích: Luận văn có mục đích làm sáng tỏ một số vấn đề về mặt
lý luận cũng như các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản, từ đó đưa ra cái
nhìn tổng quát về các quy định của pháp luật hình sự đối với tội Cướp tài sản,
cũng như việc áp dụng các quy định pháp luật trong thực tiễn. Luận văn đi sâu
vào nghiên cứu khái niệm, đặc điểm pháp lý hình sự của tội phạm này, làm
sáng tỏ những ưu điểm, những tồn tại khi áp dụng vào trong thực tiễn xét xử
và đưa ra giải pháp góp phần hồn thiện một Điều luật cụ thể, đồng thời nâng
cao hiệu quả công tác áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng,
góp phần vào cơng cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn huyện
Từ Liêm nói riêng và Hà Nội nói chung.
3.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, q trình nghiên cứu luận
văn cần giải quyết nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu làm rõ khái niệm, đặc điểm của tội cướp tài sản
trong pháp luật hình sự thực định Việt Nam.
Thứ hai: Khái quát chung về lịch sử hình thành và phát triển tội cướp tài

4


sản trong pháp luật hình sự Việt Nam. Khái niệm tội cướp tài sản trong Bộ
luật hình sự một số nước trên Thế giới.
Thứ ba: Qua thực trạng pháp luật hình sự hiện hành quy định về tội cướp
tài sản, từ đó phân tích các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội cướp tài sản và
thực tiễn xét xử tội phạm này trên địa bàn huyện Từ Liêm,thành phố Hà Nội.
Thứ tư: Những hạn chế, tồn tại trong việc áp dụng Điều luật vào thực

tiễn để giải quyết loại án này trong những năm gần đây và đề xuất một số giải
pháp để nâng cao hiệu quả xét xử.
3.3. Đối tượng nghiên cứu: Trên cơ sở mục đích và nhiệm vụ của đề tài,
chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu liên quan đến tội cướp tài sản dưới
góc độ luật hình sự và tội phạm học như: khái niệm, dấu hiệu pháp lý hình sự,
thực trạng pháp luật hiện hành, thực tiễn xét xử tội cướp tài sản và những
vướng mắc, tồn tại từ đó đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
xét xử tội cướp tài sản trên địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
3.4. Phạm vi và thời gian nghiên cứu của luận văn
Phạm vi: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Tội
cướp tài sản được quy định tại Điều 133, Chương XIV “Các tội xâm phạm sở
hữu” trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) dưới góc độ pháp
luật hình sự, đồng thời luận văn cũng đề cập đến một số văn bản pháp luật
khác liên quan đến Tội cướp tài sản như Pháp lệnh, Thông tư, Nghị quyết.
Thời gian nghiên cứu: Luận văn sử dụng số liệu xét xử sơ thẩm về tội
cướp tài sản trên địa bàn huyện Từ Liêm và toàn thành phố Hà Nội trong
khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm 2013.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên nền tảng cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác Lê Nin đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng và tư
tưởng Hồ Chí Minh cũng như những chủ trương, đường lối, quan điểm của

5


Đảng, Nhà nước về chính sách hình sự, nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Luận văn là sự học hỏi và kế thừa những thành công của các chuyên
ngành khoa học pháp lý như: Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Lịch
sử Nhà nước và pháp luật, Tội phạm học, Xã hội học, Luật hình sự,… cũng
như các bình luận khoa học, bài viết trên các báo và tạp chí chun ngành.
Trong q trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp của tội

phạm học như: phương pháp thống kê hình sự, so sánh, phương pháp tổng
hợp và phân tích số liệu kết hợp với các tri thức khoa học của các ngành khoa
học tương ứng để nghiên cứu luận văn nhằm đạt được mục đích đặt ra.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của Luận văn
Luận văn nghiên cứu tương đối cụ thể và có hệ thống một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về Tội cướp tài sản trong Luật hình sự Việt Nam cũng như
thực trạng áp dụng điều luật vào trong thực tiễn xét xử trên địa bàn huyện Từ
Liêm cũng như toàn thành phố Hà Nội.
Về mặt lý luận, luận văn đã giải quyết một số vấn đề như: khái niệm, các
dấu hiệu pháp lý đặc trưng, trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cướp
tài sản, lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm pháp luật về tội cướp tài
sản trong luật hình sự Việt Nam cũng như khái niệm, đặc điểm về tội cướp
trong luật hình sự một số nước trên thế giới.
Về mặt thực tiễn, luận văn đã phân tích tình hình xét xử tội cướp tài sản
trên địa bàn huyện Từ Liêm nói riêng và thành phố Hà Nội nói chung giai
đoạn 2008 – 2013. Qua đó, chỉ ra được những vướng mắc, tồn tại của pháp
luật, những nguyên nhân, hạn chế trong việc áp dụng pháp luật vào trong thực
tiễn đời sống ở một địa bàn trọng điểm của cả nước đó là thủ đơ Hà Nội.
Từ những tồn tại trên, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
hơn nữa quy định của pháp luật về tội cướp tài sản, cũng như một số giải pháp
khác nhằm nâng cao hiệu quả xét xử loại tội phạm này trên địa bàn Hà Nội
nói riêng và cả nước nói chung.

6


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về lý luận và
thực tiễn trong đó giải quyết một số vấn đề chuyên sâu về một tội phạm cụ thể
và đang có biểu hiện gia tăng trong giai đoạn hiện và đặc biệt áp dụng vào

trong thực tiễn cịn nhiều khó khăn, vướng mắc. Luận văn là cơng trình
nghiên cứu có hệ thống và cụ thể về tội cướp tài sản trong luật hình sự Việt
Nam, góp phần hoàn thiện lý luận các quy định về tội cướp tài sản dựa trên
kết quả xét xử ở thành phố Hà Nội trong những năm gần đây, để thấy được
những mặt còn tồn tại, nguyên nhân và những giải phải khắc phục nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật. Và trong một khía cạnh nhất định nào đó, thì kết
quả nghiên cứu của Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu
khoa học, các cán bộ giảng dạy, các nghiên cứu sinh, học viên chuyên ngành
Tư pháp hình sự. Đồng thời góp một phần vào việc áp dụng quy phạm pháp
luật vào trong thực tiễn.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội cướp tài sản trong luật hình sự
Việt Nam.
Chương 2: Tội cướp tài sản theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và
thực tiễn xét xử.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử tội cướp tài sản trong
giai đoạn hiện nay.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CƢỚP TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và đặc điểm tội cƣớp tài sản
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm xâm phạm sở hữu, xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt

Sở hữu là khái niệm rộng đồng thời cũng là đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học khác nhau, trong phạm vi luận văn chúng tôi nghiên
cứu sở hữu là quan hệ kinh tế được pháp luật điều chỉnh tạo nên ba quyền:
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Để đảm bảo chủ sở hữu thực hiện những
quyền này, Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận và được cụ thể hóa trong Bộ luật
dân sự năm 2005. Quyền sở hữu đối với tài sản là quyền quan trọng được
pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Như vậy quyền sở hữu về tài sản bao gồm:
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với
tài sản hợp pháp được pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng ghi
nhận và bảo vệ.
Xâm phạm được hiểu là động đến chủ quyền của người khác. Xâm phạm
sở hữu có thể là chiếm đoạt tài sản hoặc hủy hoại làm mất đi giá trị của tài sản
đối với chủ sở hữu.
Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm: “Xâm phạm sở hữu là
hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc hủy hoại làm mất đi giá trị hoặc làm giảm giá trị
của tài sản đối với chủ sở hữu hợp pháp được pháp luật ghi nhận và bảo vệ”.
Còn “các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu của cơ quan tổ
chức và của công dân” [34, tr.9].

8


Quan hệ sở hữu là một trong những khách thể được pháp luật hình sự
bảo vệ, cịn tài sản là đối tượng tác động của tội phạm. Người phạm tội mong
muốn có được tài sản và thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản một cách bất
hợp pháp được gọi là hành vi chiếm đoạt.
Khái niệm “chiếm đoạt tài sản” lần đầu tiên được ghi nhật trong 2 Pháp
lệnh ban hành ngày 21/10/1970 đó là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm

tài sản XHCN và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản của công dân.
Đến năm 1985 BLHS đầu tiên ra đời quy định các tội xâm phạm sở hữu Xã
hội chủ nghĩa tại Chương IV và các tội xâm phạm sở hữu của công dân tại
Chương VI. Đến BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định các
tội xâm phạm sở hữu tại Chương XIV.
Trong khoa học pháp lý hiện nay, nói về khái niệm chiếm đoạt có nhiều
quan điểm được đưa ra như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 2 của
trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng “chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển
dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của chủ tài sản thành tài sản
của mình” [40, tr.9]. Theo Th.s Thái Chí Bình (Tịa án nhân dân thị xã Châu
Đốc, tỉnh An Giang) cho rằng: “chiếm đoạt là việc cố ý chuyển dịch trái pháp
luật tài sản đang được sự quản lí của chủ sở hữu thành tài sản của mình.
Chúng được biểu hiện dưới dạng hành vi hoặc mục đích phạm tội” [3]. Còn
Võ Khánh Vinh cho rằng: “chiếm đoạt tài sản (XHCN hoặc của cơng dân) và
biến nó thành tài sản của mình hoặc chuyển cho người khác, được thực hiện
bằng những hình thức quy định trong luật với mục đích vụ lợi” [25 tr.69].
Theo Đinh Văn Quế thì “chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch một cách
trái phép tài sản thuộc sở hữu của người khác thành sở hữu của mình” [34,
tr.18]. Cịn Th.s Đặng Quang Dũng đưa ra khái niệm “Xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt là làm mất đi quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của
chủ sở hữu trên thực tế do có sự chuyển dịch bất hợp pháp tài sản thuộc
quyền sở hữu của họ” [12, tr.7].

9


Trong khi đó, theo Từ điển tiếng Việt, chiếm đoạt là “chiếm của người
khác làm của mình, bằng cách dựa vào vũ lực, quyền thế” [24].
Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là quá trình vừa làm cho chủ tài
sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài sản đó. Q trình này

xét về mặt pháp lí khơng làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình mà
chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu.
Qua nghiên cứu vấn đề xâm phạm sở hữu và dấu hiệu chiếm đoạt, chúng
tôi đưa ra khái niệm về xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt như sau:
“Xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt là hành vi dịch chuyển bất hợp pháp
tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ tài sản thành sở hữu của mình”.
Xét về mặt tội phạm, Bộ luật hình sự năm 1999 qui định tại Chương XIV
“Các tội xâm phạm sở hữu” có 13 tội được quy định từ Điều 133 đến Điều 145.
Căn cứ vào tính chất của mục đích phạm tội, khoa học luật hình sự
chia các tội xâm phạm sở hữu thành: (1) nhóm các tội có mục đích
tư lợi (bao gồm 10 tội từ Điều 133 đến Điều 142 BLHS) và (2)
nhóm các tội khơng có mục đích tư lợi (từ Điều 143 đến Điều 145
BLHS). Đối với nhóm các tội có mục đích tư lợi, dựa vào dấu hiệu
chiếm đoạt, chúng lại được chia nhỏ ra thành (a) nhóm có tính
chiếm đoạt (bao gồm 8 tội từ Điều 133 đến Điều 140) và (b) nhóm
khơng có tính chiếm đoạt (gồm các Điều 141, 142) [3].
Tùy thuộc vào đặc trưng của từng tội do BLHS quy định mà dấu hiệu
chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là khác
nhau. Nhưng chúng chỉ biểu hiện dưới 02 dấu hiệu nhất định hoặc là mục đích
chiếm đoạt hoặc là hành vi chiếm đoạt:
Thứ nhất, về mục đích chiếm đoạt: là yếu tố bắt buộc trong cấu thành
các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản và
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, biểu hiện mục đích chiếm

10


đoạt của các tội này không phải đều giống nhau. Tùy thuộc vào từng tội cụ
thể mà mục đích phạm tội xuất hiện trước khi người phạm tội thực hiện hành
vi phạm tội, trong khi thực hiện hành vi phạm tội hoặc sau khi thực hiện

hành vi phạm tội.
Thứ hai, về hành vi chiếm đoạt: là dấu hiệu bắt buộc đối với các tội từ
Điều 136 đến Điều 139 BLHS. Tuy nhiên, hành vi chiếm đoạt, xét về mặt
khách quan là hành vi làm cho chủ tài sản “mất hẳn khả năng” thực hiện
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm
đoạt “có thể thực hiện được” việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó.
Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là quá trình vừa làm cho chủ tài sản
mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài sản đó. Q trình này xét về
mặt pháp lí không làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình mà chỉ
làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu. Hành
vi chiếm đoạt với nội dung là quá trình như vậy được thể hiện ở những dạng
hành vi cụ thể khác nhau, tuỳ thuộc vào mối quan hệ cụ thể giữa người chiếm
đoạt và tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức chiếm đoạt cụ thể.
Để phân biệt tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt với vi
phạm pháp luật khác, tiêu chí đầu tiên là xác định có hay khơng dấu hiệu
chiếm đoạt và định lượng giá trị tài sản chiếm đoạt. Vấn đề này, BLHS năm
1999 đã cơ bản đáp ứng được so với BLHS 1985.
1.1.1.2. Khái niệm tội cướp tài sản
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự (tức
là hành vi bị pháp luật hình sự cấm), do người có năng lực trách nhiệm hình
sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi (cố ý hoặc
vơ ý)” [7, tr .297).
Như đã phân tích ở trên thì tội cướp tài sản thuộc nhóm tội xâm phạm
sở hữu có tính chiếm đoạt. Nhưng hiện nay có nhiều quan điểm về khái niệm
tội cướp tài sản trong khoa học pháp lý hình sự. Theo Th.s Trần Đình Hải thì:

11


Tội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay

tức khắc hoặc các hành vi khác làm cho người bị tấn cơng lâm vào
tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản do
người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quan hệ nhân thân
thông qua việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe người bị hại và
xâm hại đến quyền sở hữu tài sản [18, tr.16].
Th.s Đinh Văn Quế có quan điểm “Cướp tài sản là dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn cơng
lâm vào tình trạng khơng thể tự vệ được nhằm chiếm đoạt tài sản” [34, tr.30].
Tác giả Nông Thị Liên Hương đưa ra quan điểm của mình “Tội cướp tài sản
là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm
cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng chống cự được nhằm chiếm
đoạt tài sản” [21, tr.8].
Còn theo pháp luật hình sự Liên bang Nga thì “Tội cướp là dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe để tấn cơng
nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác” [41], cịn trong luật hình sự Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa quy định “Người nào dùng vũ lực, cưỡng ép hoặc
thủ đoạn khác để cướp tài sản cơng hoặc tư…” [16].
Nhìn chung tất cả các quan điểm trên và pháp luật hình sự một số nước
trên thế giới thì có thể thấy một số dấu hiệu chung của tội cướp tài sản, đó là:
hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc thủ đoạn khác
làm cho người bị hại rơi vào tình trạng khơng chống cự được và mục đích là
chiếm đoạt tài sản.
Như vậy, trên cơ sở tổng kết các quan điểm khác nhau trong khoa học
pháp lý và căn cứ vào các quy định của BLHS hiện hành, chúng tôi đưa ra
khái niệm về tội cướp tài sản như sau:

12



“Cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay lập tức
hoặc hành vi khác của người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý làm cho người bị tấn cơng lâm
vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản”.
1.1.2. Đặc điểm tội cướp tài sản
1.1.2.1. Đặc điểm chung của các tội xâm phạm sở hữu, xâm phạm sở
hữu có tính chiếm đoạt
Thứ nhất, các tội xâm phạm sở hữu, xâm phạm sở hữu có tính chiếm
đoạt là những hành vi nguy hiểm cho xã hội và được quy định trong BLHS.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại đáng kể đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Việc
đánh giá hành vi nào là nguy hiểm cho xã hội phụ thuộc vào tình hình phát
triển của xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Việc nhà làm luật
quy định chỉ những hành vi nguy hiểm xã hội được quy định trong BLHS mới
được coi là tội phạm là nhằm gạt bỏ việc áp dụng nguyên tắc tương tự. Chỉ có
BLHS mới quy định tội phạm, ngồi ra khơng có một văn bản pháp luật nào
khác quy định tội phạm.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay đa số các nhà hình sự
học coi tội phạm là hành vi có 4 dấu hiệu:
(1) tính nguy hiểm cho xã hội; (2) tính trái pháp luật hình sự; (3) tính
chất lỗi; và (4) tính phải chịu hình phạt. Tuy nhiên PGS. TS Trần
Văn Độ khơng coi tính phải chịu hình phạt là một đặc điểm mà đặc
điểm (4) là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện. Cịn PGS. TS Kiều Đình Thụ thì ngồi 4 dấu hiệu truyền thống
trên cịn thêm dấu hiệu (5) tính có năng lực TNHS [7, tr.296].
Đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, thì hành vi
khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức tùy từng tội phạm cụ thể như hành vi

13



dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc; đe dọa sẽ dùng vũ lực, hành vi
gian dối,… nhưng đều có cùng tính chất là gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại cho quan hệ sở hữu được pháp luật hình sự bảo vệ, xâm phạm đến quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ sở hữu hoặc quyền chiếm hữu, sử dụng
của người quản lý tài sản làm mất đi các quyền năng trên thực tế và tính chất
dịch chuyển tài sản từ chủ sở hữu, người quản lý tài sản thành tài sản của người
phạm tội hay chính là dấu hiệu chiếm đoạt tài sản của nhóm tội này.
Thứ hai, chủ thể của tội phạm nói chung và các tội phạm xâm phạm sở
hữu nói riêng là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có năng lực
TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.
Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự hiện hành chỉ có thể là con
người (thể nhân) cụ thể chứ khơng có pháp nhân. Hiện nay vấn đề này cịn có
nhiều quan điểm khác nhau. TS Ngơ Huy Cương cho rằng:
Pháp nhân cũng có thể có ý chí phạm tội và có thể thực hiện
các hành vi vật chất của tội phạm. Công ty trách nhiệm hữu hạn hay
Công ty Cổ phần thực chất là khế ước mà theo đó các thành viên
hay các cổ đơng cùng nhau góp vốn, cùng nhau kinh doanh, cùng
hưởng lãi và chịu lỗ,…Như vậy khi Cơng ty vi phạm pháp luật hình
sự cần phải truy cứu TNHS Công ty để thu lại khoản lợi bất hợp
pháp và trừng trị pháp nhân [11, tr.569 – 571].
PGS.TS. Luật sư Phạm Hồng Hải cũng cho rằng:
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ngày càng phát
triển, có khơng ít trường hợp cả một pháp nhân thực hiện một hành
vi phạm tội (Phương tiện truyền thông đã thông tin nhiều về hành vi
vi phạm của Công ty VEDAN ở tỉnh Đồng Nai, Công ty MIWON ở
tỉnh Phú Thọ, một số UBND tự ý cấp đất, bán đất sai quy định,…)
nên đã đến lúc cần coi pháp nhân cũng là chủ thể của hành vi phạm
tội và cùng phải chịu TNHS [17, tr.28].


14


Thứ ba, người thực hiện hành vi xâm phạm sở hữu phải là người có
lỗi. Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội và hậu quả của hành vi đó dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý. Một người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nếu khơng có lỗi thì khơng bị coi
là tội phạm. BLHS hiện hành ghi nhận những trường hợp không phải là tội
phạm như: Sự kiện bất ngờ (Điều 11); Phịng vệ chính đáng (Điều 15);
Tình thế cấp thiết (Điều 16). Theo TSKH. PGS Lê Cảm gọi đó là những
trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi. Ngồi ra cịn
có trường hợp: “Gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự nhưng chưa đủ tuổi
chịu TNHS và Gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự trong tình trạng khơng
có năng lực TNHS” [7, tr.498-518].
Đối với người thực hiện hành vi xâm phạm sở hữu thì lỗi có thể là vô ý
hoặc cố ý. Nhưng đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt thì lỗi
của người phạm tội luôn là lỗi cố ý, người phạm tội cố ý thực hiện hành vi
phạm tội và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Trên thực tế, người phạm tội có
thể đã lấy được tài sản hoặc chưa chiếm đoạt được tài sản là ngoài ý muốn
chủ quan của người phạm tội.
Thứ tư, khách thể của tội phạm nói chung là các quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe dọa
thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định.
Theo nghiên cứu quy định của BLHS và thực tiễn áp dụng, thì các tội
từ Điều 133 đến Điều 136 BLHS có khách thể là quan hệ sở hữu và quyền
nhân thân; đối với các tội từ Điều 137 đến Điều 145 BLHS có khách thể chỉ là
quan hệ sở hữu. Trong quan hệ sở hữu thì tài sản là đối tượng của tội phạm,
mục đích của người phạm tội là có được tài sản. Theo Điều 163 BLDS năm
2005 thì tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Tuy
nhiên có những tài sản khơng phải là đối tượng của nhóm tội phạm này, đó là:


15


(1) Các quyền tài sản gắn liền với quyền nhân thân. Ví dụ như Quyền tác giả
(Điều 170a BLHS), Quyền sở hữu Công nghiệp (Điều 171 BLHS); (2) Những
tài sản khơng có chủ sở hữu như tài sản vơ chủ, tài sản bị bỏ rơi, thất lạc,..; (3)
Những giấy tờ có giá trị đối với chủ sở hữu nhưng khơng thể trực tiếp chuyển
thành tiền được như sổ tiết kiệm, hợp đồng, di chúc,…; (4) Những tài sản có
tính chất và công dụng đặc biệt hay hàng cấm như vũ khí quân dụng, ma túy,
máy bay, tàu thủy,…và (5) Những tài sản chôn cùng người chết.
b) Đặc điểm tội cướp tài sản
Tội cướp tài sản nằm trong Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu”
của BLHS và căn cứ vào tính chất chiếm đoạt thì cướp tài sản thuộc nhóm tội
“Xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt” [34]. Vì vậy ngồi những đặc
điểm chung của nhóm tội trên thì tội cướp tài sản cịn có những đặc trưng cơ
bản sau:
Thứ nhất, cướp tài sản là tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt,
thể hiện qua một số dấu hiệu đặc trưng:
Về khách thể của tội cướp tài sản là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân
thân. Về đối tượng tác động của tội cướp tài sản là tài sản thuộc sở hữu của
người khác (không phải là của người phạm tội) và chúng còn nằm trong sự
chiếm hữu, quản lí của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.
Về hành vi khách quan thuộc mặt khách quan của tội cướp tài sản là
hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác
làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được nhằm
chiếm đoạt tài sản.
Về dấu hiệu lỗi, mục đích thuộc mặt chủ quan của tội cướp tài sản được
thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Tức người phạm tội biết hành vi của mình
nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện để đạt được mục đích

là chiếm đoạt tài sản.

16


Thứ hai, hậu quả gây ra của tội cướp tài sản ngồi thiệt hại về tài sản
cịn xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người. Vì để xâm phạm quan
hệ sở hữu thì người phạm tội phải có hành vi xâm hại đến quan hệ nhân thân.
Thứ ba, căn cứ vào cấu trúc của mặt khách quan của tội phạm thì tội
cướp tài sản có CTTP hình thức, chỉ cần người phạm tội thực hiện một trong
các hành vi phạm tội “dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, hành vi
khác và đã làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể chống cự
được nhằm chiếm đoạt tài sản” xem như tội phạm đã hoàn thành. Việc người
phạm tội chiếm đoạt được tài sản hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc và
cũng không phải là dấu hiệu để xác định thời điểm hoàn thành của tội này.
Thứ tư, người phạm tội cướp tài sản có ý thức chiếm đoạt tài sản không
phải từ hành vi khách quan mà thể hiện qua mục đích phạm tội. Vì vậy, dấu
hiệu mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội này. Đây
là cơ sở phân biệt tội này với các tội khác do BLHS quy định có hành vi
khách quan tương tự như hành vi phạm tội của tội này.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển tội cƣớp tài sản trong pháp
luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
1.2.1. Tội cướp tài sản trong pháp luật hình sự giai đoạn 1945 – 1985
Sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời, đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta. Ngay từ khi ra đời, đất nước
đứng trước mn vàn khó khăn, thử thách vừa phải bảo vệ thành quả cách
mạng, bảo vệ chính quyền non trẻ đồng thời đối mặt với cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật hình sự đấu tranh chống các loại tội phạm trong đó có

tội phạm cướp tài sản như: Thông tư số 60 - 28/6/1947 của Liên Bộ Tư pháp Quốc phòng quy định “Những hành vi cướp bóc, nhũng nhiễu dân chúng ở

17


những địa điểm đang tác chiến sẽ bị đưa ra Tịa án binh tại mặt trận để xét xử
và có thể bị xử phạt tử hình” [53]. Sắc lệnh số 12/SL ngày 12/3/1949 quy
định việc trừng phạt “các tội trộm cắp, cướp vật dụng của nhà binh ở những
nơi có chiến sự sẽ bị phạt đến tử hình” [53].
Trong thời kỳ từ năm 1945 đến 1954, tội cướp tài sản vẫn được điều
chỉnh trong quy phạm pháp luật hình sự do Nhà nước ban hành nhưng chủ
yếu là các sắc lệnh, thơng tư. Tuy nhiên điều luật cịn chung chung, hành vi
phạm tội mang tính chất quy định đơn giản, khơng được mơ tả cụ thể. Ngun
nhân của tình trạng trên là do trình độ lập pháp cịn yếu và đất nước đang
chiến tranh chống thực dân Pháp nên việc ban hành các văn bản pháp luật chủ
yếu đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản của nhà
nước và công dân.
Ngay sau khi giải phóng Miền Bắc, Thủ tướng chính phủ đã ban hành
Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 hướng dẫn một số Tòa án trừng trị một
số tội phạm. Cụ thể “Cướp đường hay trộm có tổ chức, có bạo lực, có dùng
vũ khí để dọa nạt thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 10 năm hoặc cướp mà giết
người có thể bị phạt tử hình” [53, tr.9].
So với văn bản pháp luật hình sự trước đó thì Thơng tư 442 có nhiều ưu
điểm hơn, quy định rõ hơn về hành vi cướp tài sản. Tuy nhiên quy định như
vậy vẫn chung chung như: cướp đường là cướp ở đâu? Tài sản bị cướp là tài
sản của nhà nước hay của công dân? Nếu quy định trong cùng một điều luật
như trên thì người ta sẽ hiểu rằng tội cướp hay trộm cắp có tổ chức có tính
chất, mức độ nguy hiểm ngang nhau.
Hiến pháp năm 1959 đã phân định rõ ràng tài sản XHCN và tài sản
công dân quy định tại các Điều 11, 12, 13, 19, theo đó tài sản XHCN bao gồm

những tài sản thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể của Hợp tác xã, cịn tài
sản của cơng dân thuộc sở hữu của người lao động riêng lẻ và tài sản thuộc

18


hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc. Chính vì thế để đáp ứng u cầu đấu
tranh chống tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội phạm cướp tài sản
nói riêng, Ủy Ban thường vụ Quốc hội Việt Nam dân chủ cộng hịa ngày
21/10/1970 đã thơng qua hai Pháp lệnh:
“Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN” trong đó Điều 4
quy định tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa:
1. Kẻ nào dùng bạo lực để chiếm đoạt tài sản xã hội chủ
nghĩa thì bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Có tổ chức;
c) Dùng vũ khí hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác,
d) Gây thương tích nặng hoặc làm chết người;
đ) Cướp một số lớn tài sản hoặc gây hậu quả nghiêm trọng
khác; thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị
xử tử hình [55].
Và “Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm tài sản công dân” quy
định tại Điều 3 tội cướp tài sản riêng của công dân:
1. Kẻ nào dùng bạo lực để chiếm đoạt tài sản riêng của cơng
dân thì bị phạt tù từ 2 năm đến 12 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Có tính chất chun nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Có tổ chức;
c) Dùng vũ khí hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác;

d) Gây thương tích nặng hoặc làm chết người;
đ) Cướp một số lớn tài sản hoặc gây hậu quả nghiêm trọng
khác; thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử
tử hình [54].

19


×