Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật quốc tế pháp luật một số nước trên thế giới và pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DIỆP THỊ THANH XUÂN

VẤN ĐỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG
THEO PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DIỆP THỊ THANH XUÂN

VẤN ĐỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG
THEO PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số

: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bá Diến


HÀ NỘI – 2009


Mơc lơc
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

Ch-¬ng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÃN HIỆU VÀ NHÃN

7

HIỆU NỔI TIẾNG

1.1.

Khái quát lịch sử phát triển của nhãn hiệu hàng hóa

7

1.2.

Khái niệm, chức năng của nhãn hiệu, nhãn hiệu nổi tiếng

13


1.2.1.

Khái niệm, chức năng của nhãn hiệu

13

1.2.2.

Khái niệm, đặc trưng của nhãn hiệu nổi tiếng

16

1.3.

Vai trò của nhãn hiệu, nhãn hiệu nổi tiếng

19

1.4.

Cơ sở pháp lý của việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng

20

Chương 2:

23

VẤN ĐỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG THEO

PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT MỘT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

2.1.

Pháp luật quốc tế

23

2.1.1.

Công ước Paris

23

2.1.2.

Hiệp định Trips

27

2.1.3.

Khuyến nghị chung liên quan đến các quy định về bảo hộ
nhãn hiệu nổi tiếng

28

2.2.


Pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng một số nước trên
thế giới

29

2.2.1.

Pháp luật Nhật Bản

29


2.2.1.1. Luật nhãn hiệu Nhật Bản

30

2.2.1.2. Phân biệt nhãn hiệu nổi tiếng - nhãn hiệu rất nổi tiếng

36

2.2.1.3. Các tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng ở Nhật Bản

36

2.2.1.4. Kết quả của cuộc điều tra về danh mục nhãn hiệu nổi tiếng
ở Nhật Bản

39

Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Liên minh Châu Âu


41

2.2.2.

2.2.2.1. Quy chế 40/94 EC của Hội đồng Châu Âu năm 1993

41

2.2.2.2. Văn bản hướng dẫn 104/89/EEC

46

Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Hoa Kỳ

49

2.2.3.1. Văn bản pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Hoa Kỳ

49

2.2.3.2. Khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng

51

2.2.3.3. Tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng

52

2.2.3.4. Thực tế về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng Hoa Kỳ


54

2.2.3.

Chương 3:

VẤN ĐỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG THEO

60

PHÁP LUẬT VIỆT NAM

3.1.

Quá trình bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam

60

3.2.

Căn cứ phát sinh

62

3.3.

Tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng

65


3.4.

Phạm vi bảo hộ

68

3.4.1.

Bảo hộ chống lại việc đăng ký

68

3.4.2.

Bảo hộ chống lại việc sử dụng bất hợp pháp

71

3.5.

Quyền lợi của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng

73

3.6.

Thời hạn bảo hộ

76


3.7.

Vấn đề quyền ưu tiên

78

KẾT LUẬN

79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

83


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

NHHH : nhãn hiệu hàng hóa
NHNT : Nhãn hiệu nổi tiếng
SHTT : Sở hữu trí tuệ
TRIPS : Các khía cạnh của thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ
WIPO : Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới
WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế thị trường với quá trình cạnh tranh khốc liệt giữa

các loại hàng hóa và dịch vụ cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế sâu rộng của chúng ta hiện nay, vai trò của nhãn hiệu - một trong những đối
tượng truyền thống và chủ yếu của sở hữu công nghiệp ngày càng trở nên
quan trọng.
Với chức năng thoạt đầu là dùng để giúp người tiêu dùng phân biệt
hàng hóa cùng loại của các nhà sản xuất khác nhau, qua quá trình sử dụng và
phát triển, nhãn hiệu đã trở thành một công cụ hữu hiệu cho một doanh
nghiệp nhằm tiếp cận, phát triển và bảo vệ thị phần hàng hóa và dịch vụ của
mình. Vì vậy, từ hàng trăm năm về trước luật bảo hộ nhãn hiệu đã ra đời tại
một số quốc gia phát triển lúc đó.
Những nguyên tắc cơ bản của các luật nhãn hiệu ban đầu tỏ ra hợp lý
và có sức sống đến tận ngày nay. Đó là việc nhãn hiệu được ưu tiên đăng ký
bảo hộ cho người đăng ký trước (hoặc sử dụng trước), đó là việc nhãn hiệu
được bảo hộ chống lại các hành vi của người khác sử dụng một nhãn hiệu
trùng hoặc tương tự cho các sản phẩm hàng hóa trùng hoặc tương tự với nhãn
hiệu và sản phẩm của chủ nhãn hiệu.
Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường, xuất hiện những
nhãn hiệu nổi trội hơn vô vàn những nhãn hiệu khác nhờ sự sử dụng lâu dài
trên thị trường, với chất lượng, tính chất đặc trưng, cũng như những uy tín mà
hàng hóa mang lại. Những nhãn hiệu như vậy là sự kết tinh nỗ lực kinh doanh
của một doanh nghiệp về cả vật chất lẫn trí tuệ, thường có giá trị tài sản rất
lớn. Tất nhiên những nhãn hiệu như vậy cũng luôn trở thành mục tiêu cho sự
làm giả, sao chép, lợi dụng uy tín của các đối thủ cạnh tranh cũng như những

1


kẻ làm ăn bất chính. Nhu cầu địi hỏi phải tạo lập một chế độ đặc biệt hơn cho
loại nhãn hiệu này - các nhãn hiệu nổi tiếng (Well-known marks).
Việc áp dụng quy định về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng (NHNT) tỏ ra

rất hiệu quả trong việc bảo hộ nhãn hiệu được nhiều người ưa chuộng cũng
như bảo hộ quyền lợi của người tiêu dùng. Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều khó
khăn và sự khơng đồng nhất của việc bảo hộ NHNT trong phạm vi Việt Nam
và trên bình diện quốc tế. Đó là các thủ tục cụ thể cơng nhận NHNT, việc
thống nhất các tiêu chí cơng nhận NHNT và việc hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực này.
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này là rất quan trọng nhằm góp
phần hỗ trợ các cơ quan chức năng hoàn thiện cơ chế bảo hộ NHNT, đồng
thời đảm bảo một môi trường canh tranh lành mạnh cho phát triển kinh tế và
xuất nhập khẩu, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của những người có
quyền. Từ đó, các doanh nghiệp cũng biết được lợi ích và phương cách xây
dựng nhãn hiệu của mình trở nên nổi tiếng cũng như bảo hộ hữu hiệu chúng
và mặt khác tránh được các vi phạm các nhãn hiệu được coi là nổi tiếng của
người khác trong quá trình kinh doanh trong nội địa cũng như trên thị trường
quốc tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ngồi có nhiều cơng trình nghiên cứu về nhãn hiệu hàng hóa như:
Quyền sở hữu công nghiệp của các giáo sư Albert Chavane và Jean Jacques
Burst - Cộng hòa Pháp, 1993; Nhãn hiệu hàng hóa - sự sáng tạo, giá trị và sự bảo
hộ của Francis Le FEBVRE xuất bản tại Cộng hòa Pháp, 1994; Nhãn hiệu
hàng hóa của Andrea Semprini giáo sư Đại học Montpellier III - Cộng hòa Pháp,
1995; Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của Tiến sĩ Gordian N. Hasselblatt Cộng hòa Liên bang Đức, Nhà xuất bản C.H. Beck Mỹnchen, 2001.
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài nêu trên
chủ yếu đề cập đến vấn đề luật nhãn hiệu hàng hóa của các nước ngồi đó.

2


Ở nước ta, một số nhà khoa học, luật gia đã nghiên cứu về nhãn hiệu hàng
hóa. Đó là những cơng trình nghiên cứu của tác giả như: TS. Đinh Ngọc Hiện

chủ nhiệm đề tài khoa học cấp Bộ (Tòa án nhân dân tối cao năm 1999): Nâng
cao vai trò và năng lực của Tòa án trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở
Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn; PGS.TS Đoàn Năng: Ý nghĩa
của Nghị định số 12/1999/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp và vấn đề tổ chức thực hiện, trong Hội thảo Xử lý xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp và thực hiện Nghị định 12/CP/1999 của Chính phủ tại
Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999; TS. Đinh Ngọc Hiện: Vai trò của Tòa án
nhân dân trong việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam, Hội thảo tại
Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999; Trần Việt Hùng: Tình hình đăng ký sở hữu
cơng nghiệp và thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam,
Hội thảo tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999; Trần Việt Hùng: Tầm quan
trọng của bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong kỷ ngun hịa nhập kinh tế nhằm
tăng cường tính cạnh tranh tồn cầu, Hội thảo Bảo hộ quốc tế nhãn hiệu hàng
hóa tại Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2001; PGS.TS Đồn Năng: Về thực trạng
và phương hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/2000; PGS.TS
Lê Hồng Hạnh chủ nhiệm đề tài khoa học cấp Bộ (Bộ Tư pháp năm 2000): Pháp
luật về sở hữu trí tuệ - Thực trạng và hướng phát triển trong những năm đầu thế
kỷ XXI; PGS.TS. Đinh Văn Thanh, Luật gia Đinh Thị Hằng: Nhãn hiệu hàng
hóa trong pháp luật dân sự, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2004;
Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập II, Nhà xuất
bản Công an nhân dân, Hà Nội, 1997; PGS.TS Lê Hồng Hạnh: Thương hiệu hay
nhãn hiệu hàng hóa, Tạp chí Luật học, số 6/2003;...
Nếu như vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa (NHHH) nói chung đã
được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau thì vấn đề bảo hộ NHHH nổi
tiếng vẫn còn là một đề tài khá mới mẻ. Một số bài báo, tạp chí chuyên ngành
cũng đã khai thác vấn đề này ở các khía cạnh khác nhau, tuy nhiên, chưa có

3



cơng trình nghiên cứu nào đề cập riêng một cách tương đối đồng bộ và có hệ
thống. Đặc biệt, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh vấn đề này
cũng đòi hỏi cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách tồn diện, sâu sắc
hơn. Vì vậy, luận văn sẽ tiếp cận, nghiên cứu tương đối có hệ thống về mặt lý
luận và thực tiễn của vấn đề bảo hộ NHNT, sự khác biệt giữa bảo hộ NHNT
và NHHH thơng thường cũng như vai trị cần thiết của việc bảo hộ NHNT
trong quan hệ thương mại quốc tế.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Ngày nay, khái niệm NHNT và các tiêu chí để xác định thế nào là
NHNT trong pháp luật quốc tế vẫn chưa rõ ràng và lại được quy định khác
nhau ở các quốc gia. Trong khi đó, chúng ta biết hiện nay nhu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam ra thế giới là rất lớn.
Vì vậy, mục đích nghiên cứu của luận văn là thơng qua việc tìm hiểu
pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước tiêu biểu trên thế giới về bảo hộ
NHNT, luận văn sẽ góp phần phục vụ cho cơng tác thực tiễn của các luật sư
tư vấn và những người hoạt động trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ (SHTT). Đồng
thời giúp thương nhân Việt Nam bảo vệ quyền của mình đối với NHNT trên
thị trường thế giới.
Với mục đích trên, tác giả luận văn đặt ra cho mình các nhiệm vụ chủ
yếu sau đây:
- Nghiên cứu nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng là một đối tượng sở hữu
cơng nghiệp trong mối quan hệ với bảo hộ sở hữu cơng nghiệp nói chung và
sự cần thiết phải bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp đối với nhãn hiệu hàng
hóa nói riêng trong thời đại hiện nay; làm rõ tính đặc thù của quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa và xây dựng các khái niệm khoa học
về nhãn hiệu, nhãn hiệu nổi tiếng, về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu nổi tiếng, hành vi sản xuất hàng giả và hàng giả...;

4



- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng ở Việt Nam,
đánh giá hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hiện hành; chỉ ra những hạn chế
cần khắc phục trong việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng trong Luật SHTT;
- Nghiên cứu thực trạng thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng thơng qua hoạt động của các cơ quan quản
lý nhà nước và của Tòa án nhân dân, từ đó đề xuất các biện pháp phối hợp
đồng bộ giữa các cơ quan nhằm bảo hộ có hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu hàng hóa;
- Nghiên cứu pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngồi về bảo hộ
quyền sở hữu cơng nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng, bộ máy và
biện pháp thực thi bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng của các nước, so sánh
và tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài.
- Nghiên cứu các biện pháp nâng cao chất lượng thực thi bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn hướng tới làm rõ các vấn đề về thủ tục xác lập quyền như:
định nghĩa NHNT, các tiêu chí xác định NHNT. Đồng thời làm rõ các quy
định liên quan đến nội dung quyền của các chủ sở hữu NHNT như: các quy
định về việc xác định hành vi xâm phạm quyền, các chứng cứ bảo vệ quyền
của chủ sở hữu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tổng hợp để làm rõ định nghĩa, khái niệm và
các tiêu chí xác định NHNT
- Phương pháp so sánh đối chiếu từ đó rút ra các điểm tương đồng và
các điểm khác biệt giữa pháp luật các nước


5


- Phương pháp trừu tượng khoa học nhằm mục đích khái quát các hiện
tượng phổ biến.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tỏ về phương diện lý
luận trong khoa học chuyên ngành pháp luật quốc tế khái niệm nhãn hiệu
hàng hóa, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Luận văn có ý nghĩa thực tiễn góp phần hồn thiện cơ chế bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu hàng hóa
nổi tiếng, phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Những giải pháp được nêu trong luận văn có tác dụng thiết thực đối
với các doanh nghiệp trong việc xây dựng chương trình bảo hộ quyền sở hữu
cơng nghiệp của mình. Đối với ngành Tịa án nhân dân, những kiến nghị có
liên quan đến hoạt động của Tòa án nhân dân sẽ góp phần quan trọng vào việc
nâng cao chất lượng hoạt động của Tòa án thực thi bảo hộ quyền sở hữu cơng
nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy, xây dựng và hướng dẫn áp dụng pháp luật ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văngồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về nhãn hiệu và nhãn hiệu nổi tiếng.
Chương 2: Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật quốc tế
và pháp luật một số nước trên thế giới.
Chương 3: Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Việt Nam.


6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÃN HIỆU
VÀ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG

1.1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA NHÃN HIỆU HÀNG HĨA

Nhãn hiệu hàng hóa có lịch sử từ rất lâu đời trong lịch sử phát triển
của xã hội lồi người. Nhãn hiệu hàng hóa có mối quan hệ chặt chẽ với sản
xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa trên thị trường. Trình độ của sản xuất
hàng hóa có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển của NHHH.
Từ thời xa xưa cách đây hàng ngàn năm con người đã biết sử dụng các
dấu hiệu tuy còn rất giản đơn để đánh dấu các sản phẩm do mình tạo ra. Điều
này được chứng minh khi các nhà khảo cổ học tiến hành khai quật ở nhiều nơi
trên thế giới và đã phát hiện thấy trên các hiện vật thu được là các bình gốm
sứ có rất nhiều dấu hiệu của các nhà sản xuất (chủ yếu là các chủ sở hữu các
xưởng sản xuất thủ công) đánh dấu sản phẩm của họ. Thông qua phương pháp
khoa học, các nhà khoa học đã xác định nhãn hiệu hàng hóa xuất hiện từ thời
trung cổ. Chỉ riêng trong lĩnh vực sản xuất đồ gốm, các nhà khảo cổ học đã
xác định được 6000 nhãn hiệu của các loại đồ gốm thời La mã cổ đại (Sisfilla)
đã được sử dụng để nhận biết các loại đồ gốm được sản xuất từ những xưởng
thủ công nhất định.
Tuy nhiên, các nhãn hiệu này thơng thường mới chỉ là các vết khắc
của các hình vẽ nhỏ hoặc các dạng hình học. Đây là các dấu hiệu đơn giản.
Mặc dù còn rất đơn giản nhưng các dấu hiệu đó được coi là "tổ tiên" của nhãn
hiệu hàng hóa ngày nay. Các dấu hiệu được sử dụng, nhiều trường hợp là các
chữ ký của các chủ sở hữu trên các sản phẩm, là các dấu hiệu có chức năng

xác định xưởng sản xuất ra loại đồ gốm đó (xác định nguồn gốc sản phẩm) và
phân biệt sản phẩm của xưởng này với sản phẩm của xưởng khác.

7


Trong thời kỳ này chưa có tự do cạnh tranh thương mại, nhưng các
dấu hiệu đó trở thành cơng cụ nhằm loại bỏ sự lẫn lộn, nhầm lẫn sản phẩm
của các chủ sở hữu khác nhau trong quá trình vận chuyển, xác định sản phẩm
thuộc về chủ sở hữu hợp pháp. Các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ trong suốt thời
kỳ cổ đại nhãn hiệu dưới hình thức tồn tại đơn giản thực hiện chức năng chủ
yếu là chỉ rõ nguồn gốc của sản phẩm và cho phép xác định rõ chủ sở hữu hay
người sản xuất ra sản phẩm đó.
Cũng từ hình thức tồn tại đơn giản, sơ khai của nhãn hiệu người ta đã
tìm thấy những đặc tính quan trọng của nhãn hiệu. Theo ý kiến của nhà
nghiên cứu người Pháp ANDREA SEMPRINI, trong tác phẩm: "Que Sais je?
LA MARQUE" (Tơi hiểu gì về nhãn hiệu), có bốn đặc tính quan trọng của
nhãn hiệu, như sau:
Thứ nhất, khi nhãn hiệu được gắn lên sản phẩm thì người ta đã đánh
dấu sự nhận dạng, nhận biết sản phẩm đó thông qua nhãn hiệu. Lý do của
hành động này rất đơn giản, vì trong q trình vận chuyển có sự lẫn lộn các
sản phẩm có nguồn gốc khác nhau, của nhiều chủ sở hữu khác nhau mà các
sản phẩm đó lại có hình thức, kiểu dáng giống nhau, kỹ thuật sản xuất và chất
liệu giống nhau. Để nhận biết và xác định rõ sản phẩm được vận chuyển đến
tay ai cần phải xác định được nguồn gốc của lô sản phẩm đó.
Thứ hai, các dấu hiệu trên sản phẩm đánh dấu sự chiếm hữu sản phẩm
đó. Thơng thường sản phẩm được làm ra tại các xưởng thủ công, xuất xưởng
và được phân phối đến địa chỉ cuối cùng là người mua sản phẩm đó. Tuy
nhiên trong q trình lưu thơng, trao đổi xuất hiện người môi giới. Họ là
những người mua sản phẩm của người sản xuất và bán lại cho người tiêu

dùng. Khi sản phẩm ở trong tay họ thì họ có thể thêm những dấu hiệu nhận
biết riêng vào những dấu hiệu đã tồn tại trước đó. Sự tồn tại nhiều dấu hiệu
khác nhau trên cùng một sản phẩm trong các giai đoạn khác nhau của sự tồn
tại một sản phẩm thể hiện sự chiếm hữu sản phẩm đó.

8


Thứ ba, các dấu hiệu trên sản phẩm có mục đích phân biệt sản phẩm
của xưởng sản xuất này với xưởng sản xuất khác. Đồng thời cũng phục vụ
cho việc dễ dàng nhận biết nguồn gốc của sản phẩm.
Thứ tư, các dấu hiệu trên sản phẩm mang lại cho sản phẩm sự ghi
nhận về chất lượng.
Qua các nhãn hiệu gắn trên các sản phẩm khác nhau người ta dễ nhận
biết được sản phẩm của nhà sản xuất nào có chất lượng còn sản phẩm của nhà
sản xuất nào kém chất lượng cũng như xác định được uy tín của nhà sản xuất.
ở châu Âu trong thời trung cổ sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tác động
đến sự phát triển của các hình thức tổ chức sản xuất. Các nghiệp đoàn ra đời
và phát triển mạnh.
Bên cạnh các nhãn hiệu cá nhân của các thợ thủ công đã xuất hiện các
nhãn hiệu của các nghiệp đồn dưới hình thức nhãn hiệu tập thể. Các nhãn
hiệu tập thể là nhãn hiệu của các tổ chức nghề nghiệp mà các thành viên của
các nghiệp đoàn phải sử dụng nhãn hiệu đó. Các nhãn hiệu này được bảo vệ
trước các hành vi chiếm đoạt của người khác. Ngay từ thế kỷ XIII, luật pháp
của các vương quốc đã xác lập các hình phạt nghiêm khắc đối với hành vi
chiếm đoạt các nhãn hiệu.
Chức năng chủ yếu của nhãn hiệu vẫn là phương tiện để kiểm tra việc
lưu thông thương mại của các sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ từ các xưởng
sản xuất của các thợ cả, thành viên của các nghiệp đoàn. Chức năng chinh
phục khách hàng chưa được đề cao trong thời kỳ này. Các nhãn hiệu tập thể là

căn cứ để chứng minh các thợ thủ công thành viên của nghiệp đồn này
khơng xâm phạm đến lĩnh vực thuộc nghiệp đồn khác quản lý. Đồng thời nó
bảo đảm cho công chúng biết được chất lượng của sản phẩm, nâng cao sự tin
tưởng của họ vào người sản xuất. Các nhãn hiệu đã chứa đựng trong nó tính
chất của dấu hiệu phân biệt mà một nhãn hiệu hiện đại cần phải có.

9


Ở Pháp trong giai đoạn cách mạng tư sản nhiều luật lệ đã được ban
hành có ảnh hưởng tới sự phát triển của nhãn hiệu. Pháp luật cách mạng đã
tuyên bố tự do thương mại và tự do công nghiệp thông qua luật Le Chapelier
các ngày 2-17 tháng ba năm 1791. Luật này đã xóa bỏ tất cả các nghiệp đoàn
của các phường hội và thợ cả. Cùng bị chi phối bởi Luật đó tất cả các dấu
hiệu phân biệt có liên quan đến các nghiệp đồn và đặc biệt là các nhãn hiệu
bắt buộc đã biến mất. Tuy nhiên nguyên tắc tự do thương mại và công nghiệp
lại liên quan đến sự thừa nhận tính hợp pháp của các nhãn hiệu cá nhân khơng
có tính chất bắt buộc.
Việc ra đời của Luật Le Chapelier năm 1791đã dẫn đến hậu quả là có
khoảng trống về luật pháp trừng phạt các hành vi lạm dụng, chiếm đoạt nhãn
hiệu của người khác. Khoảng trống này đã tồn tại trong một thời gian dài và
thực sự ảnh hưởng tới lợi ích của các nhà sản xuất và các thương nhân. Để
bảo vệ lợi ích của mình họ đã địi hỏi Chính phủ hiện thời tái thiết lập lại trật
tự trong lĩnh vực sử dụng nhãn hiệu thông qua việc ban hành các quy định
chung có giá trị lâu dài. Nhằm đáp ứng các địi hỏi của các nhà cơng nghiệp
và các thương nhân Luật ngày 22 tháng thứ 7 năm thứ XI (theo lịch cải tổ từ
cách mạng tư sản Pháp) đã được ban hành quy định sự trừng phạt chung đối
với hành vi làm giả các nhãn hiệu đặc biệt.
Bộ luật hình sự Pháp năm 1810 qui định hình phạt tước quyền tự do
đối với tất cả các hành vi chiếm đoạt nhãn hiệu trong tất cả các lĩnh vực của

ngành công nghiệp (các điều 142, 143).
Cuộc cách mạng công nghiệp ở châu Âu và sự phát triển hình thức sản
xuất mới (sản xuất hàng loạt, theo phương thức công nghiệp thay cho phương
thức sản xuất thủ công nhỏ lẻ) thúc đẩy sự trao đổi hàng hóa, kích thích sự phát
triển của thị trường và thương mại. Nhãn hiệu cá nhân của các nhà cơng nghiệp,
các thương nhân có những cơ hội mới để phát triển. Nhãn hiệu rất đa dạng và
phong phú. Các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ vào nửa đầu thế kỷ XIX ở Tây Âu

10


đã bùng nổ các nhãn hiệu hàng hóa và thương mại trong rất nhiều lĩnh vực phổ
biến như: ngành dệt, chế biến thuốc dán có nhựa thơm, chế biến bánh mứt
kẹo...
Ngồi tên gọi truyền thống của các nhà cơng nghiệp và các thương
nhân, nhãn hiệu thời kỳ này đã mang những đặc trưng mới như đã có sự kết
hợp giữa hình ảnh và màu sắc. Nhãn hiệu đã thực sự trở thành dấu hiệu phân
biệt của sự nhận biết. Cuối thế kỷ XIX đã xuất hiện các nhãn hiệu hiện đại
hơn có sự kết hợp các yếu tố hình họa và từ ngữ. Nhãn hiệu đã được luật pháp
của các quốc gia bảo hộ. Trong thế kỷ XIX, rất nhiều quốc gia đã ban hành các
đạo luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa.
Ở Pháp, Luật ngày 28-4-1824 quy định bảo hộ nhãn hiệu thương mại
gắn trên các sản phẩm. Trong trường hợp có sự giả mạo nhãn hiệu thương mại
trên sản phẩm thì người có hành vi giả mạo bị xử phạt bằng hình phạt tiểu hình.
Luật này cũng được áp dụng để trừng phạt hành vi làm giả NHHH theo
nguyên tắc tương xứng giữa tội phạm và hình phạt.
Luật ngày 23-6-1857 của Pháp quy định chi tiết bảo hộ nhãn hiệu
hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ theo nguyên tắc sử dụng đầu tiên.
Luật này được áp dụng ở Pháp cho đến năm 1964 thì bị hủy bỏ.
Khơng chỉ riêng các quốc gia có nhu cầu bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa

mà trên phạm vi quốc tế nhu cầu chung bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của các
quốc gia đã trở thành cấp thiết hơn bao giờ hết. Sự có cùng các mục tiêu đã
tăng cường sự hợp tác của các quốc gia trên phạm vi thế giới về bảo hộ nhãn
hiệu hàng hóa. Nhiều nước cùng hợp tác để thiết lập ra các cơ chế quốc tế
trong lĩnh vực này bằng việc ký Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công
nghiệp ngày 20-3-1883 tại Paris, Thủ đơ nước Cộng hịa Pháp và Thỏa ước
Mađrit về đăng ký quốc tế nhãn hiệu năm 1891 tại Mađrit, Thủ đô nước Tây

11


Ban Nha. Cơ chế này ngày càng phát triển và đóng vai trị to lớn trong việc
khuyến khích hoạt động bảo hộ sở hữu trí tuệ trên tồn thế giới.
Từ những nội dung phân tích trên đây cần rút ra một số nhận xét như
sau:
Các điều kiện kinh tế và sản xuất vật chất tạo tiền đề quan trọng cho
sự xuất hiện và phát triển của nhãn hiệu hàng hóa. Các nhà khoa học đã xác
định được hai giai đoạn lịch sử hình thành và phát triển của nhãn hiệu hàng
hóa.
Giai đoạn đầu được đánh dấu bằng cuộc cách mạng cơng nghiệp và bị
chi phối bởi quan niệm hàng hóa. Giai đoạn này chấm dứt vào thời điểm kết thúc
chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Giai đoạn hai bắt đầu từ những năm hai mươi
của thế kỷ XX và đánh dấu sự xuất hiện của nhãn hiệu hiện đại. Giai đoạn này
vẫn đang tiếp tục. Những thay đổi to lớn báo hiệu thời kỳ quá độ mới.
Những tiền đề quan trọng đó là:
Thứ nhất, sự sản xuất hàng loạt theo quy mơ cơng nghiệp, cơ khí hóa
với số lượng lớn thay thế sự sản xuất thủ công nhỏ lẻ.
Thứ hai, sự sản xuất đã được tiêu chuẩn hóa, cơng nghệ hiện đại được
ứng dụng trong sản xuất. Năng suất lao động tăng nhanh.
Thứ ba, sự trao đổi hàng hóa diễn ra trên thị trường mà khơng có sự

tham gia của nhà sản xuất. Khách hàng khơng có mối liên hệ trực tiếp với nhà sản
xuất.
Thứ tư, sự phức tạp của hệ thống lưu thông, phân phối và sự xuất hiện
tầng lớp trung gian đại lý. Để đưa hàng hóa tới tay người tiêu dùng hàng hóa
phải qua nhiều kênh, nhiều khâu. Các loại hàng hóa khác nhau nhiều khi do
một đại lý phân phối.

12


Thứ năm, sự đa dạng hóa các loại hàng hóa mà người tiêu dùng khơng
thể tự mình biết được chất lượng của các loại hàng hóa đó và uy tín của người
sản xuất ra chúng.
Các tiền đề khách quan đó kích thích sự phát triển của nhãn hiệu hàng
hóa. Nhãn hiệu hàng hóa ngày càng có vai trị quan trọng đối với sự tăng trưởng
kinh tế của mỗi quốc gia. Nó là một bộ phận khơng thể tách rời của sở hữu trí tuệ.
1.2. KHÁI NIỆM, CHỨC NĂNG CỦA NHÃN HIỆU, NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG

1.2.1. Khái niệm, chức năng của nhãn hiệu
Trước khi WIPO được thành lập, đã có rất nhiều định nghĩa về nhãn
hiệu được đưa ra, nhưng tựu chung lại đều thống nhất ở quan điểm cho rằng:
"nhãn hiệu là bất kì một dấu hiệu nào mà có thể cá thể hàng hoá của một
doanh nghiệp và phân biệt chúng với hàng hoá của đối thủ cạnh tranh". Định
nghĩa này bao hàm hai khía cạnh: khía cạnh thứ nhất là chức năng cá thể hoá
hàng hoá của nhãn hiệu và thứ hai là chức năng chỉ dẫn nguồn gốc. Mặc dù
định nghĩa đề cập đến hai khía cạnh của nhãn hiệu, nhưng thực chất cả hai
khía cạnh này luôn tuỳ thuộc lẫn nhau và được xem là một. Để cá thể hoá một
hàng hoá, nhãn hiệu cần chỉ ra nguồn gốc của hàng hoá, nhưng việc chỉ ra
nguồn gốc hàng hố khơng có nghĩa là nhãn hiệu phải cho người tiêu dùng
biết người thực sự đã sản xuất ra hàng hố hay thậm chí là người đang kinh

doanh hàng hố. Trên thực tế, người tiêu dùng thường khơng biết tên của nhà
sản xuất, và lại càng không biết chút gì về địa điểm của nhà máy sản xuất sản
phẩm. Nhãn hiệu không cần thiết phải chỉ rõ xuất xứ, chỉ cần người tiêu dùng
tin vào nhà sản xuất là đủ. Bởi vậy, chức năng cá thể hoá của nhãn hiệu thực
chất là đề cập đến một nhà sản xuất cụ thể. Khía cạnh thứ hai của định nghĩa
đề cập đến chức năng phân biệt hàng hoá của doanh nghiệp này với hàng hoá
của doanh nghiệp khác. Chỉ khi nhãn hiệu giúp người tiêu dùng phân biệt
được một hàng hoá mang nhãn hiệu của doanh nghiệp này với các hàng hoá

13


của doanh nghiệp khác đưa ra thị trường, thì nhãn hiệu đó mới đạt được chức
năng ban đầu của nó tức là chức năng xác định được nhà sản xuất. Điều này
cho thấy chức năng phân biệt và chức năng chỉ nguồn gốc thực tế là không
tách rời.
Trên cơ sở chức năng của nhãn hiệu, Luật mẫu của WIPO về nhãn
hiệu, tên thương mại và cạnh tranh không lành mạnh năm 1967 đã đưa ra một
định nghĩa như sau: "Nhãn hiệu là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt
hàng hoá của một doanh nghiệp này với đối thủ cạnh tranh". Trong thực tế
kinh doanh, khơng chỉ có các nhà sản xuất đưa hàng hoá ra thị trường mà cịn
có cả các nhà cung cấp dịch vụ cũng cung cấp dịch vụ ra thị trường. Vì vậy,
tất yếu địi hỏi cũng phải có dấu hiệu để người tiêu dùng có thể phân biệt
được dịch vụ của các nhà cung cấp dịch vụ với nhau. Những dấu hiệu được sử
dụng trong trường hợp này được gọi là nhãn hiệu dịch vụ. Nhãn hiệu dịch vụ,
về bản chất cũng giống như nhãn hiệu hàng hố. Do đó, khái niệm nhãn hiệu
hiện nay theo các điều ước quốc tế về nhãn hiệu và pháp luật của nhiều nước
được quy định với hàm nghĩa bao gồm cả nhãn hiệu hàng hoá và nhãn hiệu
dịch vụ. Điều này được khẳng định trong điều 15 Hiệp định TRIPS: "Bất kì
một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hoá

hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hố dịch vụ của các doanh
nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu" .
Theo các định nghĩa nêu trên, dấu hiệu có thể sử dụng làm nhãn hiệu
là những dấu hiệu bất kì, miễn là dấu hiệu đó có khả năng phân biệt. Như vậy,
về mặt lý luận, các dấu hiệu thuộc dạng nhìn thấy được và thuộc dạng khơng
thể nhìn thấy được như mùi vị hoặc âm thanh đều có thể trở thành nhãn hiệu.
Việc thừa nhận dấu hiệu thuộc dạng nào có thể sử dụng làm nhãn hiệu, vì thế
tuỳ thuộc vào điều kiện thực tiễn của mỗi quốc gia. Phần lớn các quốc gia chỉ
cho phép đăng ký các dấu hiệu thể hiện dưới dạng đồ hoạ (nhìn thấy được).

14


Bởi các nhãn hiệu thuộc dạng này mới có thể ghi được trong sổ danh bạ quốc
gia, và công bố một cách hữu hình trong cơng báo nhãn hiệu quốc gia, để
công bố công khai cho công chúng về việc đăng kí nhãn hiệu. Về vấn đề này,
điều 15.1 Hiệp định TRIPS quy định: "... các thành viên có thể quy định rằng
điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được".
Hiệp ước nhãn hiệu cũng chỉ thừa nhận sự bảo hộ đối với các dấu hiệu nhìn
thấy được, khơng thừa nhận sự bảo hộ đối với các nhãn hiệu vơ hình, cụ thể
là nhãn hiệu âm thanh và nhãn hiệu mùi vị.
Điều 16 Luật SHTT 2005 quy định: "Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để
phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau". Khái niệm
này bao gồm hai khía cạnh mà đơi khi được đề cập tới như các chức năng
khác nhau của NHHH, nhưng phụ thuộc lẫn nhau và trong thực tế cần được
xem xét cùng nhau.
Để người tiêu dùng có thể phân biệt một sản phẩm, nhãn hiệu phải chỉ
được nguồn gốc của hàng hóa. Điều này khơng có nghĩa là NHHH phải thơng
tin cho người tiêu dùng về người đã thực sự sản xuất ra sản phẩm hoặc thậm
chí người bán sản phẩm. Chỉ cần sao cho người tiêu dùng có thể tin tưởng vào

doanh nghiệp nhất định, là bên có trách nhiệm về sản phẩm được bán ra mang
NHHH, chịu trách nhiệm về hàng hóa mà khơng nhất thiết phải có biết cụ thể
doanh nghiệp đó.
Chức năng chỉ dẫn nguồn gốc như đã nêu trên cho thấy NHHH phân
biệt hàng hóa của một doanh nghiệp này với hàng hóa của những doanh nghiệp
khác, chỉ khi NHHH cho phép người tiêu dùng phân biệt được sản phẩm bán
dưới nhãn hiệu đó với những hồng hóa của doanh nghiệp khác bán trên thị
trường thì lúc đó nhãn hiệu đã hồn thành chức năng này. Điều này cho thấy
không thể tách biệt giữa chức năng phân biệt và chức năng chỉ dẫn nguồn gốc.
Tóm lại, chúng ta có thể nêu ra các chức năng chính của nhãn hiệu
như sau:

15


a) Chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của nhãn hiệu hàng hóa
Trong nền kinh tế thị trường, hàng hóa, dịch vụ rất đa dạng và phong
phú. Người tiêu dùng lựa chọn hàng hóa, dịch vụ để mua chủ yếu dựa vào các
dấu hiệu hay nhãn hiệu hàng hóa mà các cơ sở sản xuất, kinh doanh gắn trên
sản phẩm hay bao bì sản phẩm khi đưa ra thị trường. Như vậy, nhãn hiệu hàng
hóa có chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản
xuất, kinh doanh khác nhau. Nhờ có nhãn hiệu hàng hóa mà người tiêu dùng
có thể xác định được hàng hóa, dịch vụ mà mình u thích.
b) Chức năng thơng tin nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ
Người tiêu dùng quyết định chọn mua một sản phẩm nào đó mà khơng
hề do dự vì trước đây họ đã mua hàng hóa đó rồi, đã biết hàng hóa của nhà
sản xuất nào và hồn tồn tin tưởng vào hàng hóa của nhà sản xuất đó. Như
vậy, chỉ cần nhìn vào nhãn hiệu hàng hóa, người tiêu dùng có thể có quyền nghĩ
rằng các sản phẩm mang nhãn hiệu hàng hóa đều có cùng nguồn gốc hoặc có
mối liên hệ giữa các nhà sản xuất khác nhau sử dụng nhãn hiệu hàng hóa

giống nhau. Đối với các hàng hóa nhập khẩu hoặc sản xuất theo hợp đồng lixăng, thì nhãn hiệu hàng hóa cịn đóng vai trị chỉ dẫn nguồn gốc của hàng
hóa đó.
c) Chức năng thơng tin về sản phẩm
Người tiêu dùng chọn mua hàng hóa vì họ hài lịng về chất lượng, giá
cả của hàng hóa đó. Họ chọn mua hàng hóa đó vì họ biết được chất lượng của
hàng hóa, sản phẩm được chế tạo từ loại vật liệu gì, hàng hóa đó phù hợp với
nguồn tài chính của họ và nhiều thơng tin khác về sản phẩm đó. Như vậy,
nhãn hiệu hàng hóa có chức năng thơng tin gián tiếp về sản phẩm.
d) Chức năng quảng cáo
Thông qua vai trị cá thể hóa sản phẩm, màu sắc, sự nổi tiếng của nhãn
hiệu hàng hóa, nhãn hiệu hàng hóa còn thực hiện chức năng quảng cáo sản

16


phẩm cho nhà sản xuất để sản phẩm có thể sớm đến được với người tiêu
dùng.
e) Chức năng kiểm tra và tổ chức thị trường
Sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa thu hút nhà sản xuất đi đến lựa
chọn nhãn hiệu hàng hóa làm phương tiện để kiểm tra thị trường. Nhãn hiệu
hàng hóa nổi tiếng chiếm lĩnh thị trường, thị phần càng lớn, thì nhà sản xuất
có nhiều cơ hội để kiểm tra và tổ chức thị trường có lợi cho mình.
1.2.2. Khái niệm, đặc trƣng của nhãn hiệu nổi tiếng
Ngày nay, NHHH được sử dụng một cách phổ biến hơn với nhiều thể
loại hơn. Và nó là một hình thức rất có giá trị của quyền SHTT bởi vì nó gắn
liền với chất lượng cũng như sự mong đợi của người tiêu dùng đối với hàng
hóa và dịch vụ. Nhiều sản phẩm hàng hóa đã trở nên đồng nhất với tên nhãn
hiệu của chúng, chẳng hạn như nước giải khát Coca Cola, cà phê Nestcafe,
quần Jean Levi’s…Những sản phẩm này thực sự đã trở nên nổi tiếng và được
biết đến một cách rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Đây cũng là một thành

công quan trọng của các nhà sản xuất và các thương nhân trong việc quảng bá
sản phẩm của họ. Tuy nhiên chính sự nổi tiếng của NHHH cũng mang lại
khơng ít khó khăn cho các doanh nghiệp vì nó sẽ rất dễ bị xâm phạm bởi các
chủ thể khác. Ngày càng có nhiều các hàng hóa và dịch vụ tương tự với
những hàng hóa dịch vụ mang NHNT được sản xuất và điều này đã gây ra sự
nhầm lẫn đối với người tiêu dùng trong việc lựa chọn và sử dụng những hàng
hóa, dịch vụ thật sự mà họ mong muốn. Vì vậy, một trong những vấn đề quan
trọng đặt ra là phải làm thế nào ngăn chặn các hiện tượng xâm phạm đối với
NHHH nổi tiếng như thế. Mặc dù đã được biết đến từ rất lâu, song cho đến
nay cách hiểu về NHNT vẫn còn đang rất khác nhau trong các điều ước quốc
tế cũng như trong pháp luật các nước. Pháp luật của khơng ít quốc gia đã
khơng đưa ra được một hệ thống các tiêu chí cụ thể để xác định "nhãn hiệu

17


hàng hóa nổi tiếng". Do vậy, trên thực tế khái niệm này sẽ được xác định bởi
các Tòa Án hay các cơ quan có thẩm quyền trong từng vụ việc cụ thể.
Theo luật NHHH của Nga năm 1992, NHHH nổi tiếng cũng như những
vụ việc, tình huống liên quan đến việc chủ sở hữu nhãn hiệu yêu cầu công
nhận đối với NHNT ở Nga sẽ được xem xét bởi Phòng Patent tối cao. Ở
Trung Quốc, thông qua các quy định hiện hành của Luật NHHH và các quy
định hướng dẫn thi hành Luật NHHH, lần đầu tiên Trung Quốc thừa nhận một
cách chính thức NHHH nổi tiếng trong hệ thống pháp luật của họ dù rằng
Trung Quốc đã chính thức trở thành thành viên của công ước Paris từ rất sớm.
Luật NHHH của Trung Quốc đã đưa ra một định nghĩa về NHHH nổi tiếng
hơi khác so với các nước khác. Cụ thể, NHNT là NHHH được đăng ký mà nó
có một bộ phận khách hàng thực tế và được coi là nổi tiếng trong bộ phận
công chúng liên quan. Như vậy, một NHHH có thể là NHNT ở các nước khác
nhưng chưa được đăng ký ở Trung Quốc thì sẽ không được xem là NHNT để

được hưởng chế độ pháp lý về bảo hộ theo Luật NHHH của nước này.
Mặc dù có sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật, chúng ta vẫn có
thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về NHNT. Theo đó, Luật SHTT 2005
quy định rằng " Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết
đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam". Như vậy, NHNT trước hết là một
NHHH bao gồm các dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ
chức, cá nhân khác nhau. Tuy nhiên, NHNT có những đặc trưng nổi bật so
với các nhãn hiệu thơng thường khác, đó là:
Thứ nhất: một NHNT phải là nhãn hiệu có tính phân biệt. Thơng qua
một NHNT, người tiêu dùng có thể nhận biết ngay loại hàng hóa hay dịch vụ
mà nhãn hiệu đó được sử dụng. Ví dụ, khi nói đến nhãn hiệu Coca Cola,
người tiêu dùng sẽ nghĩ ngay đến nước giải khát, hoặc khi nói đến Toyota, họ
sẽ nghĩ ngay đến xe hơi…

18


Thứ hai: NHNT thường có tính phổ biến cao. Một NHNT là nhãn hiệu
được biết đến bởi nhiều người ở nhiều khu vực địa lý khác nhau. Chẳng hạn,
Ford là một nhãn hiệu xe hơi của Hoa Kỳ nhưng nó lại được biết đến bởi
người tiêu dùng trên hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Thứ ba: NHNT thường có giá trị kinh tế lớn và rất lớn. Nó cấu thành
một bộ phận tài sản quan trọng trong khối lượng tài sản của doanh nghiệp.
Thật vậy, có khơng ít NHNT đã trở thành một phần tài sản quan trọng, thậm
chí đóng vai trị quyết định, trong lượng tài sản các công ty sở hữu NHNT.
Trên thực tế, trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp có thể sử dụng NHNT
của mình như là một loại vốn để đưa vào các hoạt động đầu tư, kinh doanh…
Một NHHH chỉ có thể trở thành NHNT nếu nó thỏa mãn những yêu
cầu hay tiêu chí nhất định do chủ sở hữu nhãn hiệu chứng minh hoặc theo quy
định của pháp luật. Bất kể sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật của các

quốc gia trong lĩnh vực lập pháp cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật,
chúng ta có thể khái quát các trường hợp chung nhất mà theo đó một NHHH
sẽ được cơng nhận là nổi tiếng. Đó là: sự lặp đi lặp lại của nhãn hiệu trong bộ
phận công chúng có liên quan; mức độ được biết đến của nhãn hiệu trong
công chúng; quy mô và khoảng thời gian sử dụng nhãn hiệu; thời gian, mức
độ và phạm vi địa lý của bất kỳ sự quảng cáo hay thông tin cho nhãn hiệu;
mức độ của tính phân biệt vốn có hay được yêu cầu của NHNT; lịch sử của
quá trình thực thi quyền trong việc bảo hộ nhãn hiệu; những quốc gia nơi
nhãn hiệu đã được đăng ký. Những yếu tố trên chỉ là những căn cứ chung
được thừa nhận một cách rộng rãi trong pháp luật của hầu hết các quốc gia
trên thế giới. Ngoài ra, phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể cũng như quan
điểm lập pháp riêng của mỗi quốc gia mà họ có thể đưa ra các quy định cụ thể
liên quan đến việc thừa nhận các NHNT.
1.3. VAI TRÕ CỦA NHÃN HIỆU, NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG

19


Nhãn hiệu có chức năng chủ yếu là một phương tiện phân biệt hàng
hóa dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Từ chức
năng chủ yếu trên, nhãn hiệu có những vai trị rất to lớn đối với thương mại,
kinh tế - xã hội như sau:
- Giúp người tiêu dùng lựa chọn một cách thuận lợi các hàng hóa, dich
vụ theo các nhu cầu riêng của mình như chất lượng, giá cả, sở thích, thói
quen…của mình.
- Thúc đẩy các cơ sở kinh doanh khơng ngừng nâng cao năng suất,
chất lượng, tính năng, sự hấp dẫn…của hàng hóa, dịch vụ để uy tín nhãn của
mình ngày càng được nâng cao, dẫn đến kích thích sự phát triển sản xuất,
kinh doanh.
- Nhãn hiệu là công cụ tiếp thị hữu hiệu, một phương tiện quảng cáo,

xúc tiến thương mại hiệu quả nhất. Mọi hoạt động tiếp thị, quảng cáo hay xúc
tiến thương mại đều thực hiện chủ yếu dựa trên nhãn hiệu và nhằm khuyếch
trương việc kinh doanh hàng hóa mang chính nhãn hiệu đó.
- Nhãn hiệu là một trong những cơ sở để các cơ quan pháp luật phân
biệt hàng thật với hàng giả, hàng nhái nhằm xử lý kịp thời các vi phạm quyền
sở hữu công nghiệp, đảm bảo cho môi trường cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ
quyền lợi của nhà sản xuất và người tiêu dùng.
1.4. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG

Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền SHCN đã lần đầu tiên đề
cập đến NHNT tại Điều 6Bis bằng cách quy định nghĩa vụ bắt buộc của các
quốc gia thành viên trong việc từ chối hay huỷ bỏ mọi sự đăng ký cũng như
ngăn cấm mọi sự sử dụng của NHHH mà nó được coi là sự sao chép, bắt
chước, một bản dịch hoặc có thể gây nhầm lẫn với một NHNT và cũng quy
định khoảng thời gian cho phép chủ sở hữu NHNT yêu cầu các cơ quan có
thẩm quyền huỷ bỏ sự đăng ký đối với nhãn hiệu xâm phạm.

20


×