Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN REN NOI CHO HS LOP 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.02 KB, 15 trang )

1
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NÚI THÀNH
TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN THỊ MINH KHAI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT VÀI BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG NÓI TRONG
GIỜ DẠY TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH LỚP 2.
GV: Cao Thị Nhàn
Năm học: 2008 – 2009
2

1/ Đặt vấn đề
a/ Tầm quan trọng của lời nói trong giao tiếp:
Ngay từ ngày đầu tiên trẻ bước chân tới trường, trẻ đã được giáo dục
đạo đức, giáo dục ăn nói lễ phép theo phương châm “Tiên học lễ, hậu học
văn”. Do vậy từ các lớp đầu cấp tiểu học chúng ta cần rèn cho trẻ biết nói
năng lễ phép, lịch sự biết nói lời biểu cảm trong giao tiếp. không những thế
mà chúng ta cần rèn cho trẻ mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp với mọi người và
khi nói trước tập thể đông người.
Dạy Tiếng việt không chỉ dạy cho các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà
điều quan trọng là dạy các em sử dụng lời nói tình cảm trong giao tiếp. Nếu
một người đọc thông, viết thạo tất cả các văn bản, có tài, có trình độ song
khi nói trước tập thể thì sợ sệt, nhút nhát hoặc khi giao tiếp không gây được
tình cảm, mối thân thiện với mọi người, để lại ấn tượng không tốt thì người
đó khó mà thành công trong công việc.
Để sau này lớn lên các em có một nhân cách tốt, biết nói năng lễ phép,
lịch sự, biết nói lời biểu cảm trong giao tiếp và mạnh dạn khi giao tiếp với
mọi người. Thì ngay từ các lớp đầu cấp tiểu học chúng ta cần rèn cho học
sinh kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng việt là điều rất quan trọng mà chúng ta
cần phải thực hiện.
b/ Thực hiện đúng nhiệm vụ, mục tiêu SGK Tiếng Việt 2.
Bộ SGK Tiếng việt 2 tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng việt


cho học sinh thông qua các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả,
Kể chuyện , Tập viết, Tập làm văn.
- Phân môn Tập đọc rèn cho học sinh các kĩ năng đọc (đọc thành
tiếng, đọc thầm, đọc hiểu, đọc diễn cảm), nghe và nói. Phân môn Tập đọc
còn cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người,
cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về văn học thông qua hệ
thống bài đọc theo chủ điểm và những câu hỏi, những bài tập khai thác nội
dung bài đọc và những truyện kể. từ đó góp phần rèn luyện nhân cách cho
học sinh.
- Phân môn Chính tả rèn các kĩ năng nghe, viết và đọc. Từ đó rèn cho
học sinh sử dụng ngôn ngữ, cung cấp cho học sinh vốn từ qua các bài tập
chính tả.
- Phân môn Luyện từ và câu cung cấp cho học sinh những kiến thức
sơ giản vể Tiếng việt và rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, kĩ năng đọc cho học
sinh
- Phân môn Kể chuyện rèn kĩ năng nói, nghe và đọc.Trong tiết Kể
chuyện học sinh kể lại những câu chuyện phù hợp với chủ điểm mà các em
3
đã học, nghe thầy cô hoặc bạn kể rồi kể lại câu chuyện bằng lời của mình,
trả lời câu hỏi hoặc ghi lại những chi tiết chính của câu chuyện đó.
- Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinhcả 4 kĩ năng nghe, nói, viết
và đọc. Trong giờ Tập làm văn học sinh được cung cấp kiến thức vể cách
làm bài và làm các bài tập. Học sinh được rèn luyện và thực hành nói rất
nhiều về những lời nói biểu cảm, lịch sự và nói lễ phép.
Trong nhiều năm dạy lớp 2 tôi đã tiếp cận với chương trình SGK mới
và đã thấy được tầm quan trọng của SGK Tiếng việt lớp 2 là rèn cho học
sinh kĩ năng nói là rất cần thiết. Tôi vừa dạy vừa nghiên cứu để tìm ra những
sáng kiến mới, hay và thực tiễn để áp dụng vào việc giảng dạy nhằm nâng
cao nghiệp vụ chuyên môn và góp phần giúp cho chất lượng giáo dục ngày
được nâng cao.

c/ Đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học tiểu học.
Hiện nay chúng ta đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học
lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính sáng tạo, tích cực học tập của học
sinh.Theo tôi môn Tiếng việt là môn học rất cần phải tạo điều kiện cho học
sinh tự giác trong luyện tâp để rút kinh nghiệm, tự chiếm lĩnh kiến thức qua
thực hành dưới sự chỉ dẫn, điều hành của giáo viên. Qua thực tế giảng dạy
theo tôi “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng việt cho học sinh lớp 2” là
điều hết sức cần thiết và quan trọng.
- Giới hạn nghiên cứu:
Học sinh lớp 2.
d/ Cơ sở lý luận.
- Tầm quan trọng của lời nòi trong giao tiếp.
Ngày xưa, ông bà ta rất coi trọng việc giao tiếp, ngôn ngữ, lời nói là
trao đổi thông tin, đóng vai trò biểu hiện tình cảm, qua lời nói thể hiện văn
hoá, tính nết của con người. Do vậy cần phải giáo dục, rèn luyện lời nói của
các em ngay từ nhỏ, từ các lớp đầu cấp Tiểu học để sau này các em có thói
quen cư xử đúng mực, lịch sự trong khi giao tiếp.
Để nhìn nhận đánh giá một con người, chúng ta cũng cần phải giao
tiếp hằng ngày với họ. Người xưa có câu.
“ Chim khôn kêu tiếng rảnh ran
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.”
Việc giáo dục lời nói từ xa xưa ông bà ta rất chú trọng. Ông cha ta
thường dạy con, cháu qua các câu ca dao, tục ngữ như:
“ Học ăn, học nói, học gói, học mở”
“ Lời nói không mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.”
Ngoài ra việc giao tiếp ứng xử khéo léo cũng giúp ta thành công trong
nhiều lĩnh vực và trong công việc.
4
2/ Cơ sở thực tiễn.

Đặc điểm của học sinh và của địa bàn dân cư.
Trường tôi dạy là một trường thuộc xã miền núi, trình độ dân trí chưa cao,
đa số phụ huynh chưa có sự quan tâm chu đáo đến việc học hành của con
em mình, cũng ít quan tâm bày vẽ cho học sinh biết giao tiếp đúng mực,
lịch sự. Đây là một điều đáng quan tâm. Phần lớn các em ngại giao tiếp, nhút
nhát, giao tiếp kém, có khi nói năng cộc lốc, không biết cách diễn đạt hết ý
của mình. Đa số là các em phát âm sai do tiếng địa phương.
Thấy được vai trò và tầm quan trọng của việc sử dụng ngôn ngữ biểu cảm,
lịch sự khi giao tiếp và với thực trạng của học sinh đã nêu trên. Tôi đã
nghiên cứu và lựa chọn biện pháp “Rèn kĩ năng “nói” trong giờ dạy Tiếng
việt cho học sinh lớp 2.”
3/ Mục đích nghiên cứu:
Với kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm, tôi đã nghiên cứu tìm tòi ra những
biện pháp phù hợp nhất nhằm giúp các em mạnh dạn hơn trong giao tiếp,
tiếp theo rèn những kĩ năng nói thói quen dùng lời nói biểu cảm, lịch sự
trong giao tiếp qua các tiết luyện nói và các tiết Tiếng việt trong chương
trình SGK lớp 2.
- Nghiên cứu thực trạng hiện nay trẻ lớp 2 có kiến thức và ý thức như thế
nào trong giao tiếp hằng ngày, những quan điểm, nhận thức mà trẻ bộc lộ lời
nói, lời phát biểu trả lời nội dung bài học và sự giao tiếp với bạn bè, thầy cô
ở trường và giao tiếp với mọi người xung quanh.
4/ Nội dung nghiên cứu.
Một số giải pháp nhằm “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng
việt cho học sinh lớp 2.”
a/ Phương pháp1: Phương pháp quan sát.
Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong việc giáo dục
học sinh. Quan sát học sinh học tập trên lớp, quan sát lời nói của học
sinh với bạn bè và mọi người xung quanh ở mọi nơi, mọi lúc. Đánh
giá kết quả học tập của học sinh thông qua lời phát biểu của học sinh
trong giờ luyện nói của mỗi tiết học, qua các bài tập thực hành.

- Biện pháp thực hiện:
Ngoài những sổ sách do nhà trường qui định. Tôi có sắm thêm
một quyển sổ theo dõi đánh giá hành vi học sinh. Tôi ghi chép những
điều đã quan sát được, nhận xét từng học sinh trong lớp, ghi những
hành vi, lời nói giao tiếp của học sinh, những thói quen tốt và những
hạn chế, khiếm khưyết của học sinh. Từ đó tôi dễ dàng phân loại khả
năng giao tiếp của từng học sinh trong lớp. Tôi có kế hoạch bồi dưỡng
nâng cao cho học sinh giỏi , rèn kĩ năng cho những học sinh trung
bình nói sao cho đạt trình độ chuẩn. Thường xuyên quan sát, phản ánh
5
trung thực tình trạng của học sinh.Từ động viên, uốn nắn cho các em
biết cách giao tiếp đúng mực, lịch sự.
Sau khi phân loại từng đối tượng học sinh tôi chọn những câu
hỏi gợi mở sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh để các em
phát huy hết khả năng giao tiếp của mình trong phần luyện nói của tiết
học môn Luyện từ và câu, Tập làm văn, Tập đọc và các môn học khác
trong chương trình Tiếng việt 2.
b/ Phương pháp phân tích - Tổng hợp.
Qua việc quan sát, theo dõi trong giờ học và các hoạt động giao
tiếp của học sinh, tôi đã ghi chép, thu thập được và xử lí những thông
tin ấy bằng cách phân tích, tổng hợp. Với việc làm như vậy tôi đánh
giá, nhận xét học sinh sát thực và cụ thể hơn.
- Biện pháp thực hiện:
Qua sự theo dõi học sinh sát thực như vậy tôi tiến hành phân
chia học sinh theo nhiều nhóm trình độ khác nhau.
Nhóm 1: Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, mạch lạc, khi giao
tiếp biết thể hiện lời nói biểu cảm, lịch sự. Những học sinh này tôi
phân làm nhóm trưởng, những nhân vật nòng cốt trong các tiểu phẩm
của các tiết Tiếng việt mà học sinh rèn luyện kĩ năng nói trên lớp.
Những em này là người dẫn chương trình trong các giờ luyện nói trên

lớp.
Nhóm 2: Nhóm học sinh có lời nói tương đối rõ ràng, trôi chảy,
lịch sự nhưng chưa thể hiện được lời nói tình cảm trong giao tiếp.
Nhóm 3: Nhóm học sinh nhút nhát, ngại giao tiếp,khả năng giao
tiếp kém, ít khi sử dụng lời nói lịch sự, tình cảm trong giao tiếp. nói
năng cộc lốc, chưa diễn đạt trọn ý, trọn câu.
Sau khi quan sát theo dõi khả năng giao tiếp của học sinh tôi
thống kê chất lượng đầu năm như sau.
Bảng thống kê khả năng nói, giao tiếp của học sinh lớp 2B
đầu năm học 2008 - 2009.
Tổng số học sinh: 28 em
Khả năng Số HS Tỷ lệ %
Nói tốt 8 28,5%
Nói tạm được 9 32,1%
Chưa được 11 39,2%
Sau khi nắm được đặc điểm cũng như khả năng giao tiếp của
từng học sinh tôi tiến hành sắp xếp chỗ ngồi của học sinh sao cho phù
hợp. Học sinh được phân bố đều khắp 3 đối tượng nói trên vào các
nhóm, các tổ và ngồi hợp lí theo từng bàn.
6
Trong các giờ học luyện nói của môn Tiếng việt tôi hướng dẫn
các em giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình học tập. Những em mạnh dạn,
nói lưu loát, có lời nói biểu cảm trong giao tiếp giúp đỡ những em
nhút nhát, giao tiếp kém, ngại giao tiếp dần dần mạnh dạn hơn trong
giao tiếp và biết nói năng lịch sự, tình cảm khi giao tiếp. Từ đó rèn
cho các em có lời nói lưu loát, mạch lạc. Sự giúp đỡ, cổ vũ, động viên
của các bạn trong tổ, trong nhóm giúp các em mạnh dạn, năng động
và tự tin hơn trong quá trình rèn nói và trước lời phát biểu của mình.
tạo cho các em sự hưng phấn và cố gắng nhiều trong học tập. Các em
sẽ thi đua học cho bằng bạn. Đây là việc làm hết sức bổ ích và đem lại

kết quả tốt. Như chúng ta đã nói: “ Học thầy không tầy học bạn.”
Khi các em nhút nhát, giao tiếp kém có sự tiến bộ tôi sẽ phân
cho các em đó làm nhóm trưởng trong các giờ học luyện nói của môn
Tiếng việt. Để các em phát huy được khả năng của mình, mạnh dạn
nói trước tập thể và biết nói biểu cảm và nói lịch sự. Cứ tiếp tục như
vậy tôi thay phiên nhau cho các em làm nhóm trưởng để các em phát
huy hết năng lực của mình.
Bên cạnh đó tôi thường xuyên khen ngợi, tuyên dương và có
nhữg phần thưởng nho nhỏ như cây bút, quyển vở để động viên
khuyến khích cho những em có sự tiến bộ.Còn những em chưa tiến bộ
tôi không phê bình các em mà tôi động viên, giúp đỡ và áp dụng mọi
biện pháp hợp lí nhất để giúp các em tiến bộ dần trong khi luỵên nói
và giao tiếp.
Sau khi áp dụng biện pháp này tôi thấy các em tiến bộ rõ rệt.
Những em giỏi đã phát huy hết được vai trò của mình. Những em yếu,
kém mạnh dạn hơn trong giao tiếp, biết nói năng lịch sự, có lời nói
biểu cảm trong khi giao tiếp.
c/Phương pháp thực hành luyện tập.
Phương pháp này giúp học sinh thường xuyên được thực hành
luyện nói trong tất cả các tiết học Tiếng việt. Nhờ đó khả năng giao
tiếp các em ngày được nâng cao và hoàn thiện hơn. Rèn cho các em
nói sao cho trôi chảy, mạch lạc, lời nói thể hiện tình cảm và lịch sự.
Biệm pháp thực hiện:
Học sinh được rèn kĩ năng nói qua các bài tập thực hành trong
SGK Tiếng việt 2.
* Bài tập rèn luyện cho học sinh phát âm theo chuẩn.
- Loại bài tập này tôi thường chú ý đến những đối tượng học
sinh phát âm chưa chuẩn từ các tiếng, từ khó trong phần rèn đọc từ
khó của phân môn tập đọc ở tiết 1.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×