Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Một số vấn đề hiện đại hóa hệ thống pháp luật việt nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế vì mục tiêu pháp triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.71 MB, 8 trang )

M ỘT SỐ VẤN ĐÈ HIỆN ĐẠI HÓA
HỆ THÓNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
TỒN CÀU HĨA VÀ HỘI NH ẬP QUỐC TÉ
VÌ M ỤC TIÊU PHÁT TRIẺN BỀN VỮNG
Mai Văn Thẳng*

1. Dẩn nhập
Từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước, thuật ngữ "phát triển bền vững" đã
được hình thành và ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới. Nói một cách chung
nhất, phát triển bền vững là sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo
đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai hay không làm ảnh hưởng đến sự phát
triển của các thế hệ mai sau1.
Chính vì sự hồn hảo như vậy mà phát triển bền vững được xác định là chiến
lược phát triển của phần lớn các quốc gia ừên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mồi
quốc gia, tùy vào điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý, lịch sử văn hóa... của mình mà
lựa chọn một cách riêng để đạt tới sự phát triển bền vững.
Việt Nam là quốc gia đang phát triển với nền kinh tế phát triển nhanh và luôn
ở tốc độ cao. Sự hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới cũng như tham gia tích
cực vào tiến trình tồn càu hóa đã đem lại cho đất nước nhiều thành tựu đáng kể
trong những năm qua. Tuy nhiên, nhìn vào những con số của nền kinh tể, những tác
động của văn hóa, nhiều chiến lược gia, nhà hoạch định chính sách đã khơng khỏi
giật mình và nhận thấy phải gấp rút và cần thiết chuyển đổi sang mơ hình phát triển
bền vững, bởi nếu khơng có phát triển bền vững thì những đánh đổi ngày nay sẽ
không thể bù đắp lại trong tương lai và chắc chắn khơng ai khác mà chính thế hệ
mai sau là những người gánh chịu hậu quả.
Trong số rất nhiều những phương tiện đảm bảo sự phát triển bền vững, pháp
luật là một trong những công cụ quan trọng nhất, bởi trong bất kỳ xã hội hiện đại

* TS. Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội.
1. Xem thêm: C3% A1t_tri% E1% BB% 83n b% El% B B% 81n
v% El% B B% A Fng.


612


MỘT SỐ VẤN ĐỀ HIỆN ĐẠI HĨA.

nào, pháp luật ln là phương tiện quan trọng bậc nhất dể điều tiết xã hội. Vì vậy,
nếu khơng có một hệ thống pháp luật hướng tới mục tiêu phát triển bền vững thì sẽ
chẳng có được sự phát triển bền vững. Cùng với dó, thiết nghĩ, nếu tự thân hệ thống
pháp luật của quốc gia khơng bền vững thì sõ chẳng có được một xã hội phát triển
bền vững.
2. T ại sao phải hiện đại hóa hệ thống pháp luật Việt N am ?
Hiện đại hóa là một khái niệm khơng mới và được dùng phổ biến trong các
ngành khoa học kỹ thuật, công nghệ và kinh tế. Ngược lại, trong hệ thống thuật ngữ
của khoa học pháp lý khải niệm này rất ít được sử dụng. Khi muốn đề cập đến sự
thay đổi nào đó trong hệ thống pháp luật, các nhà nghiên cứu luật học thường dùng
các thuật ngữ như "Cải cách" "Đổi mới" "Hoàn thiện"...
Tuy nhiên, theo thiển ý của tác giả, trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam, khi
mà chúng ta muốn giữ lại những nguyên tắc mang tính chất nền tảng trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước, cũng như các nguyên tắc mang tính chất hiến
định của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn muốn tiếp thu có chọn lọc những
cái hay, cái mới của nhân loại trong quá trình hội nhập và tồn cầu hóa để xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và một xã hội văn minh hiện đại, thỉ việc sử
dụng các thuật ngữ nói trên, thiết nghĩ, khơng được "trịn" nghĩa cho lắm.
Hiện đại hóa (tiếng Anh là Modernisation hay Modernization) có nhiều cách
hiểu khác nhau. Theo Từ điển mở Wikipedia, hiện đại hóa là đề cập đến một mơ
hình cùa một q trình chuyển đổi tiến hỏa từ "tiền hiện đại” hay "truyền thống"
sang một xã hội "hiện đại"1. Còn trong Từ điển xã hội học bản tiếng Nga
(Mo;iepHH3auHH) thì hiện đại hóa được định nghĩa là sự truyền những thuộc tính
mới cho một cái gì đó, sự thích ứng với những phong cách mới, quan điểm mới, tư
tưởng mới hoặc nhu cầu mới2. Cịn theo Từ điển bách khoa tồn thư tiếng Nga của

GS. M.A. Proxorov thì hiện đại hóa có nghĩa là thay đổi, hồn thiện để đáp ứng với
những địi hỏi mới của thời đại3.

1. Xem trên: (Nguyên bản tiếng Anh: Modernization or
modernisation refers to a model of an evolutionary transition from a 'pre-modem ' or
'traditional' to a 'modem ' society).

2. Xem trên: Eojibiuou Cj'ioeapb no coụuonoBuu, npoeKT www.rusword.com.ua//http://
voluntary.ru/dictionary/662/word (Nguyên bản tiếng Nga: MOflepmmuHfl (anr. - modernization)
- npn/uiHHe coBpeMennoro xaparrepa Hero-iiHÕo, npHcnoco6jieHHe K cơB peM eH H biM CTHJ1HM,
B3rjuwaM, HAeHM, BKycaM, noTpeoiiocTHM).

3 Bonbiuó 3mịUK!ioneờuHecKú cnoeapb / Fji. pezt A.M. IlpoxopoB, 2-oe H3/iaHHe, nepepaõ.,
a o n o ji., H 3 A .: B o jib in a a p o c c n ỉíc K a a 3HHHKJione/iHfl, 1997. - c . 7 4 4 .

613


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN THỦ’ T ư

Có rất nhiều cách diễn giải khác nhau về khái niệm này, nhưng tựu chung lại
tác giả nhận thấy, về mặt nội hàm, hiện đại hóa bao gồm hai cấu thành cơ bản sau:
Thứ nhất, hiện đại hóa là những thay đổi, là đem những yếu tố mới thay thế
những cái đã bị lạc hậu, lỗi thời, làm cho cái đang có phù hợp hơn, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của thời đại;
Thứ hai, hiện đại hóa là sự hồn thiện cái đang có chứ khơng triệt tiêu, loại bỏ
hồn tồn cái đang có. Hiện đại hóa là có tính kế thừa.
Thiết nghĩ, hiểu như thể có vẻ sát nghĩa hơn bởi "nếu một sự vật, hiện tượng
mà biến mất hồn tồn và thay vào chỗ đó là một cái hồn tồn mới, hồn tồn xa lạ
thì chẳng có một căn cứ nào để nói về sự tiến bộ hay phát triển ở đây"1.

Trong bối cảnh ở Việt Nam hiện nay, như đã đề cập ở trên, và trong khuôn
khổ đề tài này, tác giả dùng khái niệm hiện đại hóa để miêu tả hiện trạng hệ thống
pháp luật nước ta hiện nay, theo tác giả, là phù hợp nhất. Chúng ta không thể dùng
khái niệm "cải cách" bởi cải cách đồng nghĩa với xóa bỏ cái cũ, thay đổi hồn tồn
sang một mơ hình mới. Cịn khái niệm "đổi mới" bao hàm ý nghĩa của sự thay đổi,
trong khi đó khái niệm "hồn thiện" chỉ phản ánh nội dung "chỉnh sửa" chứ khơng
bao qt được tính thời đại, tính phù hợp của hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối
cảnh hiện nay.
Khác với các thuật ngữ nêu trên, hiện đại hóa khơng làm liên tưởng tới sự phá
bỏ, mà thay vào đó là sự kế thừa - kế thừa những nguyên tắc nền tảng của mô hình
nhà nước và nền pháp luật Việt Nam, đồng thời lại truyền tải được ý nghĩa của sự
phù hợp, tính thời đại, tươi mới của hệ thống pháp luật nước ta - cái mục tiêu mà
chúng ta đang hướng tới.
Trong bài viết này, để hiểu được nội dung của các vấn đề đề cập, nhất thiết
phải xác định được nội hàm của khái niệm "Hệ thống pháp luật". Cho đến nay, khái
niệm này vẫn chưa được thống nhất trong giới luật học. Điều đó, đối với nhiều nhà
khoa học là tín hiệu mừng, bởi tìm một khái niệm chung, theo GS. Glebov, là cực
kỳ nguy hiểm2. Tuy nhiên, sẽ không thể giới hạn được vấn đề cần bàn nếu tác giả
không đưa ra quan điểm về hệ thống pháp luật.

1. ỈIÌBeKOB r.B. IĩpeeMcmeeHHOcmb e n paee. - M ., 1983.- C.8. (Svekov G .v . Tính kế thừa của

pháp luật, Moscow, 1983, tr.8).

2. PoccuủcKoe eocydapcmeo u npaeoeaH cucmeMa: coepeMetmoe pa36um ue, npoõneMbi,
nepcneKmuebi / nofl peA- K ).H . CrapHJiOBa. BopoHe>K, 1999. - c. 3 0 9 (Nhà nước và hệ thống
pháp luật nước Nga: Sự phát triển đương đại, những van đề đặt ra và viễn cảnh cùa nó,
Starinov Ju. N., Voronezh, 1999, tr. 30): Theo GS. Glebov, tìm m ột khái niệm chung có
nghĩa là bóp chết tư duy đa nguyên luận trong khoa học mà nếu như vậy là đang tiệm cận sự
biến mất của khoa học.


614


MƠT SỐ VẤN ĐỀ HIỆN ĐẠI HĨA.

Xét một cách chung nhất, hiện nay trong khoa học pháp lý thế giới và Việt
Nam tồn tại hai luồng quan điểm về hộ thống pháp luật: quan điểm hẹp và quan
điểm rộng. Đối với những nhà nghicn cứu theo quan điểm hẹp, thì hệ thống pháp
luật đơn giàn chì là chính thể thống nhất các quy phạm pháp luật và hình thức biểu
hiện của nó, cịn theo quan điểm rộng, thì hệ thống pháp luật không chỉ bao gồm các
quy phạm pháp luật, hình thức biểu hiện của chúng mà trong đó cịn có cả các hiện
tượng pháp lý khác như văn hóa, ý thức pháp luật, thực tiễn pháp lý, các cơ quan
ban hành và thực hiện pháp lu ật...1
Tuy nhiên, cho đến nay, trong số những nhà nghiên cứu theo quan điểm rộng
về hệ thống pháp luật vẫn chưa thống nhất được nội hàm của khái niệm này rộng
đến dâu. Với tác giả, hệ thống pháp luật sẽ là hợp lý khi nó bao hàm các yếu tố sau :
1) hệ thống các quy phạm pháp luật (hệ thống cấu trúc); 2) hệ thống các nguồn luật;
3) văn hóa, ý thức và truyền thống pháp luật; 4) thực tiễn pháp luật và 5) tư tưởng
pháp luật chính thống2.
Vậy hệ thống pháp luật của nước ta tại sao phải hiện đại hóa?
Từ sau Đại hội VI của Đảng (1986) tới nay về cơ bàn hệ thống pháp luật của
nước ta qua từng năm đâ có nhiều thay đổi tích cực để phù hợp với u cầu mới.
Tuy nhiên, cơng bằng mà nói, những thay đổi nhiều khi m ang tính chắp vá, nhất
thời và chưa đồng bộ, thậm chí chồng chéo, thiếu tính tiên liệu. Chính vì vậy,
trong bối cành hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống của thể giới và đẩy
mạnh q trình tồn cầu hóa để tỉm kiếm cơ hội phát triển đất nước, hệ thống pháp
luật của chúng ta nhiều lúc đã tỏ ra không đáp ứng được u cầu trong tình hình
mới, khơng linh hoạt để đối phó với nhừng thay đổi có thể nói rất "chóng mặt" của
thế giới hiện đại.

Hội nhập và tồn cầu hóa ln đem đến cho chủng ta những cơ hội, nhưng
cũng tạo ra khơng ít thách thức cần phải đương đầu, Trong bổi cảnh đó thì "lệ làng"
rõ ràng khơng đáp ứng được yêu cầu mới, bời khi ra "biển lớn", chủ thể trong các
quan hộ xã hội, đặc biệt là quan hệ pháp lý thì khơng thể chỉ có "chủng ta" với nhau,
mà cịn cả "người ngồi" nữa. Dương nhiên, trong bối cảnh đó đem cái ta hay gọi là
"lệ làng" ra để nói lý thì khơng những khơng hợp tình mà đương nhiên cũng khơng
hợp cà lý nữa. Cịn nếu đem luật ra, thì luật của ta cũng phải phù hợp với tiêu chuẩn
chung hoặc chí ít cũng có thể chấp nhận được. Đó là trong trường hợp đem ra "xử",
còn trong điều kiện hiện nay. pháp luật luôn là công cụ hữu hiệu nhất để điều chỉnh

1,2. Xcm thêm: Luận án Tiến sỹ Luật học của Mai Văn Thắng, Hệ thống pháp luật Việt Nam
và hiện đại hóa hệ thong pháp luật Việt Nam, Stavropol, Nga, 2010.

615


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ T ư

xã hội nếu bản thân nó khơng hiện đại và phù hợp thì cũng sẽ khơng theo kịp hoặc
đánh mất các cơ hội của yêu cầu cần chạy đua trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay
và như thế có nghĩa là mất đi ý nghĩa của việc tham gia vào tiến trình tồn cầu hóa
và hội nhập quốc tế.
Một điểm nữa không thể không kể đến, đó là, từ trước tới nay, hệ thống pháp
luật của chúng ta hay chú trọng đến phát triển m à ít chú ý đến phát triển bền vững.
Chỉ mới khoảng gần thập niên trở lại đây cụm từ "phát triển bền vững" mới được
nhắc tới nhiều hơn và trong những năm gần đây nó đã được lựa chọn là mục tiêu có
tính chiến lược quốc gia. Và như vậy, rõ ràng hệ thống pháp luật của chúng ta chưa
có sự chuẩn bị đầy đủ để điều chỉnh xã hội hướng tới mục tiêu phát triển bền vừng.

3. Như thế nào là một hệ thống pháp luật bền vững?

Như đã nói ở trên, pháp luật sẽ khơng thể góp phần đưa xã hội tiến đến mục
tiêu phát triển bền vững nếu bản thân nó khơng bền vững hoặc thậm chí khơng có
các điều kiện để đảm bảo một sự phát triển bền vững.
Đã có nhiều cơng trinh nghiên cửu trong giới luật học bàn về các tiêu chí để
đánh giá sự hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt N am 1. Tuy nhiên, trong bối cảnh
hiện nay, những tiêu chí để đánh giá sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật là chưa
đủ, bởi bản thân thể nào là "hoàn thiện" cũng khó xác định, hơn nữa sự "hồn thiện"
được đánh giá nhiều khi có phần chủ quan và mang tính thời điểm.
Trong điều kiện của mục tiêu phát triển bền vững hiện nay, cần phải xác định
thế nào là một hệ thống pháp luật bền vững thì có phần hợp lý hơn. v ấ n đề, như đã
nói, nằm ở chỗ thật khó, một cách khách quan nhất, để xác định sự hoàn thiện của
hệ thống pháp luật. Hom nữa, xác định tiêu chí bền vững của một hệ thống pháp luật
sẽ phù hợp với mục tiêu phát ưiển bền vững mà nhiều quốc gia trong đó có nước ta
lựa chọn, và như vậy có nghĩa đó cũng là tiêu chí mang tính phổ biển, mục tiêu
chung cần hướng tới.
Theo quan điểm của tác giả, một hệ thống pháp luật bền vững phải là hệ thống
pháp luật mà ngoài những tiêu chí tính đồng bộ, tính phù hợp, tính khả thi, tính
minh bạch..., như nhiều tác giả đã đề cập, thì cần và nhất thiết phải có và nhẩn
mạnh tiêu chí "pháp luật của dân, do dân và vì dân".
Hệ thống pháp luật được coi là bền vững khi và chỉ khi nó phản ánh đúng
nhu cầu, lợi ích, mong muốn của người dân và được làm ra trên cơ sở ý chí của

1. Có nhiều nhà nghiên cứu luật học đã đăng tải nhũng cơng trình liên quan đến vấn đề này,
trong số đó đáng lưu ý nhất, là nhũng cơng trình cùa GS.TS. Lê Minh Tâm và GS.TSKH.
Đào Trí Úc.
616


MƠT SỐ VẤN ĐỀ HIÊN ĐẠI HĨA..


họ. Sẽ chẳng có được sự bền vừng nếu pháp luật không là hiện thân của ý chí
nhân dân, mà ngược lại là ý chí của một cá nhân hay một nhóm người. Pháp luật
một khi là đứa con tinh thần của người dân, là sản phẩm của dân, thể hiện ý chí
nguyện v ọn g cùa dân thì người dân sẽ ln ln có V thức thực hiện m ột cách tự

nguyện, khơng cần dạy bảo, khơng cần trấn áp, thậm chí họ sẽ "gọt dũa", "sửa
>ang", "dọn dẹp" cho nền pháp luật đó sáng hơn, đẹp hơn, hồn thiện hom và phù
hợp hơn. Ai cũng vậy, những thứ thuộc về mình thì mình sẽ nâng niu, trân trọng
và gìn giữ hom.
Một nền pháp luật như thế thử hỏi không bền vừng sao được?!

4.
Những thách thức đặt ra trong tiến trình hiện đại hóa hệ thống pháp
luật Việt Nam hiện nay
Hiện đại hóa hệ thống pháp luật để phù hợp với yêu cầu hội hập quốc tế và
phát triển bền vững là yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, tiến trình hiện đại hóa đang gặp
những thách thức to lớn mà nếu không giải quyết được ứiỉ sỗ khó có được thành quả
như mong muốn.
Cần phải nhận thức ngay rằng, toàn cầu hỏa và hội nhập quốc tế là xu thế tất
yểu và là cơ hội cho chúng ta. Tuy nhiên, vẩn đề là ở chỗ cả hai khái niệm ữên, đều
yêu cầu chúng ta phải từ bỏ nhiều thứ gọi là đặc trưng, phải tuân theo những quy
chuẩn, tiêu chuẩn chung mà những quy chuẩn, tiêu chuẩn đó thường được những kẻ
mạnh hơn, đến trước hơn đã xác lập.
Hội nhập và toàn cầu hóa có nghĩa chúng ta sẽ khơng tách rời khỏi thế giới,
xích lại gần hom với thế giới. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là hệ thống chính trị của
chúng ta cố nhiều phần khác với văn hóa chính trị cùa các nưởc phương Tây mà
trên nền tảng đó pháp luật tư sản đã ra đời. Du nạp pháp luật của các nước đó là
điều khó tránh khỏi bởi trong sân chơi chung của thế giới, tư tường pháp luật của
nhũng quốc gia đó đang giữ vị trí chù đạo. Sự khác biệt về văn hóa chính trị cũng sẽ
là thách thức lớn trên con dường du nạp pháp luật quốc tế (hay nói cách khác là hội

nhập pháp luật) của Việt Nam.
Thách thức là ở chồ, vẫn biết hội nhập là cần thiết, nhưng hiện nay hệ thống
pháp luật của chúng ta lại khơng có tư tưởng xun suốt mang tính học thuyết hay
nói cách khác là thiếu legal concept (hoặc legal doctrine) cho sự phát triển của hệ
thống pháp luật.
Khơng có một "legal concept", vậy nên, khi làm luật, người ta khơng có định
hướng tư tưởng làm nòng cốt chù đạo dẫn đến hiện trạng lộn xộn, chồng chéo cùa
hệ thống pháp luật như nhiều tác giả đã chi ra trong các cơng trình nghiên cứu của

617


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾỤ HỘI THẢO QUỐC TẾ LÀN THỨ T ư

m ình1. Thực ra, chúng ta đã có Chiến lược xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp
luật đến 2010 định hướng đến 20202. Tuy nhiên, đó là những giải pháp phần nào
mang tính giai đoạn và không được coi như là "concept" phát triển, chứ chưa nói
đến phát triển bền vững, để từ đó các chủ thể chiếu vào khi tiến hành hiện đại hóa
hệ thống pháp luật hay du nạp pháp luật.
Rõ ràng thách thức đầu tiên là thiếu "concept" phát triển hệ thống pháp luật.
Tuy nhiên, có được nó lại cũng chính là một thách thức khơng hề nhỏ, bởi để tìm ra
một giải pháp mà ở đó kết hợp được cả cái ưu việt của "chúng ta" và những ưu việt
của "người ta" để làm một hệ tư tưởng mới không phải là việc có thể làm được
ngay, đặc biệt trong bối cảnh tồn cầu hóa, khi mà những quy tắc của cuộc chơi hầu
như khơng bao giờ dành cho người đến sau.
Ngồi thách thức kể trên, trong tiến trình hội nhập hiện nay xuất hiện một vấn
đề cũng cần phải lưu tâm. "Hịa nhập chứ khơng hịa tan" là tiêu chí cũng là nguyên
tắc khi hội nhập. Tuy nhiên, làm thế nào để giữ vững được ngun tắc đó khơng hề
dễ, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa. Thực tế cho thấy lựa chọn giữa sự phát triển,
hội nhập và gìn giữ văn hóa truyền thống của dân tộc khơng phải dễ. Nêu hội nhập

mà làm cho tính dân tộc bị biến mất thì coi như thất bại. N hưng hội nhập nghĩa là
phải hi sinh một phần, phải nhượng bộ một phần, v ấ n đề là ở chỗ chúng ta phải giải
quyết: lựa chọn cái gì, bỏ cái gì để dung hòa được các mục tiêu và đảm bảo sự phát
triển bền vững? Bên cạnh đó, một vấn đề đặt ra là phải du nạp cái gì, sao cho nó
phù hợp với nhận thức và văn hóa pháp luật của người d â n ...
Ở đây cần nhấn mạnh rằng, mỗi người Việt Nam đang sinh sống trên mảnh đất
hình chữ s thì khó cỏ thể phủ nhận cái gốc "Á Đông” với nền văn minh lúa nước và
làng xã của mình. Cách hành xử ln bị quy định bởi truyền thống và điều kiện
sống. ít nhiều trong lối sống của người Việt, như nhiều nhà nghiên cứu văn hóa đã
chỉ rõ, thật khó lịng có thể thay đổi một sớm một chiều. N ếu để hiện đại hóa pháp
luật cho phù hợp với tiến trình tồn cầu hóa mà quên đi các đặc tính này liệu những
văn bản pháp luật hiện đại dù được công nhận là phù hợp với "phương Tây", với xu
thế chung của nhân loại thì liệu có "sống" được trong lịng người dân Việt Nam, hay

1. N hư trong sách chuyên khảo Góp phần bàn về cài cách p h áp luật Việt Nam hiện nay, Nxb.

Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 217, TS. Ngô Huy Cương có viết: "Hiến pháp năm 1992 cùa
nước ta thì mang màu sắc Hiến pháp Xơ viết, Bộ luật Hình sự 1999 - có màu sắc của Bộ
luật Hình sự Liên bang Nga. Luật Thương mại 1997 lại có màu sắc của Luật Thương mại
Pháp, còn Luật Thương mại 2005 - giống quan điểm về thương mại và hành vi thưcmg mại
cùa Mỹ..."
2. NQTW số 48/2005 của Bộ Chính trị.

618


MỘT SỐ VẤN ĐỀ HIỆN ĐẠI HÓA.

rộng hơn là trong xã hội của người Việt hay không? Chắc hẳn, đây cũng là một
thách thức không nhỏ?!

Những vật cản trong tiến trỉnh hiện đại hóa hệ thống pháp luật của chúng ta
cịn có thể rất nhiều, nhưng để có thể tiến kịp với trào lưu chung của nhân loại mà
vẫn giữ được bản sắc và định hướng của mình thì hiện đại hóa là cần thiết và
khơng thể tránh khỏi. Mọi giải pháp để khắc phục những thách thức đưa ra vào lúc
này đều khơng đầy đủ và thiếu tính thuyết phục bởi ngay từ đầu tác giả đã xác
định đó là việc khơng hề đơn giản và trí tuệ của số ít người chắc chắn khơng bao
giờ có thể giải quyết m ột cách tường tận được những thách thức đó. Tuy nhiên, có
thể làm dược và góp phần thúc đẩy q trình hiện đại hóa hệ thống pháp luật Việt
Nam trong bối cành hiện nay và đảm bảo định hướng phát triển bền vững - đó là
Hiến pháp.
Hiến pháp là rường cột của cà hệ thống pháp luật và chính vì vậy, khẳng định
vai trị của Hiến pháp, xác định rõ được "tinh thần cốt lõi" của Hiến pháp là vấn đề
có tính sống cịn đến cả hệ thống pháp luật.
Với tác giả, nhân dân luôn là người sáng suốt nhất. Họ là những người mang
trong mình cả một nền văn minh từ Văn Lang, Âu Lạc đến Đại Việt rồi thời đại Hồ
Chí Minh, họ chảy trong mình dịng máu Á Đơng với lối sống trọng tình, tinh thần
tập thể và luôn anh dũng bất khuất trước mọi kẻ thù. Họ luôn sẵn sàng hi sinh để
bảo vệ làng, bảo vệ đất nước cùng nền văn hóa, giống nòi, nhưng cũng rất thửc thời
và sẵn sàng đổi mới để phát triển, du nạp những cái hay cái đẹp từ bên ngoài... Từ
thế hệ này qua thế hệ khác, họ đã làm nên mấy nghìn năm lịch sử oai hùng và
khơng một thế lực nào có thể đè bẹp. Chính nhân dân, chứ khơng ai khác đã làm
nên điều đó.
Sửa đổi Hiến pháp là sự kiện trọng đại mang tính chất lịch sử. Tồn cầu hóa và
hội nhập để phát triển đất nước là cơ hội nhưng đi kèm với nó ln là thách thức,
sửa đổi Hiến pháp phải có vai trị quan trọng của người dân và phải coi nhân dân là
giá trị căn bản và cốt lõi của Hiến pháp. Thiết nghĩ, chỉ có như vậy thì người dân
mới thi hành pháp luật m ột cách nghiêm túc nhất, gìn giữ nó như là giữ gìn của cải
của chính mình và nâng niu nó như nâng niu "đứa con tinh thần" của mình. Một khi
- Hiến pháp, nền tảng của cả hệ thống pháp luật, đã bền vững thì hệ thống pháp luật
nói chung mới thật sự đi vào tạo dựng sự phát triển bền vững.


619



×