Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Thư viện tạ quang bửu với công tác đào tạo các kỹ năng cho người dùng tin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.32 KB, 6 trang )

THƯ VIỆN TẠ QUANG BỬU VỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO
CÁC KỸ NĂNG CHO NGƯỜI DÙNG TIN
ThS Nguyễn Thị Thu Thủy
PGĐ. Thư viện Tạ Quang Bửu - Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Mở đầu
Khái niệm về kỹ năng thông tin (Information literacy) đã được đề cập đến từ
những năm 70 của thế kỷ trước, song là một khái niệm khá mới mẻ trong hoạt động
thông tin – thư viện ở Việt Nam trong những năm gần đây. Theo Hiệp hội Thư viện Hoa
Kỳ – ALA (1989), đó là khả năng nhận biết được nhu cầu thông tin của bản thân, cũng
như khả năng định vị, đánh giá và sử dụng hiệu quả thơng tin tìm được. Sự xuất hiện
của khái niệm này gắn liền với xu thế bùng nổ thông tin tại thời điểm đó. Các nhà khoa
học, mà chủ yếu là các nhà giáo dục, các chuyên gia thông tin – thư viện, hết sức quan
tâm đến một lĩnh vực tri thức giúp con người làm chủ thế giới thông tin, làm chủ nguồn
tri thức của nhân loại. Kỹ năng thông tin (KNTT) là khả năng nhận biết nhu cầu thơng
tin, tìm kiếm, tổ chức, thẩm định và sử dụng thông tin trong việc ra quyết định một cách
hiệu quả, cũng như áp dụng những kỹ năng này vào việc tự học suốt đời. Có thể coi
KNTT là một tổng hòa của các khối tri thức và kỹ năng liên quan đến việc xác định nhu
cầu thông tin, định vị nguồn tin, thẩm định nguồn tin, tổ chức nguồn tin, sử dụng nguồn
tin một cách có hiệu quả trong hoạt động của mình.
Từ những nhận thức về tầm quan trọng của KNTT và yêu cầu nâng cao chất lượng
giáo dục trong bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam nói chung và trường Đại học Bách
khoa Hà Nội (ĐHBK Hà Nội) nói riêng, Thư viện Tạ Quang Bửu đã từng bước đưa các
kiến thức đào tạo KNTT trongchương trình đào tạo người dùng tin (NDT) thơng qua
khóa đào tạo “ Kỹ năng sử dụng thư viện hiệu quả”, cho sinh viên mới nhập trường. Sau
nhiều năm thực hiện, hoạt động này đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ nhưng
cũng có khơng ít những mặt tồn tại và hạn chế cần khắc phục. Trong khuôn khổ bài viết
này, tác giả sẽ phân tích một số điểm mạnh, điểm yếu về nội dung, và hình thức triển
khai khóa học; từ đó đề xuất các giải pháp giúp hồn thiện hơn nhằm góp phần thúc đẩy
chất lượng đào tạo của trường ĐHBK HN.
Thực trạng công tác đào tạo


Tại Thư viện Tạ Quang Bửu, hoạt động đào tạo KNTT cho người dùng tin được
lồng ghép trong chương trình đào tạo người dùng tin vào mỗi đầu niên học.Khi sinh
viên vào trường sẽ được tham gia một lớp đào tạo “Kỹ năng sử dụng Thư viện hiệu
quả”. Chương trình bao gồm các nội dung sau:
Phần 1- Nội quy của Thư viện
Phần 2- Khai thác các dịch vụ của thư viện
34


Phần 3- Tra cứu tài khoản bạn đọc
Phần 4- Tìm kiếm và khai thác thông tin từ xa
Phần 5: Trao đổi
Người dùng tin sẽ được tập trung khoảng 500- 600 người trên hội trường. Cán bộ
Thư viện (CBTV) sẽ đưa các nội dung trên đến với người dùng tin trong thời lượng
khoảng 180 phút. Hàng năm, Thư viện Tạ Quang Bửu có 10 cán bộ tham gia giảng dạy
cho khoảng 6000 sinh viên mới nhập trường trong vòng 10 buổi. Trong buổi học, sinh
viên sẽ được phát bài giảng để theo dõi nội dung được thuận tiện. Cán bộ thư viện sẽ sử
dụng máy chiếu để dễ dàng đưa các hình ảnh minh họa kèm theo. Sau mỗi buổi học,
sinh viên sẽ phải làm bài kiểm tra, kết quả đạt yêu cầu sinh viên mới được cấp quyền sử
dụng thư viện, nếu không đạt sẽ phải học lại đến khi đạt. Sau một thời gian khoảng 1-2
tháng Thư viện sẽ tiến hành phát phiếu khảo sát để tìm hiểu về chất lượng các mặt của
khóa đào tạo.
Nhận xét về cơng tác đào tạo
+ Điểm mạnh
- Về qui mô: Thư viện đã đào tạo hầu như toàn bộ số lượng sinh viên ngay từ khi
mới nhập trường. Việc này sẽ tạo điều kiện cho sinh viên yêu thích thư viện, chăm lên
thư viện học từ đó tạo tiền đề cho sinh viên học tập tốt. Theo kết quả quan sát và thống
kê, sau mỗi khóa học lượng sinh viên lên thư viện rất đông, lượng sinh viên lên thư viện
năm sau tăng hơn năm trước (Quý 1, năm 2016 tổng kết phịng mượn giáo trình đã có
41.214 lượt mượn trả sách tại thư viện chiếm hơn 50% so với tổng kết cả năm 2015).

- Người dùng tin có trình độ đồng đều: đã tốt nghiệp trung học phổ thơng có học
lực khá giỏi.Với sức trẻ, năng động, sáng tạo, có kinh nghiệm, ln sẵn sàng tiếp thu cái
mới.
- Về kinh phí: Hàng năm, Đại học Bách khoa Hà Nội đầu tư khoảng 70.000.000
triệu đồng cho công tác này. Đây là sự đầu tư đáng kể đảm bảo cho nhiều khâu công
việc của hoạt động đào tạo người dùng được chuẩn bị kỹ lưỡng. Trang thiết bị được
nâng cấp cũng như trang bị hiện đại hơn đạt hiệu quả cao, công tác đào tạo người dùng
tin ngày càng phát huy vai trò, góp phần quan trọng vào việc khẳng định vai trị của thư
viện trong việc học tập, nghiên cứu của sinh viên, giáo viên, cán bộ nghiên cứu.
- Hoạt động đào tạo NDT đã diễn ra thường xuyên trong nhiều năm nên các cán bộ
thực hiện có kinh nghiệm. Đội ngũ cán bộ thư viện hiểu được tầm quan trọng của công
tác đào tạo người dùng tin đối vớisinh viên, trong quá trình học tập và nghiên cứu.cán
bộ thư viện là những người nhiệt tình với cơng việc ln giúp đỡ, nhiệt huyết trong
công việc. Qua hàng năm, bài giảng được chỉnh sửa nhiều lần, kế hoạch được xây
dựnglại ngày càng hồn thiện và phong phú về nội dung, ln gắn liền với thực tiễn, dễ
hiểu dễ thực hiện.

35


- Về nhân lực: CBTV tham gia giảng dạy có kỹ năng tốt, là người có trình
độchun mơn thơng tin thư viện, Công nghệ thông tin,… được tham gia tập giảng
nhiều lần, luôn bồi dưỡng chuyên môn nghề nghiệp và khả năng thu hút người học nên
đãcung cấp cho người dùng tin những kiến thức cần thiết như: nguyên tắc cơ bản trong
việc tìm kiếm, đánh giá và sử dụng các kết quả của q trình tìm tin.
- Ngồi ra thư viện cịn có đội ngũ cán bộ kỹ thuật viên có trình độ chun mơn có
khả năng xử lý máy móc một cách nhanh chóng, nghiên cứu cài đặt phần mềm, chạy
chương trình tốt cho sinh viên thực hành, sử dụng trong quá trình học.Tạo điều kiện cho
các học viên co thể tiếp cận các thiết bị tiên tiến cũng như các phần mềm tiện ích trong
việc tra cứu, tìm kiếm thơng tin.

- Về nội dung: Có tới 96% sinh viên K60 đánh giá phù hợp về nội dung và 88%
đánh giá phù hợp về thời lượng (Báo cáo kết quả khảo sát năm 2015). Như vậy, nội
dung chương trình đào tạo người dùng tin hiện nay của Thư viện Tạ Quang Bửu đã khái
quát được những nội dung cơ bản nhất đối với mỗi NDT. Nội dung được đề cập trong
bài theo trật tự lozic. Nội dung đầu của bài giảng là phần giới thiệu khái quát về thư
viện tiếp từ việc hiểu về thư viện rồi các dịch vụ về thư viện rồi hướng dẫn tìm, sử dụng
và khai thác cuối cùng kỹ năng thông tin. Bài giảng mang tính hệ thống trật tự độc lập
và ln được hoàn thiện phù hợp với học viên khi tham gia khóa đào tạo này.
- Từ hình thức đến nội dung đều có sự chuẩn bị vì vậy hiệu quả của công tác đào
tạo đem lại khá đáng kể. Sau mỗi khóa học các sinh viên có được những thơng tin, kiến
thức và kỹ năng: học viên nắm bắt được thơng tin chung về thư viện mình đang sử dụng,
nằm bắt được các dịch vụ thư viện hiện nay có trong nhà trường, tiếp thu cho mình các
kỹ năng như: tra cứu tài liệu trên Opac của nhà trường cũng như các thư viện khác, kỹ
năng tìm kiếm thơng tin, cách tìm các bài báo, tạp chí hiện có…
+ Điểm yếu
Tuy Thư viện Tạ Quang Bửu đã phát huy những mặt mạnh trong công tác đào tạo
NDT, tuy nhiên hiện nay hoạt động này vẫn còn tồn tại những mặt yếu kém:
- Về qui mô: Thư viện hầu hết chỉ mở lớp hướng dẫn NDT vào đầu năm học do đó
với số lượng sinh viên lên tới 500- 600 emtrong một lớp học sẽ khó kiểm sốt. Nhiều
bạn ngồi xa sẽ khó theo dõi bài giảng trên máy chiếu hoặc khó nghe được phần giảng
bài của người dạy cũng như khó khăn giao lưu.
- Phương thức đào tạo: Thư viện chủ yếu là tổ chức đào tạo trên hội trường với
thời gian ít chỉ từ 3 tiếng. Phương thức thực hiện chủ yếu là giảng dạy cho sinh viên chứ
ít có sự trao đổi với các sinh viên.Do tổ chức trong hội trường nên việc tương tác giữa
người dạy và người học cịn gặp khó khăn. Với mỗi lớp học với 500- 600 sinh viên,
trong đó chỉ có khoảng 15 phút dành cho việc trao đổi, nên sự truyền đạt kiến thức gần
như chỉ mangtính một chiều.
- Về nhân lực giảng dạy: Đội ngũ cán bộ dành cho công tác đào tạo người dùng tin
36



cịn thiếu, chỉ có 10 người tham gia đào tạo cho 6000 sinh viên... Cán bộ thư viện chưa
có trình độ về sư phạm dẫn đến đơi khi có CBTV giảng dạy tẻ nhạt thiếu hấp dẫn người
nghe. Số lượng cán bộ có khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ trong giao tiếp với
người dùng tin là sinh viên nước ngoài và trong việc khai thác nguồn tin trên các CSDL
nước ngồi cịn ít.
- Về nội dung: Tuy được người dùng tin đánh giá cao nhưng thư viện đã nhận thấy
chương trình đào tạo người dùng tin chưa phong phú, trong nội dung bài giảng đơi chỗ
cịn sơ sài. Chưa chi tiết về cách tra cứu OPAC và một số CSDL của thư viện.Đánh giá
một cách tổng thể nội dung chương trình đào tạo mới dừng lại ở việc hướng dẫn sinh
viên khai thác các dịch vụ thư viện và phát triển cho NDT kỹ năng tra cứu thông tin.
Những nội dung nhằm phát triển cho sinh viên kỹ năng đánh giá và sử dụng thông tin
gần như chưa được đề cập.
- Về hình thức tổ chức: các khóa đào tạo người dùng tin còn đơn giản, mới chỉ
dừng lại ở các lớp tập huấn chưa có nhiều hình thức tổ chức khác: online,...
4. Một số dự kiến đổi mới công tác đào tạo trong tương lai
+ Đổi mới việc tổ chức hoạt động
* Đa dạng hóa các hình thức đào tạo
Hình thức đào tạo đóng vai trị quan trọng trong công tác đào tạo KNTT tại các
trường Đại học. Hình thức giảng dạy sinh động gây ấn tượng là một trong những nhân
tố then chốt giúp truyền tải hiệu quả lượng kiến thức đến.Vì vậy để đạt hiệu quả cần đa
dạng hóa các hình thức đào tạo. Như:Nói chuyện chuyên đề, tuyên truyền sách mới, hội
nghịbạn đọc, sử dụng trang web, quảng bá, giới thiệu về hoạt động đào tạo người dùng
tin tại thư viện bằng các biểu ngữ,.. để nắm bắt nhu cầu của người dùng tin một cách sát
thực hơn nữa.
* Giảm tải số lượng sinh viên trong một buổi học
Ta có thể thấy nếu để một buổi học tới 500- 600 NDT sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả
của hoạt động này. Do đó các thư viện nên giảm số lượng NDT trong một buổi học. Số
lượng phù hợp nên từ 150- 200 NDT. Bởi nếu đông quá sẽ làm giảm chất lượng tiếp thu.
Một giáo viên khó có thể giao lưu với người học bằng các cử chỉ phi ngôn ngữ để làm

cho buổi học hấp dẫn khi người dậy phải quản quá đông người học.
+ Đổi mới nội dung chương trình
Nội dung bài giảng đào tạo người dùng tin chưa phong phú. Trong nội dung bài
giảng nên bổ sung thêm một phần kiến thức tun truyền cho văn hóa đọc, lợi ích của
thư viện và phương pháp đọc hay…. Như chúng ta thấy ấn tượng ban đầu là rất quan
trọng. Nếu ngày đầu nhập học NDT được giáo dục thêm về văn hóa đọc, lợi ích của thư
viện với việc học thì hiệu quả của khóa học sẽ cao hơn. Những ích lợi đó sẽ làm nâng
cao công tác đào tạo của trường.
37


Việc hướng dẫn khai thác và trình bày thơng tin, cung cấp thơng tin về bản quyền
và sở hữu trí tuệ, kỹ năng phân tích tìm kiếm các thư viện chưa chú trọng. Sinh viên ít
được thực hành ngay tại buổi giảng dạy.Như vậy hiệu quả đem lại không cao, việc
giảng dạy chỉ mang tính lý thuyết. Cần bổ sung thêm phần giao lưu giữa sinh viên mới
với các sinh viên đã tham gia học tập tại thư viện các năm trước. Nguồn sinh viên chăm
lên thư viện lấy ở danh sách NDT tích cực của thư viện.
Bổ sung thêm nhiều thơng tin về bản quyền và sở hữu trí tuệ: những thông tin được
truyền đạt về nguyên tắc truy cập công bằng thông tin, tôn trọng ý kiến và kiến thức của
người khác và tiếp thu những đóng góp của họ. Điều này sẽ giúp cho quá trình học tập
nghiên cứu của NDT sau này khơng gặp phải tình huống vi phạm do khơng nắm được
luật.
+ Nâng cao trình độ nhân lực tham gia đào tạo
Tuyên ngôn năm 1994 của UNESCO về thư viện công cộng đã nhấn mạnh vai trò
của cán bộ thư viện: “Cán bộ thư viện là mơi giới tích cực giữa người dùng và nguồn
lực. Việc đào tạo nghề nghiệp và nâng cao trình độ chun mơn của cán bộ thư viện là
địi hỏi tất yếu để nâng cao trình độ đào tạo”. Mặc dù cán bộ đào tạo NDT chiếm số
lượng ít nhưng để phục vụ tốt cán bộ thư viện cần trang bị những kiến thức về năng lực
nghề nghiệp, về phẩm chất đạo đức.Ngồi những u cầu trên, cán bộ cần có kỹ năng
phân tích và nghiên cứu, biết các kiến thức về quản lý các cơ quan thư viện thông tin,

giải quyết các vấn đề về kinh tế và công nghệ của hoạt động thư viện cũng như nắm bắt
được các vấn đề về pháp lý, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước có
liên quan đến nghề nghiệp. Cần thường xuyên cử các cán bộ tới các thư viện trong nước
và ngoài nước để học hỏi kinh nghiệm. Đồng thời cần có những biện pháp khuyến khích
vật chất, tinh thần để tăng thêm trách nhiệm và lòng yêu nghề cho họ.
+ Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động đào tạo
CBTV tham gia hoạt động đào tạo NDT cần được hướng dẫn cách sử dụng các
phần mềm tiện ích như Microsoft Office, Blog, Bookmark… để bổ trợ cho việc thu
thập, tổ chức, lưu trữ, trình bày và chia sẻ thông tin một cách hiệu quả.
+ Xây dựng mối quan hệ giữa cán bộ thư viện với giảng viên đại học
Xây dựng một mối liên hệ chặt chẽ và tạo mối quan hệ hai chiều giữa giáo viên và
cán bộ thư viện, trong việc đào tạo người dùng tin. Giáo viên và cán bộ thư viện cần
thống nhất trong việc xác định và đáp ứng nhu cầu học tập của sinh viên. Thông qua các
hoạt động này cán bộ thư viện sẽ hiểu hơn về nội dung chương trình giảng dạy, các bài
tập chủ đề, mà sinh viên phải tìm hiểu, nghiên cứu, qua đó cán bộ thư viện nắm bắt
được nhu cầu của sinh viên, nhằm điều chỉnh, bổ sung tài liệu cũng như xác định các
nguồn tài liệu phù hợp với nhu cầu thông tin của sinh viên. Đồng thời qua trao đổi với
cán bộthư viện, các CSDL sách, tạp chí chuyên ngành nhằm nâng cao trình độ chun
mơn và cập nhật kiến thức mới phục vụ quá trình dạy học. Cán bộ thư viện hướng dẫn
38


sinh viên kỹ năng sử dụng thư viện, sử dụng thông tin gắn liền với nội dung môn học và
sinh viên được dạy ở trên lớp. Như vậy, cần phải có sự cộng tác giữa cán bộ thư viện
với các giáo viên để thiết lập được một phương thức hoạt động của thư viện sao cho
sinh viên học được cách trở thành những người biết tìm kiếm đúng thơng tin, phù hợp
với nội dung chương trình học tập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu
1. Trần Thị Ánh (2012), Công tác đào tạo người dùng tin tại thư viện Quốc Gia

Việt Nam: Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Văn Hóa Hà Nội, Hà Nội
2. Nguyễn Xuân Dũng (2012), “ Những nét mới trong cơng tác phục vụ bạn đọc
giai đoạn (2007-2012)”, Tạp chí thư viện Việt Nam, Số 3.
4. Cung Thị Thúy Hằng (2011), Nhu cầu tin và khả năng đáp ứng thông tin cho
người dùng tin tại Thư viện Đại học Hà Nội,Luận văn thạc sĩ, Đại học Văn Hóa Hà Nội,
Hà Nội.
5. Trương Đại Lượng (2013) Tập bài giảng Dịch vụ thơng tin thư viện, Trường Đại
học Văn Hóa Hà Nội, Hà Nội.
6. Trương Đại Lượng (2013), “ Đội ngũ cán bộ thư viện tham gia đào tạo kiến thức
thông tin tại một số thư viện Đại học ở Việt Nam: thực trạng giải pháp”.- Tạp chí thư
viện Việt Nam, Số 6.
7. Nguyễn Thị Mai (2010), Tìm hiểu cơng tác đào tạo người dùng tin và nhu cầu
về kiến thức thông tin của sinh viên trường Đại học sự phạm Hà Nội: Khóa luận tốt
nghiệp, Đại học Văn Hóa Hà Nội.
8. Nguyễn Ngọc Sơn (2011), Phát triển kiến thức thông tin cho sinh viên trường
Đại học Bách khoa Hà Nội,Luận văn thạc sĩ, Đại học Văn Hóa Hà Nội, Hà Nội.
9. Dương Thị Thu Thủy(2013), Phát triển khiến thức thông tin cho sinh viên
trường đại học Hà Nội: khóa luận tốt nghiệp, trường Đại học Văn hóa Hà Nội)
10. Nguyễn Thị Thủy (2012), Nâng cao chất lượng công tác đào tạo người dùng
tin tại Thư viện Đại học Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Đại học Văn Hóa Hà Nội, Hà Nội.
Trang web:
11. />12. Http://www.informationliteracy.org.uk/

39



×