Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

Tư tưởng người việt nam thời kỳ tiền sử sơ sử qua di tích khảo cổ học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12 MB, 190 trang )

Đ Ạ I H Ọ C QUỐC G IA H À N Ộ I

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VẪN


m



u

ĐỂ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC c ơ BẢN

TÊN ĐỂ TÀi

T ư TƯỞNG NGƯỜI VIỆT NAM
THỜI KỲ TIỂN SỬ, Sơ SỬ
QUA DI TÍCH KHẢO c ổ HỌC
MÃ SỐ: CB.03.29

Chủ trì :
ĐA I H O C Q U Ố C G IA HẢ N ỏ l
TRUNG TAM THÕNG TIN TNU ViẺN

THS TRÁN THỊ HẠNH

Cán bộ tham gia: GS.TS LÊ VĂN QUÁN

I)T /

HÀ NỘI 2005




MỤC LỤC

MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài...................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu.......................................................................... 5
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài...........................................................5


'



»

4. Phương pháp nghiên cứ u ................................................................... 5
NỘI DƯNG...............................................................................................................9

Chương 1 ............................................................................ 9
ĐẤT NƯỚC, CON NGƯỜI VIỆT NAM THỜI TIEN sử , sơ s ử ................ 9

1.1. Đất nước................................................................................ 9
1.2 Con người............................................................................. 12

Chương II.......................................................................... 21
TƯ TƯỞNG CỦA NGƯỜI VIỆT Ở THỜI TIỀN sử , sơ s ử ...................... 21

2.1. Tư tưởng của người tiền sử ở Việt nam..........................21
2.1.1 Tưtưỏng kinh tế ........................................................................... 21

2.1.2 Tư tưởng văn hóa - xã h ộ i.....................................................28

2.1.2.1 Tư tưởng tổ chức thị tộc, bộ lạc, công xã nguyên thủy.... 28
2.1.2.2 Tư duy nghệ th u ậ t................................................ 29
2.1.2.3 Tư duy trừu tượng toán học................................. 32
2.2 Tư tưởng của cư dân Việt Nam buổi đầu dựng nước ... 37
2.2.1. Tư tưởng chính trị xã hội.........................................................38
2.2.2 Tư tưởng kinh tế ........................................................................... 41
2.2.3 Tư tưởng quân sự ........................................................................45
2.2.4 Tư tưỏng văn hoá nghệ thuật............................................... 47
2.2.5 Tư duy về vũ trụ...........................................................................53


KẾT LUẬN.......................
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHU L U C .........................


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mấy ngàn năm tồn tại và phát triển của dân tộc ta, nhân dân ta vẫn
có một cuộc sống tinh thần phong phú, độc lập, sáng tạo không kém bất cứ
một nước nào có nền văn hiến lâu đời. Cuộc sống tinh thần đó chưa được hệ
thống hố, tổng kết lại thành những nguyên lý, phạm trù, quy luật... Đã có
nhiều nhà nghiên cứu viết về lịch sử tư tưởng Việt Nam nhưng bản thân các
tác giả cũng nhận thấy cơng trình của họ chưa hồn chỉnh.
Chúng tơi bắt tay vào cơng việc này là bắt đầu công việc ở một mức độ
nào đó, trên một yêu cầu nhất định và thiết thực như là khởi đầu.Cơng việc
thực sự có ý nghĩa này gặp phải rất nhiều khó khăn.
Thứ nhất, tư tưởng xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, nó chịu sự quyết

định của tồn tại xã hội. Hình thái ý thức lồi người khơng thể tồn tại một cách
đơn độc tách khỏi xã hội được mà phải là sự phản ánh đời sống thực của loài
người trong xã hội, đồng thời bản thân những hình thái ý thức, theo nguyên lý
phải thay đổi để thích ứng với những thay đổi của tồn tại xã hội, cũng phát
triển rất sinh động, có tính năng động, chứ khơng phải một cái gi cứng đờ,
máy móc. Có hiểu như vậy, mới thấy rõ mọi tư tưởng đều bắt nguồn từ bản
thân cơ cấu của xã hội, đều quy định bởi sức mạnh của xã hội, bởi những quan
hệ kinh tế giữa người và người. Ở Việt Nam , cơ sở xã hội cho việc hình thành
tư tưởng cịn đang là vấn đề tranh cãi. Sự phân kỳ xã hội Việt Nam còn theo
nhiều quan điểm khác nhau. Các tác giả của bộ sách “Lịch sử tư tưởng Việt
Nam” của Viện triết học thì kết hợp các mốc là hình thái kinh tế - xã hội với
các mốc là sự kiện chính trị -x ã hội lớn trong lịch sử làm cơ sở để phân kỳ từ
đó nghiên cứu cơ sở kinh tế-xã hội của tư tưởng.
GS. Phan Huy Lê cho rằng từ thời Hùng Vương, An Dương Vương trờ đi,
nước ta bước vào xã hội phân hóa giai cấp sơ kỳ với kết cấu kinh tế-xã hội đặc
thù của Phương Đông (phương thức sản xuất châu á). Trên nền tảng của
Phương thức sản xuất này, quan hệ sản xuất phong kiến dần dần nảy sinh và
1


dẫn đến việc xác lập chế độ phong kiến trung ương tập quyền chun chế theo
mơ hình Trung Hoa ở thế kỷ XV. Như vậy ở Việt Nam , không có hình thái
kinh tế- xã hội chiếm hữu nơ lộ.
Theo GS Trần Quốc Vượng, từ thế kỷ XIX trở về trước, xã hội Việt Nam
là một xã hội tiểu nông truyền thống nằm trong khung cảnh của phương thức
sản xuất châu á. Do vậy ở Việt Nam hình thái kinh tế- xã hội phong kiến cũng
khơng hồn tồn.
PGS.TS Nguyễn Hùng Hậu cho rằng xã hội Việt Nam là một xã hội phát
triển khơng bình thường, nhà nước Văn Lang ra đời trong khi kết cấu cộng
đồng nguyên thủy chưa bị thủ tiêu. Sau đó, cộng đồng người Việt trải qua

hàng chuc thế kỷ chống thiên tai, đặc biệt là địch họa nên cấu trúc của nền
kinh tế- xã hội cũng phát triển không đầy đủ, không giống các xã hội phương
Tây trung cổ.
Theo chúng tôi, lịch sử dân tộc Việt Nam cũng như lịch sử của các dân
tộc có nền văn minh trên thế giới , cũng trải qua các thời kỳ tiền sử, sơ sử, cổ
đại trung đại, cận đại và hiện đại. Tuy nhiên do điều kiện địa tự nhiên- địa xã
hội nên chúng ta ở trong khu vực ảnh hưởng, chi phối của các nền văn minh
lớn của phương Đông, của phương thức sản xuất châu Á mà điểm nổi bật là sự
tồn tại của chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất và sự tồn tại lâu dài của chế
độ quân chủ chuyên chế. Nhà nước được hình thành khơng phải do sự biến đổi
của lực lượng sản xuất, hạ tầng cơ sở mà là do chinh phục tự nhiên, chống
ngoại xâm nên trong một giai đoạn lịch sử ta có thể thấy sự tồn tại đan xen tới
mức khó phân biệt của các hình thái kinh tế cũ - mới, của các kết cấu giai cấp
cũ- mới. Do vậy, khi nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam ta có thể dựa theo
sự phân kỳ niên đại của các nhà sử học, từ đó tìm ra đặc điểm kinh tế-xã hội ở
thời kỳ đó trong mối quan hệ với các thời kỳ trước và sau. Từ cơ sở kinh tế-xã
hội như vậy, ta tiếp tục tìm cấu trúc và đặc điểm hệ tư tưởng.Đề tài này, chúng
tôi muốn đi vào nghiên cứu giai đoạn đầu tiên trong chặng đường dài của lịch
sử tư tưởng dân tộc

2


Thứ hai, tồn tại xã hội đó đã quy định những nét đặc thù của tư tưởng,
làm cho nội dung, hình thức thể hiện của lịch sử tư tưởng Việt Nam có những
nét riêng biệt, khác với triết học Trung Quốc, triết học Ấn Độ cổ đại, là những
nền triết học có ảnh hưởng nhiều tới triết học Việt Nam trong lịch sử. Cũng
như nhiều người đã thấy sự khác biệt giữa tư duy phương Tây và tư duy
phương Đông, nhưng trong bản thân hai dân tộc phương Đông là Trung Quốc
và Ấn Độ cũng lại có tư duy - tư tưởng hồn tồn khác biệt nhau. Chẳng hạn,

“ta có thể thấy người Hán cổ không ưa đặt các vấn đề bản thể luận mà chú ý
trước hết là các vấn đề nhân sinh quan. Tất nhiên, một vài tư tưởng thơ sơ về
bản chất thế giới cũng có thể tìm thấy trong Chu Dịch, trong Hồng Phạm
(Thượng thư)... Nhưng người Hán cổ đại rõ ràng là ưa nói chuyện “người hơn
nói chuyện trời”.
Mãi về sau, các vấn đề bản thể luận mới được trình bày trong Tống Nho,
đặc biệt là ở Chu Hi, với “lý” và “khí” và “Thái cực”. Nhưng đối với Chu Hi
thì ảnh hưởng của Phật giáo đã quá rõ ràng. Cái hình ảnh “trăng rọi mn
sơng” (nguyện ấn vạn xun) và Chu Hi thích dùng để ví với “thái cực”... Đối
với Chu Hi thì Thái cực, rốt cuộc cũng là thuộc tính của đạo đức. Tinh hình đó
khiến ta nghĩ rằng dường như mỗi khi người Hán bàn đến các vấn đề bản thể
luận lúc đó, ít nhiều chịu ảnh hưởng của người Ấn. Ngược với người Hán,
người Ấn cổ đại say mê với chuyện trời, chuyện vũ trụ”. Mỗi một dân tộc có
những đặc điểm tư duy - tư tưởng riêng. Đặc điểm tư duy - tư tưởng của một
dân tộc là được quy định bởi lịch sử dân tộc đó. Vì vậy, muốn tìm hiểu đặc
điểm của tư tưởng Việt Nam, cần phải tìm hiểu đặc điểm của lịch sử Việt
Nam. Lịch sử Việt Nam luôn phản ánh cuộc chiến tranh chống ngoại xâm.
Những cuộc chiến tranh liên miên đã ảnh hưởng rất lớn đến đặc điểm lịch sử
phát triển của xã hội Việt Nam. Do những cuộc chiến tranh đó mà đời sống xã
hội của Việt Nam trong lịch sử không giống với Trung Quốc và Ân Độ, cho
nên các hình thức tư tưởng trong hệ ý thức Việt Nam khơng hồn toàn giống

3


với Trung Quốc và Ân Độ, thậm chí lại càng không giống với phương Tây. Do
phải liên tục đấu tranh để bảo vệ và giành quyền độc lập dân tộc, đồng thời,
lại phải chú ý đến vấn đề xây dựng triều đại và ổn định đời sống xã hội, ổn
định cuộc sống con người, cho nên tư tưởng chính trị - xã hội phát triển hơn
cả, và trong tư tưởng chính trị - xã hội này thì tư tưởng u nước là nổi bật và

có giá trị hơn hết, sau đó là những tư tưởng khác có liên quan.Điều đó lý giải
vì sao trong cấu trúc hệ tư tưởng Việt Nam, các học giả ít khi kết cấu tư tưởng
kinh t ế , tư tưởng khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, tư duy về vũ trụ như
một bộ phận độc lập cấu thành. Chúng tôi cho rằng như thế cũng chưa hòan
thiện khi nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam, cần phải được bổ sung tư
liệu và các kiến giải phù hợp. Do vậy, trong đề tài này, chúng tôi mạnh dạn
đặt vấn đề nghiên cứu tư tưởng kinh tế, thời tiền sử, sơ sử như là bước khởi
đầu.
Thứ ba, chúng tôi nghiên cứu, viết lịch sử tư tưởng Việt Nam trong tình
hình các tác phẩm của ông cha ta để lại với nội dung văn, sử, triết cịn chưa có
sự tách biệt. Những mặt ảnh hưởng như tu thân, tề gia, trị quốc, âm dương,
ngũ hành... khơng hồn tồn gắn với vũ trụ quan, nhận thức luận như tư tưởng
triết học phương Tây.Trong đề tài này, chúng tơi lại càng gặp khó khăn hơn
khi đó lại là thời kỳ lịch sử dân tộc Việt Nam chưa thành văn. Chúng tơi hồn
tồn dựa vào thành tựu của ngành khảo cổ học.
Biết trước khó khăn nhưng chúng tơi vì tính cấp thiết của đề tài nên vẫn
cố gắng thực hiện. Đề tài sẽ nhằm phục vụ học viên, sinh viên học tập tốt môn
Lịch sử triết học, Lịch sử Triết học Phương Đông cụ thể là Lịch sử tư tưởng
Việt Nam, đồng thời, giúp đông đảo các bạn u thích mơn lịch sử triết học
nâng cao sự hiểu biết về đất nước ta, tổ tiên ta, và nhận thức đúng đắn quy luật
phát triển của sự vật, của lịch sử tiến tới làm chủ vũ trụ, làm chủ thiên nhiên,
nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng, góp phần xây dựng thế giới quan khoa
học , cách mạng.

4


2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước tới nay đã có nhiều tác giả viết các tác phẩm: sách nghiên cứu,
giáo trình, tiểu luận, bài báo, bài đăng tạp chí...về đề tài lịch sử tư tưởng Việt

Nam nói chung và tư tưởng Việt Nam thời tiền sử nói riêng
-

Bộ Lịch sử tư tưởng Việt Nam 5 tập của Nguyễn Đăng Thục

-

Bộ Lịch sử tư tưởng Việt Nam 2 tập của Viện Triết học ( Nguyễn Tài
Thư chủ biên)

-

Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam (Nguyễn Hùng hậu chủ
biên)

-

Lịch sử tư tưởng Việt Nam văn tuyển ( Viện triết học )

-

Các bài đăng trên tạp chí triết học.

Tuy nhiên chúng tơi chưa tìm thầy tác phẩm nghiên cứu nào nghiên cứu
tổng thể về tư tưởng người Việt Nam thời tiền sử, sơ sử. Do tính cấp thiết và ý
nghĩa lý luận, ý nghĩa thực tiễn của vấn đề nên chúng tôi dựa vào tư liệu khảo
cổ học và đùng phương pháp nghiên cứu của lịch sử triết học để triển khai đề

3. Mục đích, nhỉệm vụ của đề tài.
- Mục đích của đề t à i : tìm ra những biểu hiện đặc trưng của tư tưởng

người Việt trong thời kỳ tiền sử, sơ sử.
-

Nhiệm vụ :
+ Tổng hợp tư liệu khảo cổ từ đó nêu những nét đặc trưng về đất nước
và con người Việt Nam thời tiền sử và sơ sử.
+ Tìm ra một số đặc điểm có tính khái qt về tư tưởng của người Việt
Nam thời kỳ tiền sử.
+ Nêu những điểm nổi bật trong tư tưởng kinh tế, chính trị, văn hóa,
nghệ thuật...của người Việt thời sơ sử ( thời kỳ Văn lang, Âu Lạc)

4. Phương pháp nghiên cứu
Lịch sử tư tưởng Việt Nam là lịch sử gồm có nhiều loại tư tưởng, cho nên
vấn đề phương pháp nghiên cứu khá phức tạp.
5


Giáo sư Trần Văn Giàu đã nói: Các nguyên lý của phương pháp luận ứng
dụng vào lịch sử tư tưởng Việt nam thì sao cho đúng, chắc chắn phải vào việc
một hồi lâu mới biết rõ được.
Qua kinh nghiệm của những người đã biên soạn Lịch sử Việt Nam, Lịch
sử tư tưởng triết học Việt Nam cho biết: “Phương pháp nào chỉ miêu tả và sắp
xếp sự kiện, chi tiết dẫn dụ và bình giảng tư tưởng thì khơng nêu lên được thực
trạng tư tưởng và ý nghĩa của nó; phương pháp nào chú ý vận dụng phân tích
kết hợp với tổng hợp, lơgíc kết hợp với lịch sử, chú ý khái qt hố và trừu
tượng hố thì tư tưởng được trình bày dễ nổi bật. Vì vậy, dù là lịch sử tư tưởng
cũng cần phải sử dụng đến mức tối đa phương pháp của lịch sử triết học”.
Ở thời đại ngày nay, triết học Mác - Lê nin, là thế giới quan và phương
pháp luận khoa học nhất, cách mạng nhất, cho nên chúng ta cần nắm vững nó
và vận dụng nó vào việc phân tích lịch sử tư tưởng. Nó là chìa khố để mở

thơng tất cả các cửa triết học của quá khứ. Bất cứ là ở phương Tây hay phương
Đơng nó là chỗ dựa vững chắc để khám phá ra tất cả các luồng tư tưởng, các
nhà tư tưởng trong lịch sử.
Nhưng bên cạnh đó, cũng cần phải coi trọng thành quả tư duy khái quát
hàng ngàn năm của dân tộc. Có hiểu lịch sử tư tưởng của dân tộc, con người
ngày nay mới có điều kiện làm phong phú tư duy lý luận của mình, mới hiểu
được điểm mạnh, điểm yếu của các bậc tiền bối để từ đó chúng ta biết cần
khắc phục điều gì, và cần khai thác, phát huy điều gì.
Theo Nguyễn Hùng Hậu, trình bày, nghiên cứu triết học Việt Nam không
nên đi từ vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức,
mà có thể đi theo hai cách:
a.

Đi từ hiện tượng đến những khái qt có tính chất nhân sinh quan, đạo

ìỷ ỉàm người, rồi đến thê giới quan: Cách này, gần giống với phương pháp quy
nạp và phản ánh đúng con đường phát triển của triết học Việt Nam là đi từ
nhân sinh quan đến thế giới quan, ngược lại với con đường của triết học
phương Tây.

6


b.

Đi từ thê giới quan đến nhân sinh quan rồi đến luân lý đạo đức, đạo lý

làm người: Cách này gần với phương pháp diễn dịch. Mặc dù đi ngược lại con
đường phát triển của triết học Việt Nam, nhưng trình bày theo cách này khiến
người ta nắm bắt và nhìn nhận vấn đề rõ hơn.

Hai cách này khơng tách rời nhau, chúng bổ sung cho nhau ở toàn cục
chũng như ở trong mỗi phần nhỏ.
Từ những kinh nghiệm trên cho ta thấy, nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt
Nam, lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam đều là phải linh hoạt, vận dụng kết
hợp nhiều phương pháp, chứ khơng phải là dựa theo ngun tắc máy móc,
cứng đờ. Bởi vì khi một dân tộc đã tổ chức cuộc sống của mình thành một
quốc gia, cho dù quy mơ quốc gia đó cịn nhỏ bé, thơ sơ, mới là manh nha,
nhưng con người đã có ý thức về cuộc sống, đã có một khái niệm sơ đẳng về
vũ trụ. Những di chỉ khảo cổ, những chuyện thần thoại, truyền thuyết... của
ơng cha ta đã chứng minh điều đó.
Mặc dù có quan hộ chặt chẽ với lịch sử dân tộc, nhưng lịch sử tư tưởng Việt
Nam không thể giống như lịch sử dân tộc. Bởi vì hộ tư tưởng là cái đó chi phối
đời sống xã hội trong một thời gian dài, trong khi xã hội cịn ở trong khn
khổ của một phương thức sản xuất nhất định. Như xã hội Việt Nam từ thế ký
thứ II sau công nguyên cho đến đầu thế kỷ 20, có sự tồn tại song song của
Tam giáo, du nhập từ Trung Quốc vào. Tam giáo thay thế nhau giữ vai trò
hàng đầu, nhưng thực tế là kết hợp với nhau, thẩm thấu vào nhau, chia phạm vi
với nhau, chi phối đời sống tinh thần của nhân dân ta. Bên cạnh tam giáo là sự
tồn tại của cách suy nghĩ dân gian để lại dấu vết trong các loại truyện kể và
kết tinh trong ca dao, tục ngữ...; đồng thời, cũng phải nói đến học thuyết âm
dương, ngũ hành, cách phân tích thời, thế là những tư tưởng chịu ảnh hưởng
của Trung Quốc. Những tư tưởng đó ảnh hưởng đến cách suy nghĩ, lối tư duy
trong cuộc sống của người Việt Nam. Sự kết hợp phức tạp giữa Nho, Phật,
Đạo, giữa tam giáo với cách suy nghĩ dân gian, và giữa những thứ đó với ám

7


dương, ngũ hành để biểu hiện quan niệm thế giới, quan niệm cuộc sống của
con người, quan niệm về sự vận động, sự thay đổi lịch sử...

Trong đề tài này chúng tơi có tham khảo, sử dụng thành tựu của các
cơng trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước về lịch sử, lịch sử
triết học, lịch sử tư tưởng Việt Nam.

8


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1

ĐẤT NƯỚC, CON NGƯỜI VIỆT NAM
THỜI TIỀN SỬ, S ơ SỬ
1.1. ĐẤT NƯỚC
Trong hàng triệu năm đầu của lịch sử trái đất, lãnh thổ Việt Nam và toàn
vùng Đơng Nam Á cịn bị ngập trong nước biển.
Theo tài liệu cổ địa chất - địa tầng cho biết, trong vòng từ 1.000.000 năm
đến nay tương ứng thời gian của thế tồn tân (Holocène) của kỷ đệ tứ đã có
những diễn biến:
Có nhiều đợt băng hà lớn lan tràn các lục địa, riêng khu vực Đơng Nam
Á, trong đó có Việt Nam khơng có băng hà, nhưng chịu ảnh hưởng gián tiếp;
mưa nhiều, nước biển nhiều lan tràn lên một số vùng (thời kỳ giản băng).
Cách đây khoảng 20.000 năm, nước biển đã ngập hết các vùng thấp, làm cho
nhiều vùng cao trở thành những đảo hoặc quần đảo. Ở Việt Nam có lúc nước
biển vào tới sát các vùng núi hiện nay. Đợt biển tiến này kéo dài, và rút lui vào
khoảng giữa thế toàn tân cách ngày ngay 5.000 - 6.000 năm trước. Nhiều lãnh
thổ mới đã xuất hiện, địa chất học gọi đây là thời kỳ tạo đất. Biển rút khỏi
những vùng rộng lớn, lục địa châu Á hình thành. Chẳng những Đơng Dương
mà cả vùng biển Trung Hoa, Nam Hải, vịnh Thái Lan... đều là đất liền. Toàn
bộ khu vực các quần đảo Indonexia, Phiỉippin cũng dính liền lục địa làm thành
một bán đảo khổng lồ ở Đông Nam Á.

Trong thời kỳ này, ở Đông Nam Á xảy ra những chuyển động địa chấn
lớn, những lớp sóng lục địa khổng lồ, tạo ra những nếp gấp rất lớn trên mặt

9


đất. Do đó, hình thành những dãy núi lớn trùng điệp, xen kẽ giữa các dãy núi
là những con sông lớn, những cao ngun và bình ngun. Chính những lớp
sóng lục địa này làm cho kết cấu địa chất, địa tầng có những thay đổi lớn, mặt
đất (địa mạo) lồi lõm khơng đồng đều, địa hình trở nên phức tạp. Lúc này, ở
nước ta nổi lên vùng cao, không ngập nước, tương ứng với khu vực sườn núi
cao chạy dọc từ Bắc và cực Nam Trung bộ, đó chính là mạch núi Trường Sơn,
cịn vùng thấp ngập nước đó là mạch đất đồng bằng Bắc Bộ, ven biển miền
Trung và Nam Bộ, liền với vịnh Bắc Bộ mênh mông. Sau đợt biển tiến này là
sự hình thành các đồng bằng ven biển nước ta
Khi chuyển sang thế tồn tân thì thế giới khơng cịn băng hà nữa. ở khu
vực Đơng Nam Á, vốn trước khơng có băng hà thì sang thời kỳ này động thực
vật thay đổi không nhiều nhưng càng trở nên phong phú. Những cư dân Việt
đàu tiênv à trong suốt quá trình dài của lịch sử phát triển đã sinh sống tên một
vùng đát hẹp nhưng địa hình phức tạp, núi non, sơng ngịi, thung lũng, rừng,
bình nguyên, đồng lầy, ao hồ xen kẽ nhau. Địa hình khơng đồng đều và sự đa
dạng về dịa lý nói chung đã tạo cho con người ngay từ đầu đã có sức đấu tranh
mạnh mẽ, có khả năng sáng tạo phong phú về nhiều mặt, tạo cơ sở cho một
nền vãn minh định hình. Tuy nhiên, điều kiện tự nhiên của đất nước như vậy
cũng tạo nên sự phát triển khơng đồng đều về kinh tế và văn hóa giữa các
vùng sau này.
Kỷ đệ tứ là kỷ cuối cùng của nguyên đại Tân sinh . Ở thế cánh tân, đất
đai Đơng Nam Á rộng lớn hơn ngày nay nhiều. Nó bao gồm mười nước trong
khối ASEAN và cả miền Hoa Nam của Trung Quốc ngày nay. Đó là một vùng
địa lý cổ quan trọng. Qua đó, chúng ta có thể hiểu vì sao nhiều dân tộc ở khu

vực này lại có những sự giống nhau về nhiều mặt. Giai đoạn này loài người đã
xuất hiện. Ở Việt Nam, những di chỉ khảo cổ đã phát hiện được ở vùng Việt
Bắc, Tây Bắc, chạy dài theo sườn đông tây Trường Son, đã minh hoạ thêm và
xác nhận địa hình lãnh thổ nước ta trong thời nguyên thuỷ, giai đoạn trước
biển tiến.
10


Các di chỉ khảo cổ học có trên 10.000 năm kể cả một số lượng khá nhiều
các di chỉ thuộc văn hố khảo cổ Hồ Bình, chủ yếu được tìm thấy ở vùng núi.
Như vậy, cư dân nguyên thuỷ thời đó đã chiếm lĩnh, khai thác lãnh thổ thuộc
rừng núi và những vùng lân cận.
Các di chỉ văn hoá khảo cổ học có niên đại trên 3 ngàn đến 7000 - 8000
năm đã thấy thưa thớt ở miền núi, phân bố ngày càng nhiều với số lượng lớn
hơn và rộng khắp hơn thuộc trung du và đổng bằng cao ở Bắc Bộ, đồng bằng
ven biển miền Trung và vùng Đông Nam Bộ. Tiêu biểu là các di chỉ thuộc nền
văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên, Hạ Long, Quỳnh Văn, Bàu Tró... và hàng
loạt các di chỉ khảo cổ được phát hiện sau này. Như vậy, sau khi biển lùi vào
giữa thế tồn tân, vùng đồng bằng hình thành, theo đó cư dân nguyên thuỷ
tràn xuống chiếm cứ, khai phá, cư trú lâu dài trên vùng đất mới đó.
Lịch sử địa lý nước ta, lãnh thổ đã có nhiều biến đổi, con người ở thời
nguyên thuỷ hái lượm, săn bắt, đánh cá và cả sau này trồng trọt, chăn nuôi đã
sống và lao động trên một địa bàn rộng lớn, trải qua nhiều biến đổi. Chính họ,
những con người chủ nhân của thiên nhiên, của lịch sử lúc bấy giờ, nối tiếp
nhau lao động trên những địa vực khác nhau, nhưng đối tượng lao động là
những cây cỏ, cầm thú, chim mng... gần giống nhau, khơng khác nhau
nhiều lắm.
Xét trên bình diện văn hóa tư tưởng, lãnh thổ của tộc người Việt ở thời
tiền sử mênh mông rộng lớn như trên đã trình bày sẽ có quan hệ đến tư tưởng
của cả khu vực Nam Á - Bách Việt. Cho nên có thể có những tư duy - tư

tưởng, ngày nay chúng ta tưởng là của Trung Quốc, nhưng lúc đó là tư duy tư tưởng chung của cả miền Nam Á - Bách Việt. Ví dụ như triết lý âm dương,
Trung Quốc còn lưu lại ở các quẻ của Chu Dịch (Kinh Dịch) khi chưa có chữ
viết. Ở Việt Nam còn lưu lại trên các hoa văn trống đồng, (xem thêm ở phần
sau)
Địa hình Việt Nam rất phức tạp, sắc thái địa lý rất đa dạng. Núi non,
sơng ngịi, thung lũng, rừng cây, cao nguyên, đồng lầy, ao hồ, xen kẽ với

11


nhau. Địa hình khơng đồng đều, sự đa dạng về địa lý có tác dụng kích thích
con người sống trên đất nước ta ngay từ thời xa xưa đã phải đấu tranh với thiên
nhiên, và có khả năng sáng tạo về nhiều mặt, trong chừng mực nào đó đã thúc
đẩy Việt Nam sớm hình thành nền vãn minh tương đối hồn chỉnh. Sự khơng
đồng đều về địa lý cũng có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển không đều
về kinh tế và văn hoá giữa các vùng ở trong nước, nhất là ở thời tiền sử, khi
con người còn bị phụ thuộc vào hoàn cảnh tự nhiên.
Đất nước ta nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, cây cối phát triển nhưng
lại không thuận lợi cho súc vật, nên ở thời nguyên thủy, nghề trồng trọt và hái
lượm nhưng đất nước ta cũng chịu nhiều thiên tai nên cũng ảnh hưởng đến nền
kinh tế và vãn hóa. Tuy nhiên cũng chính những yếu tố này cũng có tác dụng
rèn luyện con người trên đất nước ta có sức chịu đnựg bền bỉ, có khả năng đấu
tranh quật cường và sớm đoàn kết thành một khối vững chắc trong các cuộc
đấu tranh.

1.2 CON NGƯỜI
Loài người xuất hiện là một bước ngoặt vô cùng to lớn trong lịch sử trái
đất. Triết học gọi đó là bước nhảy vọt về chất. Xét trong tiến trình lịch sử thì
bước đột biến đó lại diễn ra một cách chậm chạp, trải qua thời kkỳ lâu dài
hàng triệu năm.

Khoa học lịch sử Mác xít đã chứng minh, loài người phát sinh từ một loài
vượn cao cấp. Giống vượn này sống trong rừng nhiệt đới vào nửa cuối kỷ đệ
tam (cách đây vài chục triệu năm). Qua lao động sáng tạo, chúng càng ngày
càng phát triển và dần dần biến đổi cả bản thân thành một giống hoàn toàn
mới - giống người. Ban đầu những con vượn đó chỉ biết dùng những hịn đá và
những cây gậy có sẵn trong thiên nhiên để kiếm ăn và tự vệ... ít nhiều con
người này đã nhận thức được những cơng cụ mà chúng cầm trong tay. Dần
dần trí khơn của chúng ngày càng phát triển, trải qua hàng chục năm, hàng
trăm vạn năm sử dụng đá và gậy một cách điêu luyện, chúng lại phát hiện

12


được nhiều tính năng của các cơng cụ đó. Do kinh nghiệm sống, chúng đã biết
dùng gậy nhọn để đâm thủng da thú, dùng hòn đá sắc để chặt xương thú...
Kể từ khi những con vượn biết đập một hòn đá, có được những mảnh sắc,
biết chặt cành cây để đẽo thành chiếc gậy nhọn, thì về cơ bản chúng đã trở
thành người. Tuy mới chỉ là con người hết sức ngun thuỷ, nhưng những
cơng cụ lao động đó trong tay, họ bước vào ngưỡng cửa của một thế giới mới
- bắt đầu cuộc sống mới - cuộc sống lao động sáng tạo. Những con người lúc
ban đầu, thân hình trần truồng đầy lơng, trong tay chỉ có hịn đá và cây gậy,
đã cải tạo thiên nhiên, lao động, sáng tạo nên cuộc sống văn minh của con
người.
Từ khi con người xuất hiện, bộ mặt trái đất dần dần đổi thay. Chính
những bàn tay lao động của con người đã tạo nên những cảnh tươi đẹp của non
sông đất nước. Lịch sử của xã hội loài người bắt đầu cùng một lúc với sự xuất
hiện của lao động, của nền sản xuất của xã hội.Trong tác phẩm nổi tiếng “Tác
dụng của lao động trong sự chuyển biến từ vượn thành người” viết năm 1876,
Ph. Ảng ghen đã giải quyết một cách chính xác vấn đề nguồn gốc và sự phát
triển của loài người. Ảng ghen đã vạch rõ chỗ khác nhau căn bản giữa người

và động vật là lao động. Từ lao động, các thành viên liên hệ chật chẽ với nhau
và ngôn ngữ dần xuất hiện. Lao độngv à ngơn ngữ đã kích thích sự phát triển
của bộ óc và các giác quan. Tính đúng đắn của luận điểm về vai trị của lao
động trong q trình biến chuyển từ vượn thành người biểu hiện sự vận dụng
thành công học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Nếu Đác uyn
giải phóng lồi người khỏi bàn tay của Thượng đế , đặt vào giới động vật thì
Ảng ghen đã tách loài người ra khỏi giới độngv ật, khiến cho con người thấy
rõ bản chất của mình là người lao động, là người cải tạo và chinh phục tự
nhiên.
Theo tài liệu nhân cổ học, trên địa bàn Đông Nam Á, cách đây khoảng
một triệu năm trước, lớp người vượn đã xuất hiện. Người ta đã tìm thấy trên

13


lãnh thổ này những xương của người vượn.Từ lâu người ta đã cho rằng Việt
Nam có thể nằm trong miền lãnh thổ quê hương của loài người.
Trên lãnh thổ Việt Nam cũng đã tìm thấy dấu vết của những người vượn ở
thời nguyên thuỷ tương ứng với thế cánh tân (Pleistocèn) của kỷ đệ tứ. Vào
khoảng năm 1935-1936, J. Fromagel và E.Saurin đã tìm thấy di cốt vượn người
( răng, mảnh xương sọ, xương thái dương) tương tự như người vượn Bắc kinh
cùng một số đồ đá cuội đẽo thô sơ trong các tầng lớp trầm tích có hóa thạch
thuộc hậu kỳ cánh tân ở hang Tam hang, Tam paloi trên dãy Trường Sơn thuộc
Thượng Làovà ở gần Đồng Giao ( Ninh Bình).
Những năm 60 của thế kỷ XX (năm 1960,1963,1968) các nhà khảo cổ
học Việt Nam đã phát hiện ra địa điểm sơ kỳ đồ đá cũ ở Núi Đọ thuộc xã
Thiệu Khánh, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, thu lượm được hàng nghìn
sản phẩm đá có bàn tay gia công của người nguyên thủy. Hiện vật bao gồm
các cơng cụ chặt, nạo, rìu thơ sơ được ghè đẽo. Núi Đọ là địa điểm cư trú của
tập đoàn vượn người đồng thời là nơi chế tác công cụ . Với phát hiện này , ta

có thể khẳng định li người nguyênt hủy đã sinh sống trên đất Việt Nam
ngay từ buổi đầu thời đại đồ đá cũ.
Đặc biệt hơn nữa, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện được răng
hoá thạch người vượn ở Thẩm Hai, Thẩm Khuyên, Thẩm Ồm.Thẩm Hai,
Thẩm Khuyên là hai hang động ở xã Tơ Hiệu, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.
Khoảng đầu những năm 70 của thế kỷ XX, các nhà khảo cổ học mới phát hiện
được ở hai hang này 10 chiếc răng hố thạch người vượn.
Ở Thẩm Hai có 1 chiếc răng sữa hàm trên, ở Thẩm Khuyên có 9 răng:
hàm trên có 1 răng sữa, 3 răng hàm, 1 răng cửa; hàm dưới có 3 răng hàm, 1
răng nanh.
Qua nghiên cứu, người ta đã xác định được 10 chiếc răng hoá thạch ở
Thẩm Hai, Thẩm Khuyên vừa mang đặc trưng của loài người vượn Bắc Kinh,
lại vừa mang đặc trưng của người Nê-an-đéc-tan (Homo Nean-derthalesis).
Người vượn Thẩm Hai, Thẩm Khuyên thuộc vào các cá thế của Homo erectus

14


(người vượn) đang trên q trình tiến hố, và tồn tại cách ngày nay chừng
300.000 năm, tương ứng với những nhóm cuối cùng của người vượn Bắc Kinh
(Trung Quốc).
■>

*

Thâm Om là hang động trong núi đá vôi, ở xã Thuận Châu, huyện Quỳ
Châu, tỉnh Nghệ An. Đầu năm 1975, các nhà khảo cổ khọc đã phát hiện được
5 chiếc răng hoá thạch: 3 răng hàm trên, 1 răng trước hàm trên và 1 răng nanh
hàm trên, cùng với nhiều động vật hố thạch, và đã phát hiện được một cơng
cụ mảnh tước cờ-lắc-tơn điển hình làm bằng đá thạch anh.

Qua nghiên cứu, bước đầu người ta đã khảng định được rằng, rãng hố
T
,
thạch ở Thấm Om có những đạc trưng của người hiện đại (Homo Sapiens), và
/?■

vẫn giữ những đặc trưng vốn có của răng người vượn. Điều này phản ánh,
người Thẩm Ồm đang trên q trình tiến hố, từ người vượn chuyển hố sang
loại hình người hiện đại. Đây là cá thể người hiện đại đầu tiên phát hiện được.
Đến nay, trên lãnh thổ Việt Nam, thời gian của người Thẩm Ôm sinh sống ở
vào giai đoạn cuối của Trung kỷ cánh tân - đầu hậu kỷ cánh tân, cách ngày
ngay khoảng 200.000 năm
Các bằng chứng hoá thạch từ Thẩm Hai, Thẩm Khuyên đến Thẩm Ôm lại
càng cho chúng ta thấy những người vượn đã có mặt trên lãnh thổ Việt Nam,
và họ đang trên qua trình tiến hố để hoàn thiện trở thành người hiện đại.
Các nhà khảo cổ học cịn phát hiện được răng hố thạch người hiện đại ở
Hang Hùm, hang Kéo Lèng.
Hang Hùm nằm ở chân núi đá vôi, thuộc xã Đồng Tâm, huyện Lục Yên,
tỉnh Yên Bái, hiện nay nằm trong lòng hồ ngập nước Thác Bà. Đầu những năm
60 của thế kỷ XX, khi điều tra di chỉ để xây dựng đập thuỷ điện Thác Bà đã
phát hiện ở trong hang có 4 răng người hoá thạch: 2 răng hàm dưới và 2 răng
hàm trên của cùng một cá thể. Ngồi ra, cịn tìm thấy hố thạch của bầy động
vật như: tê giác, voi, lợn lòi, hươu, vượn...
Qua nghiên cứu những tiêu bản răng hoá thạch ở hang Hùm, người ta đã
xác định được, người ở hang Hùm có đầy đủ đặc trưng của răng người hiện
15


đại. Người ở hang Hùm xuất hiện vào khoảng từ 140.000 đến 80.000 năm
trước, trùng khớp với thời gian băng Riss Wurm của băng kỳ Châu Âu. Cịn

răng hố thạch của người Kéo Lèng nằm trong núi đá vôi, thuộc xã Tơ Hiệu,
huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn (cách hang Thẩm Khuyên khoảng 3 cây số). Ở
đây, năm 1965, người ta đã tìm thấy 2 răng người hố thạch: 1 răng trước hàm
trên và 1 răng hàm trên; một mảnh xương trán.
Các nhà nghiên cứu đã xác định, hoá thạch người Kéo Lèng có đặc điểm
tương đồng với người Liễu Giang, người Tử Dương (Trung Quốc), có niên đại
từ 30.000 năm đến 20.000 năm trước
Các tài liệu cổ nhân học, vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX, người ta
tìm thấy trong hang Nậm Tun (thuộc thị trấn Phong Thổ, tỉnh Lai Châu) 5
ngôi mộ, xác định được hài cốt của 8 cá thể người, mai táng trong đó. Qua
nghiên cứu, người ta đốn định đó là những chủ nhân của một loại hình văn
hố khảo cổ học, có phong cách tương tự như văn hoá khảo cổ học Sơn Vi, có
khoảng thời gian từ 18.000 năm đến 11.000 năm trước.
Trong vòng hơn 60 năm qua, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những hài
cốt có trong 33 di chỉ trong số 119 di chỉ đã được khai quật, thuộc nền vãn hố
khảo cổ Hồ Bình. Văn hóa Hịa Bình ở Việt Nam phân bố khá rộng rãi từ Tây
bắc đến dãy Trường Son, là khâu phát triển nằm trong truyền thống văn hóa
kỹ thuật đồ đá cuội nảy sinh ở Đông nam á từ sơ kỳ đồ đá cũ đến đồ đá mới.
Đây là thời kỳ tổn tại và phát triển của cộng đồng thị tộc, của tổ chức bộ lạc
nguyên thủy.
Các di tích khảo cổ thuộc văn hóa Bắc Sơn và văn hóa Quỳnh Văn là tiêu
biểu cho giai đoạn sơ kỳ của thời đại đồ đá mới ở Việt Nam. Các di tích thuộc
văn hóa Bắc sơn được phát hiện đầu tiên trong các hang động vùng núi đá vôi
Bắc sơn, thuộc các tỉnh Việt Bắc. Các núi đá vơi ở đây có nhiều hang động tốt,
thuận lợi cho sự cư trú của người nguyên thủy. Ở giai đoạn này, người Việt
Nam ngoài kỹ thuật chế tác đá, gỗ, xương phát triển hơn các thời đại trước cịn
có kỹ thuật mới- chế tạo đồ gốm., kỹ thuật đan, đánh dấu một bước ngoặt

16



trong sự phát triển của đời sống người nguyên thủy. Đặc biệt trong các di chỉ
ở Quỳnh Văn còn thấy đồ trang sức bằng vỏ trai, vỏ trùng trục có xuyên lỗ.
Trong các nền vãn hoá khảo cổ học tiêu biểu giai đoạn này như: Bắc Sơn,
Hạ Long, Phùng Nguyên, Đa Bút, Hoa Lộc, Đồng Khối, Quỳnh Văn, Thạch
Lạc, Bàu Tró-Cù Bai, An Sơn... đều là trên địa bàn cư trú chủ yếu của cư dân
nguyên thủy phân bố ở khắp lãnh thổ nước ta.
Qua đó, có thể chứng minh được rằng, Việt Nam là một trong những nơi
đã từng xảy ra quá trình hình thành phát triển từ những nhóm vượn người
chuyển hố thành những nhóm người vượn (Homo eretrú), và sau đó chuyển
hố hồn chỉnh thành giống người hiện đại (Homo sapiens).
Thời đại đồ đồng là giai đoạn quan trọng trong sự phát triển có tính chất
quy luật của lịch sử loài người, tồn tại trong vài ngàn năm. Trong thời đại đồ
đồng, xã hội lồi người khơng những có những bước phát triển mạnh hơn
trước mà cịn đạt được những thành tựu rực rỡ, mn hình mn vẻ. Thời đại
đồ đồng đưa đến vai trò thống trị của những người làm ruộng tưới nước, là thời
đại dựng nước, thời đại văn minh, thời đại của những nhà nước đầu tiên trong
lịch sử loài người. Thời đại đồ đồng bao gồm 2 giai đoạn: đồ đồng đỏ và đồ
đồng thau.
Thời phong kiến , các vua Việt Nam cũng đã có ý thức sưu tầm di vật đồ
đồng, chủ yếu là đồng thau. Thời thuộc Pháp, những hiện vật cổ bằng đồng
thau của nước ta cũng lần lượt được sưu tầm, vơ vét, cướp đoạt. Từ nãm 1958
trở lại đây, khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện được hàng loạt các di tích khảo
cổ thuộc thời đại đổ đồng thau ở vùng đồng bằng và trung du Bắc bộ, có niên
đại khỏang cuối thiên niên kỷ thứ III đến cuối thiên niên kỷ thứ II, đầu thiên
niên kỷ thử I trước cơng ngun. Sự phát triển có thể chia thành 3 giai đoạn cơ
bản là Phùng nguyên, Đồng đậu, Gị mun.
Địa bàn phân bố của văn hóa Phùng nguyên chủ yếu ờ vùng hợp lun của
sông Hồng, sông Đà, sông Lô...Các di chỉ thường ở chân núi, chân đồi, ven
sông suối ở trung du hiện nay, trên những thềm sơng và những gị cao rải rác

I

17

ĐAI H O C C U X

-A hịi

I TÍ?UNG ’ ậ .y THONG TIN ' - J ViẺN


vùng đồng bằng và ven biển, diện tích hàng vạn, hàng chục vạn mét vuông
một vùng thể hiện những khu tập trung dân đông. Khai quật các ngôi mộ, các
nhà khảo cổ học đã thấy người Việt Nam lúc này cao khoảng l,58m-l,65m.
Thơi kỳ này đã xuất hiện “công xưởng chế tác đá”, chuyên sản xuất công cụ
lao động bằng đá, gốm ,đồng, xương và đồ trang sức với kiểu dáng phong
phú, hoa văn theo phong cách sinh động.
Địa điểm khảo cổ thuộc giai đoạn Đồng Đậu phân bố trên địa bàn rộng ở
tỉnh Vĩnh Phú, Hà Tây, Hà Bắc, Hà nội. Người Việt Nam ở giai đoạn Đồng
Đậu sống định cư lâu dài trên gò đồi cao ở trung du và đồng bằng. Giai đoạn
Đồng đậu khác biệt hẳn giai đoạn Phùng Nguyên ở kỹ thuật luyện kim đồng
thau, từ đó phát triển các nghề thủ cơng khác .
Giai đoạn Gị Mun có các địa điểm khảo cổ gần trùng với giai đoạn Đồng
đậu và cả ở Bắc Trung bộ. Cuộc sống định cư lâu dài của người dân đã để lại
những tầng văn hóa tương đối dày, cơng cụ và vũ khí đồng thau đã chiếm tỷ lộ
tới hơn 50% tổng số cơng cụ và vũ khí, ngồi ra cịn có đị trang sức bằng
đồng thau. Ở Gị Mun còn phát thiển một số dấu vết của lúa và những lưỡi hái
bằng đồng thau thể hiện sự phát triển hồn thiện của nơng nghiệp trồng lúa
nước của cư dân Việt Nam thủơ ấy.Hơn nữa do yêu cầu của nơng nghiệp , họ
cũng đã chăn ni trâu, bị, chó lợn, gà.

Sự phát triển của giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gị Mun thuộc
thời đại đồ đồng thau khơng những có mối liên hệ với nhau mà cịn có sự kế
tục nên có thể tìm nguồn gốc ở các thời đại trước đó. Ở thời kỳ này cư dân
nơng nghiệp vùng đồng bằng và trung du Bắc bộ đã từng bước chế ngự được
thiên nhiên, làm ruộng lúa, phát huy được tính ưu việt của nền kinh tế nơng
nghiệp, bước vào chế độ phụ hệ, làm chủ vùng tam giác sông Hồng.
Thời đại đồ sắt ở Việt Nam vào khoảng thiên niên kỷ thứ I trước công
nguyên cho đến thế kỷ đầu công nguyên, là thời kỳ tồn tại của văn hóa Đơng
sơn. Về mặt lịch sử tương ứng với cuối thời Hùng Vương, thời An Dương
Vương, thời kỳ xâm lược của Triệu Đà, thời kỳ đầu nhà Hán đô hộ.Thời kỳ

18


này kỹ thuật đúc đồng thau ở nước ta đã đạt đến một đỉnh cao rực rỡ. Sô lượng
hiện vật nhiều với các loại hình như thạp, trống... Ngồi ra các nghề thủ công
khác cũng phát triển đặc biệt là nghề luyện sắt. Cuộc sống của cư dân thay đổi
lớn, trong xã hội có sự phân hóa, nhà nước ra đời, tồn tại, có chiến tranh,
người Việt thể hiện sự cố kết cộng đồng, tự lập tự cường chinh phục tự nhiên
và chống ngoại xâm.
Tài liệu khảo cổ đã cho phép chúng ta có thể khẳng định Việt Nam
khơng chỉ là đất nước của 4.000 năm lịch sử, mà còn lâu dài hơn nữa. Họ là
những chủ nhân kế tiếp nhau của lịch sử nguyên thuỷ Việt Nam, có cội nguồn
trên mảnh đất mà họ để lại cho thế hệ sau những sáng tạo vật chất và xuất hiện
những tư duy tương ứng.
Về chủng tộc, trong mấy chục vạn năm đầu, lồi người trên thế giới chưa
có những sự khác nhau nhiều về chủng tộc. Quá trình hình thành các chủng
tộc lớn dường như xảy ra đồng thời với quá trình sapiens hố, cũng có nghĩa là
trong khoảng thời gian từ 10.000 năm đến 8.000 năm, 6.000 năm trước các đại
chủng lồi người hình thành. Các nhà nghiên cứu về văn hoá Việt Nam cho

biết: Việt Nam ở thời tiền sử là một khu vực địa lý văn hoá nằm ở khu vực
Đông Nam Á. Nếu liên hệ đến nguồn gốc dân tộc Việt Nam thì cái tên gọi
Đơng Nam Á mà ngày nay các nhà nghiên cứu đề nghị thay bằng Nam Á để
chỉ khái niệm “Austroasiatique” là chủng người hình thành trong khu vực địa
lý phía Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương.
Theo Trần Ngọc Thêm: “Chủng Nam Á chia tách thành các chủng tộc
mà trong các thư tịch cổ Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt. Cư dân
Bách Việt là một cộng đồng gồm nhiều người Việt, như Điền Việt, Dương
Việt, Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt, Lạc Việt sinh sống khắp khu vực phía
nam sông Dương Tử cho tới Bắc Trung Bộ ngày nay”. Nhất là xét về mặt ngôn
ngữ, ở khu vực Đông Nam Á có những ngơn ngữ thuộc nhiều họ khác nhau
(như họ Thái - Kadai, họ Hán Tạng, họ Nam Đảo...), nhưng đó đều là những
ngơn ngữ mới di chuyển đến sau này. ở khu vực này, họ Nam Á mới chính là
19


họ ngôn ngữ bản địa, tồn tại lâu đời nhất. Các ngơn ngữ mới đến khu vực này
có thể tuỳ theo từng thời kỳ, nhưng đều chịu ảnh hưởng của cơ tầng thuộc họ
Nam Á. Đến nay các nhà ngôn ngữ học hầu như đã nhất trí: “Tiếng Việt là
một ngôn ngữ họ Nam á, thuộc ngành Môn - Khmer, tiểu chi Việt - Chứt.
Quan hệ với phía Thái - Kadai dầu khá xa xưa, quan hệ với tiếng Hán dầu khá
sâu đậm, nhưng đó chỉ là quan hệ tiếp xúc, chứ khơng phải quan hệ họ hàng
gần”.
Tìm về cội nguồn lịch sử của dân tộc, của đất nước, các thế hệ trước đã
thu được nhiều thành tựu nhưng tài liệu vẫn là quá ít. Với những tài liệu cho
đến hiện nay, thời kỳ tiền sử ở Việt Nam được xác định từ khoảng 250.000
năm trước đến thế kỷ 7 trước công nguyên, kế tiếp là thời kỳ sơ sử Văn LangÂu lạc
Tìm hiểu đất nước và con người Việt ở thời tiền sử là tạo tiền đề để
nghiên cứu tư duy - tư tưởng của tộc người Việt ở thời đó vì mơi trường tự
nhiên và hồn cảnh sống có liên quan mật thiết tới việc nảy sinh tư duy - tư

tưởng của con người.

20


CHƯƠNG II

T ư TƯỞNG CỦA NGƯỜI VIỆT
Ở THỜI TIỂN SỬ, S ơ SỬ
Nhà nghiên cứu tư tưởng thời tiền sử chỉ có thể đốn nhận tư tưởng của
người xưa qua các hiện vật khảo cổ đã khai quật được ở các di chỉ khảo cổ.
Việc đoán nhận này nhiều khi phải dựa vào sự so sánh, đối chiếu của dân tộc
học. Nhưng ở Việt Nam, các tài liệu so sánh, đối chiếu giữa các dân tộc còn
chưa đầy đủ. Nhất là, sự so sánh, đối chiếu ấy lại chưa phản ánh được sự tương
đương về trình độ kinh tế - xã hội của các cộng đồng người thời tiền sử đã
biểu hiện trên các hiện vật khảo cổ. Do đó, ở đây chúng tôi chủ yếu căn cứ
vào các hiện vật khảo cổ để đoán nhận tư tưởng của người xưa, bên cạnh đó có
tham khảo những tài liệu dân tộc học trong chừng mực.

2.1. TƯ TƯỞNG CỦA NGƯỜI TlỂN s ử Ở VIỆT NAM
2.1.1 Tư tưởng kinh tế
Con người ở thời nguyên thuỷ sử dụng những thứ có sẵn trong thiên
nhiên như cành cây, hòn đá, mẫu xương..., vừa làm nơng cụ sản xuất để ni
sống mình, vừa làm công cụ để tự vệ chống đỡ thiên tai và những dã thú hung
dữ đến uy hiếp mình. Nhưng nói đến thời đại nguyên thuỷ, người ta đặc biệt
quan tâm đến thời đại đồ đá.
Thời đại đồ đá là thời kỳ kéo dài nhất trong lịch sử nhân loại. Bản thân
kỹ thuật đồ đá cũng có nhiều giai đoạn phát triển. Căn cứ vào kỹ thuật làm đồ
đá, khảo cổ học chia thời đại đồ đá ra ba thời kỳ: đồ đá cũ, đồ đá giữa, đồ đá
mới.

Thời kỳ đồ đá cũ kéo dài từ trên 1 triệu năm đến khoảng hơn 1 vạn năm
trước công nguyên. Thời kỳ này cơng cụ cũng như sản phẩm cịn rất thồ kệch,
đơn giản, tất nhiên, năm suất lao động còn thấp.
21


Thời kỳ đồ đá giữa kéo dài từ hơn 1 vạn năm đến khoảng 7.000 năm
trước công nguyên. Đây là thời kỳ quá độ giữa thời kỳ đồ đá cũ và đồ đá mới.
Do đó, nó khơng có nét đặc trưng rõ rệt, mà chỉ có tính chất trung gian.
Thời đại đồ đá mới kéo dài từ khoảng trên 6.000 năm đến 2.000 trước
công nguyên. Đây là thời kỳ phát triển kỹ thuật đồ đá cao nhất.
Trong cả ba thời kỳ đồ đá đều có những bước phát triển về kỹ thuật ghè
đẽo đá, từ thô sơ đến phức tạp, phát triển theo quá trình từ thấp lên cao qua các
cơng đoạn biến đổi, hồn thiện địi hỏi nhiều cơng sức và kỹ năng lao động
sáng tạo. Vì thế, lúc này xã hội lồi người chẳng những có biến chuyển về
kinh tế từ hái lượm, săn bắt sang trồng trọt, chăn ni, mà cịn kéo theo cả sự
chuyển biến trong hình thái ý thức.
Trong những năm 60 của thế kỷ XX, trên lãnh thổ Việt Nam, người ta đã
phát hiện các di chỉ sơ kỳ đồ đá cũ. Đó là di chỉ núi Đọ, Quan Yên... (Thanh
Hoá). Nhưng xung quanh địa điểm này, có một số nhà nghiên cứu cịn chưa
nhất trí tính xác thực của các di chỉ này thuộc sơ kỳ đồ đá cũ? Theo các nhà
khảo cổ học, các di chỉ này tồn tại cách ngày nay khoảng vài chục vạn năm.
Đồ đá ở đây có rất nhiều. Trong đó, có hàng ngàn hiện vật đã được sun tầm,
nghiên cứu. Tất cả các hiện vật đều thuộc loại đá bazan ghè đẽo thô sơn, tạo
nên những mảnh tước, những cơng cụ chặt, nạo, rìu tay... Ở các di tích này,
người ta đã tìm thấy một số rìu tay cân xứng và được nhiều nhà nghiên cứu coi
ỉà của người vượn sơ kỳ đá cũ.
Rìu tay ở núi Đọ hình trái xồi, dài nhất tới 14 phân, rộng nhất tới 10
phân, dày nhất tới 7 phân, nặng gần một cân. Một đầu rìu dày, to làm chi
cầm. Đầu kia nhỏ, được đẽo ở cả hai mặt thành một lưỡi mỏng, sắc. Đó cũng

là những đặc điểm chung của rìu tay sơ kỳ đồ đá cũ tại các nơi trên thế giới.
Sở dĩ gọi là rìu tay, vì nó khơng có cán mà được ngay trong tay khi sử dụng
Rìu tay cân xứng thu thập được ở núi Đọ, tỉnh Thanh Hoá thể hiện con
người tối cổ ở trên đất Việt Nam đã có ý niệm về sự cân xứng. Những rìu tay

22


×