Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC SINH ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VÀ MỘT SỐ LOẠI CÂU HỎI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC TRONG KÌ THI THPT QUỐC GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.57 KB, 19 trang )

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC SINH ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VÀ MỘT SỐ
LOẠI CÂU HỎI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN
HỌC TRONG KÌ THI THPT QUỐC GIA

1.
1.1

Câu hỏi hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản
Cơ sở thiết kế câu hỏi đọc hiểu văn bản

Thường dựa vào thang Bloom(1951) gồm 6 bậc: nhớ, hiểu, vận dụng, phân tích,
tổng hợp, đánh giá. Năm 2001 thang Bloom được chỉnh sửa bởi Aderson và
Krathwohl gồm 6 bậc: nhớ, hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá, sáng tạo, thang
này được vận dụng rộng rãi trong tất cả các môn học cho học sinh. Thang nhận
thức này được sử dụng rộng rãi trong tất cả các môn học.
1.2 Các loại câu hỏi hướng dẫn HS đọc hiểu văn bản
1. Câu hỏi hướng dẫn HS nhớ
Dựa vào SGK em hãy trình bày những hiểu biết của em về tác giả Nguyễn Du?
Tại sao nói Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới
-> Câu hỏi này giúp chú ý ghi nhớ những chi tiết quan trọng về thân thế và sự
nghiệp của tác giả Nguyễn Du
2. Câu hỏi hướng dẫn HS hiểu
Trong bài “Hồn Trương Ba, da Hàng Thịt” , em hãy xác định nghĩa đen và
nghĩa bóng của các từ gạch chân : “ ...Mình đã quen cảnh an nhàn oai vệ rồi, sa
xuống hạ giới lầm lụi, đầu tro mặt muội, mình chịu sao nổi?”
-> Câu hỏi trên giúp HS Nam bộ có cơ hội tiếp xúc và hiểu các thành ngữ Bắc
bộ. Việc hiểu ý nghĩa của các từ này là cơ sở để hiểu văn bản ở cấp độ cao hơn
như nghệ thuật dùng từ, tính cách nhân vật...
3. Câu hỏi hướng dẫn HS vận dụng





Câu hỏi giúp học sinh liên hệ, suy ngẫm về những vấn đề trong văn bản

với những vấn đề/ tình huống tương tự trong cuộc sống thực:
“Qua đoạn trích Trao duyên, em nghĩ hành động nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho
Kim Trọng của Kiều có đúng hay khơng? Nếu là em, em sẽ làm như thế nào?”


Câu hỏi yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức của tác phẩm vừa được đọc-

hiểu để phân tích một tác phẩm tương tự
“Dựa vào những gì được học ở đoạn trích Trao dun của Nguyễn Du, phân tích
bài thơ Tâm sự của nàng Thúy Vân của Trương Nam Hương”


Câu hỏi/ bài tập đọc hiểu tạo ra những tình huống để học sinh vận dụng

kiến thức, kỹ năng vừa học trong quá trình đọc để giải quyết tình huống được
đặt ra:
“Đoạn trích Trao dun đã đề cao nhân phẩm cao quý nhất của Kiều chính là
lịng vị tha và hy sinh vì tình u. Liên hệ với cuộc sống hiện đại, giới trẻ
thường không yêu đương nghiêm túc, yêu hời hợt, yêu vụ lợi hoặc khi bị tình
yêu sâu sắc phản bội thì họ trả thù hay khi tình yêu tan vỡ họ thường có xu
hướng đổ lỗi cho người yêu. Theo em như thế nào là yêu? Trong tình yêu, nếu
em phát hiện đối phương khơng cịn u em nữa, em sẽ sẽ làm gì?”
4. Câu hỏi giúp học sinh phân tích
“Em hãy lý giải nguyên nhân tại sao Thúy Kiều lại chọn cách bán mình để
chuộc cha và trao duyên cho em gái? Từ đó cho thấy được đời sống của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa”

-> Câu hỏi này giúp HS xác định các ngun nhân, tìm kiếm thơng tin để dẫn
chứng chứng minh cho luận điểm. Qua đó thấy được mối liên hệ là hoàn cảnh
tác động lên cách tư duy, xử trí vấn đề của nhân vật
5. Câu hỏi giúp HS phê phán, đánh giá


“Thành công và hạn chế của nội dung tác phẩm Trăng nơi đáy giếng- Trần
Thùy Mai”
-> Câu hỏi trên đòi hỏi HS phải tư duy 2 mặt của vấn đề để cho thấy cách hiểu
và giải quyết vấn đề của HS
6. Câu hỏi giúp học sinh sáng tạo
“Đặt giả thuyết trong bài “Trao duyên”, Thúy Kiều vẫn đang lưỡng lự giữa
“hiếu” và “tình” chứ chưa quyết định trao duyên cho Thuý Vân, em hãy vẽ sáng
tạo ra một bức tranh hoặc một sơ đồ để giải quyết vấn đề đó giúp Kiều theo
cách của em và thuyết minh về nó”
-> Câu hỏi này khuyến khích HS sáng tạo khơng nhất thiết phải bó buộc vào
việc HS nhớ lại vẽ lại mà là sáng tạo một bức tranh; có thể sáng tạo về hình
thức: vẽ tranh bằng bút bi, vẽ sơ đồ tư duy hoặc sáng tạo thêm về nội dung:
sáng tạo những hình ảnh, chi tiết khơng có trong tác phẩm để giải quyết vấn đề.
2.

Câu hỏi Biết:

Mục tiêu: để kiểm tra trí nhớ của học sinh về các dữ liệu, số liệu, các định
nghĩa, tên tuổi, địa điểm… Việc trả lời các câu hỏi này giúp học sinh ôn lại
được những gì đã học, đã đọc hoặc đã trải qua.
Các từ để hỏi thường là: lấy ví dụ, liệt kê, gọi tên, cái gì, bao nhiêu, hãy định
nghĩa, cái nào, hãy mơ tả, cho biết...
VD: Trình bày những hiểu biết của anh/chị về tác giả Nguyễn Tuân?
Con sông Đà được tác giả Nguyễn Tuân miêu tả qua những hình ảnh nào?

3.

Câu hỏi Hiểu:

Mục tiêu: để kiểm tra cách học sinh liên hệ, kết nối các dữ liệu, số liệu, tên tuổi,
địa điểm, các định nghĩa… Việc trả lời các câu hỏi này cho thấy học sinh có khả


năng diễn tả bằng lời nói, nêu ra được các yếu tố cơ bản hoặc so sánh các yếu tố
cơ bản trong nội dung đang học.
Các cụm từ để hỏi thường là: tóm tắt, giải thích, phân biệt, chứng tỏ rằng, tại
sao, hãy phân tích, hãy so sánh…
VD: Tóm tắt lại tác phẩm “Hai đứa trẻ” bằng sự hiểu biết của anh/chị?
Em hiểu như thế nào về cụm từ “động lòng bốn phương”?
4.

Câu hỏi Vận dụng:

Mục tiêu: để kiểm tra khả năng áp dụng các dữ liệu, các khái niệm, các quy luật,
các phương pháp… vào hoàn cảnh và điều kiện mới. Việc trả lời các câu hỏi áp
dụng cho thấy học sinh có khả năng hiểu được các quy luật, các khái niệm… có
thể lựa chọn tốt các phương án để giải quyết, vận dụng các phương án vào thực
tiễn.
Các cụm từ để hỏi thường là: làm thế nào, giải quyết, minh họa, tính tốn, đưa
vào thực tế, bày tỏ…
VD: Nếu là nhân vật Phùng, khi thấy người đàn ông đánh đập vợ mình, anh/chị
sẽ giải quyết như thế nào?
5.

Câu hỏi Phân tích:


Mục tiêu: để kiểm tra khả năng phân tích nội dung vấn đề, từ đó đi đến kết luận,
tìm ra mối quan hệ hoặc chứng minh một luận điểm. Việc trả lời câu hỏi này
cho thấy học sinh có khả năng tìm ra được mối quan hệ mới, tự diễn giải hoặc
đưa ra kết luận.Việc đặt câu hỏi phân tích địi hỏi học sinh phải giải thích được
các nguyên nhân từ thực tế. Các câu hỏi phân tích thường có nhiều lời giải (thể
hiện sáng tạo)
Các cụm từ để hỏi thường là: tại sao..., đi đến kết luận; em có nhận xét gì, hãy
chứng minh, lựa chọn, chỉ ra sự khác biệt…


VD: Em có nhận xét gì về tâm thế khi ra đi của người anh hùng Từ Hải?
6.

Câu hỏi Tổng hợp:

Mục tiêu: để kiểm tra xem học sinh có thể đưa ra những dự đoán, giải quyết vấn
đề, đưa ra câu trả lời hoặc đề xuất có tính sáng tạo. Câu hỏi tổng hợp thúc đẩy
sự sáng tạo của học sinh, các em phải tìm ra những nhân tố và ý tưởng mới để
có thể bổ sung, cho nội dung. Để trả lời câu hỏi học sinh phải: dự đoán, giải
quyết vấn đề và đưa ra các câu trả lời sáng tạo.
Các cụm từ để hỏi thường là: hãy đưa ra kết luận, hãy đề ra biện pháp, thiết kế,
báo cáo, xây dựng…
Ví dụ: Em hãy rút ra biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ “Đây
thôn Vĩ Dạ” – Hàn Mặc Tử?
7.

Câu hỏi Đánh giá:

Mục tiêu: kiểm tra xem học sinh có thể đóng góp ý kiến và đánh giá các ý

tưởng, giải pháp,… dựa vào những tiêu chuẩn đã đề ra.
Các cụm từ để hỏi thường là: kết luận, phê bình, lý do của.............là gì, trên cơ
sở những tiêu chuẩn sau......... đánh giá giá trị của.........
VD: Qua sự hi sinh và cam chịu của người đàn bà hàng chài trong Chiếc
thuyền ngoài xa, anh/chị thấy người đàn bà hàng chài đáng thương hay đáng
trách?
Có ý kiến cho rằng nhân vật Từ Hải “bốn bể anh hùng còn dại gái”, ý kiến của
anh/chị về vấn đề này?
Loại câu hỏi hướng dẫn học sinh đọc văn bản
1/Nhân vật chính là ai?

Hướng dẫn HS tìm các chi tiết quan

Tìm các chi tiết, từ ngữ thể hiện… trọng trong văn bản, ghi nhớ thơng tin,
(hình ảnh bà Tú, cảnh ngày hè, tính phát triển vai trị giải mã văn bản


cách nhân vật…).

2/Phân tích các chi tiết, hình ảnh…

Rèn kĩ năng phân tích, so sánh, phát

Tác dụng của biện pháp nghệ thuật… ? triển vai trò giải mã văn bản
Lời nói… của nhân vật thể hiện điều gì
về tâm trạng/suy nghĩ/tính cách của
nhân vật ?
So sánh chi tiết/nhân vật A với các chi
tiết/nhân vật B…


3/Hãy tóm tắt cốt truyện ?
Chủ đề tác phẩm là gì ?

Rèn kĩ năng tổng hợp, phát triển vai
trò giải mã văn bản

4/Tác giả đã thể hiện chủ đề của tác Rèn kĩ năng tổng hợp, phát triển vai
phẩm tốt đến mức nào ?
trò giải mã văn bản
Đặc sắc nghệ thuật nổi bật của tác Khơi gợi kiến thức nền của HS, phát
phẩm này là gì? Hạn chế của tác phẩm triển vai trò kiến tạo nghĩa cho văn bản
là gì?
Em đánh giá như thế nào về hành động
của nhân vật ?
Khơi gợi năng lực sáng tạo, tưởng
5/Theo em, thông điệp mà tác giả
muốn gửi gắm trong văn bản là gì ?

tượng của HS, giúp HS, phát triển vai
trò kiến tạo nghĩa cho văn bản.

Khơi

gợi kiến

thức

6/Nếu em ở trong hoàn cảnh của nhân lực tưởng tượng của HS

nền và


năng


vật, em sẽ phản ứng/hành động/suy
nghĩ như thế nào?

Khơi gợi kỉ niệm, vốn sống của HS,

7/Theo em, tựa đề của văn bản, bìa của khơi
cuốn sách có thể thể hiện nội dung gì?

gợi cảm

xúc của

HS,

giúp

HS liên hệ văn bản với thực tế, làm
cho nội dung văn bản gần gũi với cuộc
sống của người đọc.

Khơi gợi kỉ niệm, vốn sống của HS,
8/Ý nghĩ đầu tiên của em khi đọc văn
bản là gì?
Vãn bản này đánh thức kí ức nào, gợi
em nhớ đến người nào, địa điểm hay


khơi

gợi cảm

xúc của

HS,

giúp

HS liên hệ văn bản với thực tế, làm
cho nội dung văn bản gần gũi với cuộc
sống của người đọc.

kinh nghiệm nào?

9/Theo em, người anh hùng/người Giúp HS liên hệ thực tế, nêu quan
chồng tốt/người vợ đảm đang… là điểm cá nhân
người như thế nào ?

Ví dụ: Khi dạy bài “Đây thơn Vĩ Dạ” – Hàn Mặc Tử. Giáo viên có thể đưa ra
một số câu hỏi theo thang Bloom để kích thích khả năng tìm tịi, phát hiện của
học sinh từ mức thấp đến cao.
Giáo viên có thể hỏi: Bài thơ “Đây thơn Vĩ Dạ” chia làm mấy phần? Nêu nội
dung chính của từng phần?, với câu hỏi này, học sinh sẽ sử dụng nguồn thơng
tin có sẵn trong văn bản để trả lời, và chỉ có một đáp án duy nhất đúng cho câu
hỏi này. Hay với câu Em nhận xét gì về bức tranh thiên nhiên thơn Vĩ buổi ban


mai?, học sinh sẽ vận dụng những gì đã tìm hiểu, đã phân tích để đưa ra nhận

xét theo sự nhìn nhận, hiểu biết của mỗi cá nhân. Câu hỏi: Hình ảnh “áo em
trắng q” và “sương khói mờ nhân ảnh” gợi cho em suy nghĩ gì? thì câu trả
lời rất phong phú, tùy theo kinh nghiệm sống và độ sâu sắc trong tâm hồn, suy
nghĩ của từng học sinh. Để khơi gợi năng lực tưởng tượng, khả năng kiến tạo
nghĩa cho văn bản của học sinh, giáo viên có thể nêu những câu hỏi Theo
anh/chị đây là một bài thơ về tình u hay là tình q? Hay Có người cho rằng,
bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử chỉ thể hiện tình yêu đối với người con
gái xứ Huế. Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên?. Những câu hỏi như vậy sẽ tạo
cho học sinh cơ hội được thể hiện chính kiến của bản thân đối với các vấn đề
trong quá trình đọc hiểu văn bản.
1.3. Thực trạng sử dụng câu hỏi và đề xuất giải quyết
1.3.1. Đánh giá thực trạng sử dụng câu hỏi đọc – hiểu môn Ngữ văn ở
trường phổ thông hiện nay

Đối với việc dạy của giáo viên:
Giáo viên đi theo lối mòn của việc giảng dạy đọc hiểu bằng cách hiểu hộ, đọc
hộ, trả lời thay học sinh những câu hỏi mình đưa ra. Chủ động cung cấp kiến
thức cho học sinh, áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ
của mình tới học sinh. Giáo án về nội dung chứ không phải là giáo án để dạy
phương pháp đọc hiểu văn bản cho người học.
Phần lớn những câu hỏi hướng dẫn đọc văn bản trong sách giáo khoa và trong
giờ đọc hiểu hiện nay giới hạn ở loại câu hỏi: Tìm chi tiết thể hiện sự lam lũ, tảo
tần của nhân vật…; Chi tiết... có ý nghĩa gì?’ Phân tích… Những câu hỏi trên
đều hướng vào chức năng nhận thức: giúp HS hiểu tác phẩm, nhớ các thông tin,
chủ đề, giải mã văn bản, không chú trọng khơi gợi cảm xúc, kinh nghiệm sống
của học sinh, không khuyến khích những cách hiểu khác nhau về văn bản, cũng
khơng giúp học sinh nhận biết văn bản có tác động hoặc có ý nghĩa như thế nào
với chính các em.

Đối với việc học của học sinh:


Bên cạnh hệ thống câu hỏi mà GV định hướng, HS còn được trang bị một
số câu hỏi từ SGK trong phần hướng dẫn học bài, chuẩn bị bài ở nhà. Chuẩn bị


bài là một yêu cầu quan trọng trong việc dạy và học môn Ngữ văn (đây là yêu
cầu chung cho tất cả các môn học, tuy nhiên đối với môn Ngữ văn đây lại là yêu
cầu mang tính đặc thù). Có chuẩn bị bài tốt thì học sinh (HS) mới có thể lĩnh hội
tốt kiến thức trong q trình Đọc - hiểu văn bản. Vì thế trong SGK bất cứ mơn
học nào, khơng ngoại trừ mơn Ngữ văn đều có hệ thống câu hỏi hướng dẫn học
bài ở phần sau nội dung bài học. Tuy nhiên thực tế giảng dạy và học tập môn
Ngữ văn hiện nay cho thấy, HS chuẩn bị bài trên cơ sở câu hỏi Hướng dẫn học
bài trong sách giáo khoa (SGK) chỉ để đối phó, chiếu lệ, có em cịn khơng
chuẩn bị bài ở nhà mà đến trường mới bắt đầu tiếp nhận tác phẩm. Các câu hỏi
GV đưa ra cho HS đều trong phần bài giảng rồi gợi ý cho các em trả lời còn ở
nhà chỉ là đọc tác phẩm và trả lời các câu hỏi cuối bài.
Về phía học sinh, tồn tại lớn nhất là thói quen thụ động, ghi nhớ và tái hiện lại
một cách máy móc, rập khn những gì giáo viên đã giảng. Chưa có thói quen
chủ động tìm hiểu, khám phá bài học, lười suy nghĩ, lẽ ra phải làm chủ tri thức
thì lại trở thành nơ lệ của sách vở.
Học sinh thiếu nhiều về kiến thức ngữ văn, chưa hiểu rõ về khái niệm đọc hiểu,
rất ít học sinh đọc sách để thấy được cái hay cái đẹp, biết rung động trước
những tác phẩm văn học hay.
1.3.2. Đề xuất giải quyết thực trạng
Từ những thực trạng nêu ra trên đây, tôi xin đưa ra một số biện pháp để góp
phần phát huy hiệu quả phương pháp nêu câu hỏi trong dạy học Ngữ văn ở
THPT.

Thứ nhất, việc đặt câu hỏi đối với mỗi bài học phải mang tính hệ thống, có tác
dụng định hướng để khai thác nội dung bài học. Tính hệ thống của câu hỏi phụ

thuộc vào cách tiếp cận đối tượng và vấn đề.

Thứ hai, để hỏi có hiệu quả, HS hiểu câu hỏi và có hứng thú để trả lời, để tham
gia bài học, câu hỏỉ không trở thành “nỗi sợ hãi” cho HS, thì người GV cần chú
ý đến kĩ thuật hỏi: Từ ngữ trong câu hỏi cũng như cách đặt câu hỏi phải phù hợp
với sự hiểu biết của học sinh. Người giáo viên phải chuẩn bị tốt câu hỏi, dự kiến
những khả năng và mức độ trả lời. Những câu hỏi cần được đưa ra một cách tự
nhiên thân mật, có mối liên hệ chặt chẽ với mạch suy nghĩ của học sinh và phải
tạo ra hứng thú trao đổi, tranh luận. Tùy vào mức độ khó dễ mà chỉ định học


sinh nào trả lời. Nên tránh lặp lại câu hỏi hoặc dùng những câu hỏi trùng ý.
Không nên nhắc nhiều lần một câu hỏi như “khủng bố” tinh thần học sinh.

Xử lí các câu hỏi của học sinh cần bình tĩnh, nhẹ nhàng, cần tạo điều kiện thời
gian để cho học sinh trả lời trọn vẹn ý. Phải tôn trọng và chấp nhận ý kiến thông
minh của học sinh và cần biểu dương sự trả lời thành thật của các em. Phải biết
uốn nắn, bổ sung khi cần thiết với những ý kiến chưa đầy đủ và đúng đắn. Phải
tạo điều kiện tốt để học sinh vừa trả lời vừa đặt câu hỏi cho giáo viên một cách
đúng đắn. Giáo viên có trách nhiệm trả lời những câu đặt ra của học sinh,
nghiêm túc, không lảng tránh, bịa đặt,...

`Thứ ba, trong quá trình giảng dạy, yêu cầu chuẩn bị bài một cách nghiêm túc
đã trở thành một công việc thật sự hữu ích cho q trình học tập của mỗi HS.
Với môn Ngữ văn, yêu cầu này càng trở nên cấp thiết hơn bởi lẽ để tiếp cận một
tác phẩm văn học cần phải hội tụ nhiều kĩ năng, phải có sự tiếp cận bề mặt văn
bản trên cơ sở đó cảm nhận những giá trị thẫm mĩ ẩn chứa sau từng con chữ.
Việc HS chuẩn bị tốt bài ở nhà là đã làm tốt công việc tiếp cận bề mặt văn bản.
Đây có thể nói là yếu tố "nền" để khi lên lớp kết hợp với những tri thức của GV
cung cấp, HS sẽ có một cái nhìn tương đối trọn vẹn về tác phẩm văn học được

học (ở mức độ phổ thông). Xuất phát từ thực tế ấy, thiết nghĩ trên nền tảng gợi ý
của hệ thống câu hỏi trong SGK, GV giảng dạy Ngữ văn có thể biên soạn một
hệ thống câu hỏi khác cụ thể hơn, gắn liền với bài giảng của GV hơn. HS được
GV cung cấp hệ thống câu hỏi cho bài học mới sau mỗi tiết dạy. Đây chính là
điều kiện thuận lợi để HS có thể chuẩn bị bài tốt hơn và GV có thể tiết kiệm
được nhiều thời gian trên lớp. Như vậy nếu thực hiện tốt công việc này, vấn
đề"cháy giáo án" trong giảng dạy Ngữ văn sẽ phần nào được giải quyết. Đồng
thời từ hệ thống những câu hỏi ấy GV sẽ giúp học sinh nâng cao khả năng tự
tiếp cận tác phẩm, thốt li dần và khơng cịn phụ thuộc một cách thụ động với
những sách "học tốt".
Để cải thiện thực trạng trên, trong dạy học đọc hiểu văn bản, giáo viên chỉ nên
là người dẫn dắt, nêu vấn đề để học sinh trao đổi thảo luận, thiết kế các hoạt
động để có thể giúp học sinh tự vận dụng kỹ năng phân tích, suy luận và đưa ra
được các dẫn chứng cụ thể làm nhận định cho suy luận của mình. Hệ thống câu
hỏi được đặt ra phải rõ ràng, không quá mơ hồ hay vượt quá khả năng tư duy
của học sinh:


-

GV cần tránh đưa ra câu hỏi khó để HS khơng có khả năng trả lời.
GV tránh đưa ra câu hỏi dễ không phát huy được năng lực HS.
GV cần có nhận xét, động viên ngay những câu trả lời chưa đúng của học

sinh.
Nếu HS trả lời sai cần đặt câu hỏi đơn giản hơn để HS trả lời được vì HS
chỉ có hứng thú khi học trả lời được.
Giáo viên có thể tạo cơ hội để học sinh nghiên cứu, hoạt động hướng đến kỹ
năng đọc chính xác và có tính đánh giá cao từ đó vận dụng vào thực tiễn cuộc
sống. Hiện nay, Bộ GD&ĐT đang có chủ trương vận dụng PISA trong giảng

dạy và kiểm tra, đánh giá năng lực đọc – hiểu văn bản của học sinh để góp phần
cải tiến chất lượng giáo dục phổ thông, chú trọng đến khả năng tư duy, lập luận
của học sinh, gắn kiến thức học tập trong nhà trường và giải quyết các vấn đề
ngoài cuộc sống. Đây cũng là một giải pháp hiệu quả đối với thực trạng sử dụng
câu hỏi đọc hiểu trong nhà trường, vừa đa dạng hóa được hệ thống câu hỏi, vừa
phát huy được năng lực đọc hiểu của học sinh.
2.

Một số dạng câu hỏi đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản trong kì thi

THPT Quốc gia
2.1. Khảo sát các dạng câu hỏi trong đề thi THPT Quốc gia gần đây
Đề thi THPT Quốc gia năm 2014
Đề thi THPT Quốc gia năm 2014 (Khối
C)

Đề thi THPT Quốc gia năm 2015

Câu 1: (2,0 điểm)

I. Phần đọc hiểu (3,0 điểm)

Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu

níu váy bà đi chợ Bình Lâm

cầu từ câu 1 đến câu 40:


bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

Chúng tôi đúng đây trần trụi giữa trời

và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần

Cho biển cả khơng cịn hoang lạnh
Đứa ở đồng chua

Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

Đứa ở đất mặn

chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng

Chia nhau nỗi nhớ nhà


mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

Hồng hơn tím ngắt ra khơi

điệu hát văn lảo đảo bóng cơ đồng

Chia nhau tin vui
Về một cô gái làng khểnh răng hay hát

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

Vầng trăng lặng dưới chân lều bạt


bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

Hắt lên chúng tơi nhếnh nhống vàng

bà đi gánh chè xanh Ba Trại

Chúng tôi coi thường gian nan

Quán Cháo, Đồng Giao thập thững Dù đồng đội tôi, ngã trước miệng cá mập
những đêm hàn

Có người bị vùi dưới cơn bão dữ tợn

(Đò Lèn – Nguyễn Duy, Ngữ văn 12, Tập Ngày mai đảo sẽ nhô lên
một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, Tổ quốc Việt Nam một lần nữa nối liền
tr.148)

Hoàng Sa, Trường Sa
Những quần đảo long lanh như ngọc dát

Đọc đoạn thơ trên và thực hiện các yêu Nói chẳng đủ đâu, tôi phải hát
cầu sau:
1.

Một bài ca bằng nhịp trái tim tôi

Xác định những phương thức biểu Đảo ơi, đảo ơi !

đạt được sử dụng trong đoạn thơ. (0,5 (Đảo thuyền chài, 4 - 1982)

điểm)
(Trích “Hát về một hòn đảo” – Trần Đăng
2.
Các từ “lảo đảo”, “thập thững” có
Khoa,
vai trị gì trong việc thể hiện hình ảnh cơ
Trường Sa, NXB Văn học 2014, tr.51)
đồng và người bà? (0,5 điểm)
Câu 1. Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ
3.
Sự vô tâm của cháu và nỗi cơ cực
nào?
của bà hiện lên qua những hồi ức nào?
Câu 2. Cuộc sống gian khổ và hiểm nguy
Người cháu đã bày tỏ nỗi niềm gì qua
trên đảo của người lính được miêu tả qua
những hồi ức đó? (1,0 điểm)
những từ ngữ, hình ảnh nào?
Câu 3. Chỉ ra và nêu hiệu quả của biện pháp
tu từ được sử dụng trong câu thơ "Những
hòn đảo long lanh như ngọc dát"
Câu 4. Đoạn thơ đã gợi cho anh chị tình cảm
gì đối với người lính đảo? (Trình bày


khoảng 5 - 7 dịng)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu
cầu từ câu 5 đến câu 8:
"Hội chứng vơ cảm hay nói cách khác là
căn bệnh trơ cảm xúc trước niềm vui, nhất

là nỗi đau của người khác, vốn là một mặt
trong hai phương diện cấu trúc bản chất
Con - Người của mỗi sinh thể người "con"
và tính "người" ln ln hình thành, phát
triển ở mơi con người từ khi lọt lịng mẹ cho
đến khi nhắm mắt xi tay. Cái thiện cái ác
luôn luôn song hành theo từng bước đi, qua
từng cử chỉ, hành vi của mỗi con người
trong mối quan hệ với cộng đồng, với cha
mẹ, anh chị em, bạn bè, bà con làng xóm,
đồng bào, đồng loại. Trong cuộc hành trình
lâu dài gian khổ của một đời người, cái mất
và cái được không phải đãđược nhận ra một
cách dễ dàng. Mất một đồng xu, một miếng
ăn, mất một phần cơ thể, một vật sở hữu con
người nhận biết ngay . Nhưng có những cái
mất, cái được nhiều khi lại khơng dễ gì cảm
nhận được ngay. Nhường bước cho một cụ
già cao tuổi, nhường chỗ cho bà mẹ có con
nhỏ trên tàu xe chật chội, biếu một vài đồng
cho người hành khất... Có mất có được
nhưng khơng phải ai cũng nhận ra cái gì mà
mình đã thu được có khi là sự thăng hoa
trong tâm hồn từ thiện và nhân ái. Nói như


một nhà văn lớn, người ta chỉ lo túi tiền
rỗng đi nhưng lại khơng biết lo tâm hồn
mình đang vơi cạn, khô héo dần. Tôi muốn
đặt vấn đề là cùng với sự báo động những

hiểm họa trông thấy, cần báo động cả hiểm
họa khơng trơng thấy hay khó trơng thấy .
Hiện nay đã có quá nhiều dấu hiệu và sự
kiện trầm trọng của hiểm họa vô cảm trong
xã hội ta nhất là giới trẻ.
Bạo lực đã xuất hiện dữ dằn những tháng
ngày gần đây báo hiệu nguồn ngốc sâu xa
của sự xuống cấp nghiêm trọng về nhân vân
về bệnh vô cảm."
(Trích "Nguồn gốc sâu xa của hiểm họa",
Bài tập ngữ văn 12, Tập 1, NXB giáo dục
Việt Nam, 2014, tr 36-37)
Câu 5. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính
được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 6. Theo tác giả, nguồn gốc sâu xa của
nạn bạo lực xuất hiện gần đây là gì?
Câu 7. Tác giả đã thể hiện thái độ gì khi bàn
về hiểm họa vô cảm trong xã hội hiện nay?
Câu 8. Anh/Chị suy nghĩ như thế nào khi có
những người "Chỉ lo túi tiền rỗng đi nhưng
lại không biết lo tâm hồn mình đang vơi cạn
khơ héo dần"? (Trình bày khoảng 5 đến 7
dòng)


2.2. So sánh, nhận xét câu hỏi đọc hiểu trong đề thi THPT Quốc gia
2.2.1. So sánh
* Giống nhau:
Dạng câu hỏi đọc hiểu của cả hai đề thi đều dựa vào thang nhận thức.
Kiểm tra năng lực đọc hiểu văn bản của học sinh.

* Khác nhau:
Số lượng

-

Đề thi năm 2014
3 câu hỏi

-

trong 2 văn bản
Nằm trong chương trình Văn bản nằm ngoài

câu hỏi
Nguồn ngữ
liệu
Phân loại
câu hỏi

-

Đề thi năm 2015
8 câu hỏi chia đều

Ngữ văn (cụ thể là lớp 12, chương trình THPT
sách nâng cao)
Dựa vào thang đánh giá của Dựa vào thang đánh giá các
Bloom:
Câu 1.


cấp độ tư duy (Thinking
Xác

định

những

Levels):
phương thức biểu đạt được sử - Các câu hỏi ở mức độ nhận
dụng trong đoạn thơ => câu biết là câu 1 và câu 5 (1.
hỏi ở mức độ biết
Đoạn thơ trên được viết theo
Câu 2. Các từ “lảo đảo”,
thể thơ nào? 5.Chỉ ra phương
“thập thững” có vai trị gì
thức biểu đạt chính được sử
trong việc thể hiện hình ảnh
dụng trong đoạn trích.).
cơ đồng và người bà? => câu Câu hỏi ở mức độ vận thông
hỏi ở mức độ hiểu
hiểu là câu 2, 6, 7 (2. Cuộc
Câu 3. Sự vô tâm của cháu và
sống gian khổ và hiểm nguy
nỗi cơ cực của bà hiện lên
trên đảo của người lính được
qua những hồi ức nào? Người
miêu tả qua những từ ngữ,
cháu đã bày tỏ nỗi niềm gì
hình ảnh nào? 6. Theo tác
qua những hồi ức đó? => câu

giả, nguồn gốc sâu xa của
hỏi phân tích
nạn bạo lực xuất hiện gần


đây là gì? 7. Tác giả đã thể
hiện thái độ gì khi bàn về
hiểm họa vơ cảm trong xã hội
hiện nay?)
Câu hỏi ở mức độ vận dụng
thấp là câu 4. Đoạn thơ đã
gợi cho anh chị tình cảm gì
đối với người lính đảo?
(Trình bày khoảng 5 - 7 dịng)
Câu 8 là câu hỏi vận dụng cao
Anh/Chị suy nghĩ như thế nào
khi có những người "Chỉ lo
túi tiền rỗng đi nhưng lại
khơng biết lo tâm hồn mình
đang vơi cạn khơ héo dần"?
(Trình bày khoảng 5 đến 7
dịng)
Câu 3. Chỉ ra và nêu hiệu quả
của biện pháp tu từ được sử
dụng trong câu thơ "Những
hòn đảo long lanh như ngọc
dát" là câu hỏi kết hợp mức
độ biết và hiểu.
2.2.2. Nhận xét
Số lượng câu hỏi của đề thi THPTQuốc gia năm 2014 còn khá ít, cịn mang tính

lí thuyết và nghiên về nhiều về kiến thức, chỉ mới đánh giá được khả năng đọc –
nhớ, hiểu, chưa đánh giá được khả năng vận dụng và sáng tạo của học sinh.
Nhưng ở đề thi năm 2015, câu hỏi đã đáp ứng được phần nào khả năng lập luận,


tư duy của các em ở mức vận dụng thấp và vận dụng cao kết hợp với khả năng
đọc hiểu phân tích. Từng bước nâng cao năng lực chủ động đọc hiểu, sử dụng
phương pháp đọc hiểu như một công cụ để giải quyết nhiều văn bản khác nhau.
Việc gia tăng số lượng câu hỏi phần đọc – hiểu cho thấy Bộ GD đã chú trọng
nhiều đến khả năng sử dụng tiếng Việt của học sinh.
Ngữ liệu của đoạn văn đọc hiểu cũng được đa dạng hơn, khi Bộ GD đã đưa
những phần văn bản nằm ngồi chương trình phổ thông để kiểm tra độ nắm bắt
thông tin của người học. Các dạng câu hỏi đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản
của học sinh sẽ mang tính thời sự và gần gũi.Tập trung kiểm tra các kỹ năng cơ
bản và tập trung vào kĩ năng tạo lập văn bản, cho học sinh có cơ hội thể hiện
suy nghĩ của bản thân, khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề.
Với đề thi năm 2015, hầu hết các kiến thức Tiếng Việt quan trọng trong chương
trình Ngữ văn THPT đều được đưa vào (Tìm chi tiết, từ ngữ thể hiện hình ảnh,
nội dung; tìm các phương thức biểu đạt…). Với dạng đề như thế này yêu cầu
học sinh phải hiểu được bản chất của vấn đề, hiểu và áp dụng được các kiến
thức đã học một cách linh hoạt để bài làm có được thành tích tốt nhất.
2.3.

Lưu ý với người dạy

Để đạt hiệu quả đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản của học sinh trong kì thi
THPT Quốc gia đạt được hiệu quả cao. Người giáo viên trong q trình giảng
dạy cần kích thích tư duy của học sinh, tránh tình trạng đi theo lối mịn là người
thầy hiểu hộ học sinh và áp đặt kiến thức, tư duy của mình vào câu hỏi. Giáo
viên chỉ là người cầm đèn soi hướng chứ không phải là người dẫn đường cho

học sinh đi theo lối của mình.
Khi thiết kế câu hỏi đọc hiểu cho học sinh, giáo viên cần lưu ý những vấn đề
sau:
Thứ nhất, đối tượng tìm hiểu, khám phá của giờ đọc hiểu là tác phẩm văn học
với những đặc trưng: tính hình tượng, tính truyền cảm, tính hàm súc, tính đa


nghĩa. Vì thế mà mỗi người đọc, dựa trên kiến thức nền, quan điểm thẩm mỹ
của mình, có cách hiểu, cách giải thích khác nhau về văn bản, đồng thời có thể
sáng tạo ra những ý nghĩa mới, ngồi những ý nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm.
Như vậy, vai trị của người đọc khơng chỉ là giải mã văn bản: khám phá ý nghĩa
các từ ngữ, hình ảnh, ý nghĩa của tác phẩm mà cịn có một vai trị kiến tạo
nghĩa: tạo ra những ý nghĩa mới cho văn bản. Vậy vấn đề đặt ra là trong quá
trình dạy đọc hiểu giáo viên phải thiết kế được những câu hỏi giúp học sinh
thực hiện cả hai vai trò trên.
Vấn đề thứ hai: Chức năng của văn chương là phản ảnh cuộc sống, truyền cảm
xúc cho người đọc. Do vậy, ngoài việc phát triển tư duy cho học sinh, câu hỏi
cịn có chức năng khơi gợi cảm xúc, ký ức, kinh nghiệm sống của HS, giúp HS
có những suy ngẫm về cuộc sống. Nếu giáo viên chỉ hướng đến việc xây dựng
câu hỏi để thực hiện chức năng nhận thức (giúp học sinh hiểu văn bản) thì
khơng đầy đủ và không thể hiện được các đặc trưng riêng của hoạt động tiếp
nhận văn chương, không đáp ứng được mục tiêu dạy đọc hiểu văn bản.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách giáo khoa Ngữ Văn 12, tập 1, Nxb Giáo dục Việt Nam
Nguyễn Thị Hồng Nam (2006). Thiết kế CH trong DH văn – một thử thách với
giáo viên. Tạp chí Giáo dục số 147, kỳ 1 – 10/2006. [1.1 – 1.2 – 2.3]
[1.1]
s/documents/thang-danh-gia-bloom-va-thang-cac-cap-do-tuduy.html [1.2]
/>_minh_hoa_-_Ngu_van [2.2]



[2.2]



×