Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội từ thực hiện ở tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (935.46 KB, 104 trang )

... ...

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

KIỀU HỒNG SƠN

THùC HIệN PHáP LUậT Về BảO HIểM XÃ HộI:
Từ THựC TIễN ở TỉNH LạNG SƠN

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

KIỀU HỒNG SƠN

THùC HIÖN PHáP LUậT Về BảO HIểM XÃ HộI:
Từ THựC TIễN ở TỉNH LạNG SƠN
Chuyờn ngnh: Lut Hin phỏp v Lut Hnh chính
Mã số: 8380101.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS BÙI XUÂN ĐỨC

HÀ NỘI - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

KIỀU HỒNG SƠN


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các chữ, ký hiệu viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM XÃ HỘI.......................................................................... 7
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội ........ 7

1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội .............................. 7

1.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội ............................... 9
1.1.3. Hình thức thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội ............................ 13
1.2.

Nội dung thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội ......................... 18

1.2.1. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo hiểm xã hội....... 18
1.2.2. Hoạt động áp dụng pháp luật về bảo hiểm xã hội .............................. 22
1.2.3. Hoạt động thanh tra, kiểm tra trong quá trình thực hiện pháp luật
về bảo hiểm xã hội ............................................................................. 26
1.2.4. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong quá
trình thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội ..................................... 28
1.3.

Những yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về bảo hiểm
xã hội ................................................................................................. 32

1.3.1. Sự hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội ....................... 32
1.3.2. Ý thức pháp luật của những chủ thể tham gia quan hệ bảo hiểm
xã hội .................................................................................................. 33
1.3.3. Hoạt động tổ chức, thực hiện pháp luật về BHXH của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ............................................... 34
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 36


CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO
HIỂM XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN .................. 37
2.1.

Khái quát về tỉnh Lạng Sơn và những yếu tố tác động đến

thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn ........................................................................................... 37

2.1.1. Khái quát về tỉnh Lạng Sơn................................................................ 37
2.1.2. Những yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã
hội trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn ........................................................... 39
2.2.

Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn ............................................................................ 41

2.2.1. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo hiểm xã hội....... 41
2.2.2. Hoạt động cụ thể hóa pháp luật tại địa phương ................................. 44
2.2.3. Hoạt động áp dụng pháp luật về bảo hiểm xã hội .............................. 51
2.2.4. Hoạt động thanh tra, kiểm tra quá trình thực hiện pháp luật về
bảo hiểm xã hội .................................................................................. 65
2.2.5. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong quá
trình thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội ..................................... 66
2.3.

Những thuận lợi và bất cập, hạn chế trong thực hiện pháp
luật về bảo hiểm xã hội .................................................................... 68

2.3.1. Những thuận lợi trong thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội......... 68
2.3.2. Những bất cập, hạn chế trong thực hiện pháp luật về bảo hiểm
xã hội .................................................................................................. 70
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 75
CHƢƠNG 3: TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO
HIỂM XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH LẠNG SƠN ................. 76
3.1.


Yêu cầu tăng cƣờng thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội
trong giai đoạn hiện nay .................................................................. 76

3.1.1. Tăng cường thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội cần phù hợp
với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội................................................ 76


3.1.2. Tăng cường thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội để giải quyết
những hạn chế, bất cập còn tồn tại ..................................................... 78
3.2.

Giải pháp tăng cƣờng thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội
từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn .............................................................. 80

3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội ............................ 80
3.2.2. Bảo đảm điều kiện để thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội ......... 83
3.2.3. Nâng cao hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và xử lý vi phạm về thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội ........... 84
3.2.4. Nâng cao hoạt động tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm về thực
hiện pháp luật bảo hiểm xã hội .......................................................... 86
3.2.5.

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác bảo hiểm xã hội ....... 87

3.2.6. Giải pháp tăng cường thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn ........................................................................ 88
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 91
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 94



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASXH

An sinh xã hội

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1

Các chương trình, quy chế phối hợp triển khai chính
sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội

46

Bảng 2.2

Đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, BHXH
tự nguyện giai đoạn 2016-6/2020

52

Bảng 2.3

Số thu BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, tiền lương
tháng đóng BHXH bắt buộc giai đoạn 2016-6/2020

56

Bảng 2.4

Giải quyết các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,

bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất

58

Bảng 2.5 Giải quyết các loại chế độ BHXH một lần

61


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống an sinh xã hội là một trong những nền tảng thiết yếu của mỗi
quốc gia, đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
Đó là hệ thống chính sách nhiều tầng để tương trợ giúp đỡ tất cả các thành
viên trong xã hội khi gặp hoạn nạn, khó khăn trong cuộc sống. Xây dựng hệ
thống an sinh xã hội hoàn thiện, toàn diện, vững mạnh đang là nhiệm vụ thiết
yếu mà mỗi quốc gia đặt ra. Kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đến nay, Đảng và nhà nước ta đã và đang ngày càng quyết tâm phát
triển hệ thống an sinh xã hội bảo đảm thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền
cơ bản của con người, của công dân, tiến tới chuẩn mực quốc tế đặt ra.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của các quyền được hưởng an sinh xã hội
trong sự ổn định, phát triển của đất nước, nhà nước Việt Nam đã xây dựng và
đang tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về an sinh xã hội. Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 lần đầu tiên ghi nhận quyền
được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34) như là một quyền cơ bản của công dân
và Điều 59 Hiến pháp cũng quy định “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để
công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội”. Điều
này cho thấy rằng nhà nước ta đang ngày càng chú trọng hơn vào việc bảo
đảm quyền lợi cho công dân cũng như sự ổn định và phát triển xã hội, tiến tới
những chuẩn mực quốc tế đặt ra.

Bảo hiểm xã hội là một trong những trụ cột chính của hệ thống an sinh
xã hội. Chính sách bảo hiểm xã hội tốt sẽ đóng vai trị quan trọng cho sự ổn
định, phát triển kinh tế - xã hội, giảm bớt được áp lực đối với hệ thống phúc
lợi xã hội, bảo đảm đời sống cho người lao động, tạo dựng niềm tin cho người
dân vào hệ thống chính sách của Đảng và nhà nước, giữ vững an ninh, chính

1


trị, góp phần thúc đẩy sự phát triển đất nước. Ở nước ta, trải qua từng thời kỳ
phát triển khác nhau, Đảng và nhà nước luôn chú trọng đến công tác xây dựng,
sửa đổi hệ thống pháp luật về BHXH sao cho phù hợp với tình hình phát triển
của đất nước, đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo người lao động, bảo
đảm hệ thống an sinh xã hội và tiến tới hội nhập quốc tế. Đến thời điểm hiện
tại, về cơ bản nước ta cũng đã xây dựng được một khung pháp lý khá hoàn
chỉnh về BHXH phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
góp phần bảo đảm các quyền cơ bản của công dân, đặc biệt là đối với người
lao động. Tuy nhiên để hệ thống pháp luật về BHXH phát huy được vai trị, ý
nghĩa của nó trong cuộc sống thì việc thực hiện pháp luật về BHXH cũng là
một khâu vơ cùng quan trọng, giúp hiện thực hóa các quy định pháp luật vào
đời sống xã hội.
Thực hiện pháp luật là một vấn đề khoa học xã hội mang tính pháp lý
đã được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu, tìm hiểu. Những vấn đề chung về
thực hiện pháp luật đã được các học giả nghiên cứu như: khái niệm, đặc điểm,
vai trò, ý nghĩa của thực hiện pháp luật, các hình thức thực hiện pháp luật, áp
dụng pháp luật,… Bên cạnh đó việc thực hiện pháp luật trong một số lĩnh vực
cụ thể cũng được thừa kế, phát triển nghiên cứu hoặc cùng một vấn đề nhưng
lại được tiếp cận dưới góc độ của nhiều ngành luật học khác nhau. Mỗi một
cơng trình nghiên cứu đều đóng góp một phần vào việc hoàn thiện hệ thống lý
luận chung của vấn đề thực hiện pháp luật. Thực hiện pháp luật về bảo hiểm

xã hội và đặc biệt là tiếp cận nó dưới góc độ của khoa học luật hành chính là
một vấn đề cịn chưa được nghiên cứu sâu rộng. Nó có những đặc điểm riêng
biệt cần được định nghĩa, bổ sung vào hệ thống lý luận chung và từ đó đưa
vào thực tiễn thực hiện pháp luật về BHXH, góp phần thực hiện mục tiêu, vai
trị của BHXH.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi phía Đơng Bắc bộ, có đường biên giới

2


dài tiếp giáp với Trung Quốc với mật độ dân số thấp, điều kiện phát triển kinh
tế còn kém. Tuy nhiên, thị trường lao động tại đây lại khá phức tạp, bởi lẽ
Lạng Sơn là khu vực biên giới giáp với Trung Quốc, giao thông cực kỳ thuận
lợi, thu hút được rất nhiều lao động ở khắp mọi miền đất nước và nước ngồi
về đây. Bên cạnh đó thì tỉnh Lạng Sơn có số lượng cư dân là đồng bào dân tộc
thiểu số chiếm phần lớn, do vậy trình độ hiểu biết của người dân về pháp luật
nói chung cũng như pháp luật về BHXH cịn nhiều hạn chế.
Có thể thấy đây là một vấn đề bất cập còn tồn tại ở địa bàn tỉnh Lạng
Sơn. Muốn đấu tranh, bảo vệ quyền lợi cho người lao động thì rất cần phải có
sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành và giữa các cấp. Vì vậy, việc nghiên cứu
về thực hiện pháp luật BHXH tại một địa phương như tỉnh Lạng Sơn có ý
nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn. Với mong muốn góp phần hồn thiện lý luận
về thực hiện pháp luật về BHXH cũng như đóng góp được những giải pháp
thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BHXH tại địa
phương nơi mình sinh sống, người viết lựa chọn đề tài “Thực hiện pháp luật
về bảo hiểm xã hội: Từ thực tiễn ở tỉnh Lạng Sơn” để nghiên cứu ở cấp độ
thạc sỹ luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật nói chung
cũng như trong một số lĩnh vực nói riêng đã được rất nhiều học giả quan tâm,

tìm hiểu, nghiên cứu. Lĩnh vực BHXH không phải là một vấn đề mới mẻ ở
nước ta, cho đến nay đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này ở cả
quy mơ rộng, hẹp khác nhau, có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu như:
- Dương Văn Thắng (2015), Đổi mới và phát triển bảo hiểm xã hội ở
Việt Nam, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội.
- Nguyễn Hiền Phương (2015), Bình luận khoa học một số quy định
của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, Hà Nội.

3


- Nguyễn Thị Kim Phụng (2006), Hoàn thiện pháp luật về Bảo hiểm xã
hội ở Việt Nam, Hà Nội.
- Lê Thị Hoài Thu (2002), “Bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã
hội ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật, Tập 18 (3).
- Lê Thị Thu Hoài (2015), Thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội ở
Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.
- Nguyễn Phương Thảo (2015), Thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội
qua thực tiễn quận Bắc Từ Liêm, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Hà (2013), Pháp luật về Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện
nay, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.
- Vũ Thị Sâm (2015), Áp dụng pháp luật bảo hiểm tự nguyện theo Luật
bảo hiểm xã hội Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.
- Lê Thị Thu Hương (2007), Bảo hiểm xã hội tự nguyện. Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn áp dụng, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.
- Nguyễn Minh Hiệp (2018), Thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt
buộc trên địa bàn tỉnh Lai Châu, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.
- Dương Thảo Phương (2014), Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện –
thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.
- Trần Văn Kiệm (2017), Thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự

nguyện – qua thực tiễn tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.
Các cơng trình nghiên cứu khoa học, bài viết ở trên đã chỉ ra được những
khía cạnh khác nhau về ngành BHXH trong những năm qua và có những dự
báo, định hướng đổi mới cho tương lai. Bên cạnh đó cịn có một số cơng trình
nghiên cứu chun sâu về thực hiện pháp luật về BHXH tại một số địa phương.
Tuy nhiên, những cơng trình này lại tiếp cận vấn đề dưới nhiều ngành luật khác
nhau. Đề tài “Thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội: Từ thực tiễn ở tỉnh
Lạng Sơn” được người viết tiếp cận dưới góc độ khoa học Luật Hành chính –
Hiến pháp và có sự kế thừa từ những nghiên cứu của các tác giả đi trước.
4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp
luật về bảo hiểm xã hội. Thơng qua tìm hiểu thực tiễn thực hiện pháp luật trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn để phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về
BHXH và chỉ ra những hạn chế, khó khăn cịn tồn tại trên địa bàn tỉnh. Từ đó
đưa ra một số giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
BHXH ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Tổng quan về những vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về BHXH.
- Đánh giá, phân tích tình hình thực hiện pháp luật về BHXH trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn, chỉ ra được những thuận lợi, khó khăn, hạn chế.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường thực hiện pháp luật về BHXH
qua thực tiễn thực hiện pháp luật trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về thực

hiện pháp luật về BHXH và thực tiễn thực hiện pháp luật trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn dưới góc độ Luật hành chính – Hiến pháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vào hoạt động thực hiện pháp luật về
BHXH, thực trạng thực hiện pháp luật tại tỉnh Lạng Sơn trong khoảng thời
gian từ năm 2016 đến quý II năm 2020, từ đó đề xuất các giải pháp tăng
cường thực hiện pháp luật về BHXH.
5. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
5


tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà
nước ta liên quan đến thực hiện pháp luật về BHXH.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ nội dung đề tài, trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác
giả thực hiện kết hợp các phương pháp: Thống kê số liệu từ thực tiễn tỉnh
Lạng Sơn, tổng hợp, phân tích, so sánh các số liệu đã thống kê qua các năm
trong từng hoạt động và đánh giá, phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về
BHXH từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản trong thực hiện
pháp luật về BHXH dưới góc độ Luật hành chính – Hiến pháp, xây dựng nền
tảng lý luận cho những nghiên cứu chuyên sâu hơn.
Qua phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về BHXH trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn, Luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần tăng cường hoạt động
thực hiện pháp luật về BHXH nói chung cũng như trên địa bàn tỉnh nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn bao gồm 3 chương với tên gọi như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn
Chương 3: Tăng cường thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội từ thực
tiễn tỉnh Lạng Sơn.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Khái niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội ra đời là kết quả của một quá trình tranh đấu lâu dài
giữa những người lao động làm thuê và giới chủ tư bản. Vấn đề này lần đầu
tiên được biết đến là vào khoảng giữa thế kỷ XIX, bắt nguồn từ chế độ bảo
hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp của nước Phổ vào năm 1838. Trải
qua một quá trình phát triển lâu dài, các nước trên thế giới đều tự cố gắng xây
dựng cho mình một hệ thống BHXH hồn chỉnh nhằm giúp cho người dân
giảm bớt được những gánh nặng khi ốm đau, tai nạn, tuổi già, đặc biệt là đối
với người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khả năng lao động dẫn tới mất
hoặc giảm thu nhập. Về cơ bản có thể hiểu:
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm
giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình
thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời
sống cho người lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an
tồn xã hội [6, tr.29].
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam tập I định nghĩa thì:

Bảo hiểm xã hội là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho
người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau, tai
nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, tàn tật, tuổi già, tử tuất,… dựa
trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia
bảo hiểm xã hội có sự bảo hộ của nhà nước theo pháp luật, nhằm
đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng
thời góp phần bảo đảm an tồn xã hội [10, tr.150].

7


Tuy nhiên theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, khái niệm về Bảo
hiểm xã hội được khái quát một cách ngắn gọn và đầy đủ như sau:
Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc
chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội [20, Điều 3, khoản 1].
Thực hiện pháp luật không phải là một vấn đề nghiên cứu mới mẻ trong
giới các nhà khoa học luật. Mặc dù thuật ngữ này cũng vẫn chưa được định
nghĩa một cách thống nhất, nhưng các nhà khoa học đều đưa ra quan điểm
giống nhau về thực hiện pháp luật.
Theo quan điểm của các tác giả Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh: “Thực hiện pháp luật là một q trình hoạt động có mục đích làm cho
cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi
xử sự thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [8, tr.241].
Theo quan điểm của các tác giả Học viện Hành chính quốc gia: “Thực
hiện pháp luật là hoạt động, là quá trình, làm cho những quy tắc của pháp
luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [9, tr.344].
Theo PGS.TS Nguyễn Cửu Việt: “Thực hiện pháp luật là hiện tượng,
q trình có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt

động thực tế của các chủ thể pháp luật” [30, tr.349].
Nhìn chung lại, về cơ bản các quan điểm của các tác giả đều chỉ ra rằng:
Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) của chủ
thể pháp luật, được tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật,
tức là không trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định. Thực
hiện pháp luật có thể là một xử sự có tính chủ động, được tiến hành bằng một
thao tác nhất định nhưng cũng có thể là một xử sự có tính thụ động, tức là
khơng tiến hành vượt xử sự bị pháp luật cấm.
Như vậy, hiểu một cách ngắn gọn lại là: “Thực hiện pháp luật là hoạt
8


động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định pháp luật vào cuộc sống, trở
thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [18, tr.492].
Từ các quan điểm trên, thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội được
hiểu là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định pháp luật về
BHXH đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các
chủ thể pháp luật về bảo hiểm xã hội.
1.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội
An sinh xã hội nói chung và BHXH nói riêng là một hoạt động khơng
thể thiếu trong đời sống xã hội, đặc biệt là đối với người lao động, bởi lẽ nó là
cơng cụ giúp nhà nước đảm bảo điều kiện ổn định đời sống cho người lao
động và gia đình của họ. Là một ngành luật đặc thù nên thực hiện pháp luật về
BHXH mang những đặc điểm cơ bản khác với những ngành luật khác như sau:
Một là về chủ thể của thực hiện pháp luật về BHXH.
Chủ thể thực hiện pháp luật là cơ quan, tổ chức, cá nhân mà theo quy
định của pháp luật có các quyền và nghĩa vụ pháp lý và có khả năng trực tiếp
hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp của mình để thực hiện các quyền và
nghĩa vụ pháp lý đó. Các chủ thể tham gia thực hiện pháp luật về BHXH gồm
có: bên thực hiện BHXH, bên tham gia BHXH, bên được BHXH và một số

cơ quan khác.
Hiện nay, ở nước ta, hoạt động BHXH được Nhà nước thống nhất quản
lý và tổ chức thực hiện. Hệ thống cơ quan Bảo hiểm xã hội được thống nhất
từ trung ương tới địa phương, bao gồm: Bảo hiểm xã hội Việt Nam, các cơ
quan Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi tắt
là cơ quan Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh) và cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương
(sau đây gọi tắt là cơ quan Bảo hiểm xã hội cấp huyện), ngoài ra do đặc thù
của một số ngành nên cịn có Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phịng, Bảo hiểm xã
hội Bộ Cơng an, Bảo hiểm xã hội Ban cơ yếu Chính phủ.
9


Bên thực hiện BHXH là cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức thực hiện chức
năng thu, quản lý và chi trả BHXH cho người được bảo hiểm xã hội theo quy
định của pháp luật. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định:
Bảo hiểm xã hội Việt Nam tham gia, phối hợp với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) thực hiện
quản lý về thu, chi, bảo toàn, phát triển và cân đối quỹ bảo hiểm xã
hội [20, Điều 8, khoản 4].
Như vậy có thể thấy ngồi các cơ quan BHXH thì cịn rất nhiều cơ
quan, đơn vị tham gia vào bên thực hiện BHXH.
Bên tham gia BHXH là người đóng góp phí BHXH để bảo hiểm cho
mình hoặc cho người khác được hưởng BHXH. Theo quy định của Luật Bảo
hiểm xã hội thì bên tham gia BHXH gồm có: người lao động, người sử dụng
lao động và trong một số trường hợp là cả Nhà nước (cơ quan nhà nước, đơn
vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội khác, cơ quan, tổ chức nước ngoài).
Bên hưởng bảo hiểm xã hội là người lao động hoặc thân nhân của họ

nếu thỏa mãn đầy đủ các điều kiện pháp luật quy định.
Khi pháp luật về BHXH được đưa vào thực tiễn áp dụng, hầu hết mọi
chủ thể đều tuân thủ đúng các quy định pháp luật. Thế nhưng trong xã hội vẫn
ln tồn tại một số ít trường hợp cố ý hay vô ý vi phạm pháp luật. Hành vi vi
phạm pháp luật về BHXH cũng được thể hiện dưới dạng hành động hoặc
khơng hành động, như: khơng đóng BHXH bắt buộc, chiếm dụng tiền đóng
BHXH, khơng chi trả chế độ cho người lao động… Do đó cần phải có sự can
thiệp của Nhà nước để thực thi chế tài đối với những hành vi vi phạm pháp
luật. Chế tài ở đây có thể là chế tài hành chính hoặc chế tài hình sự, tùy theo

10


từng loại chế tài mà có những cơ quan, đơn vị, cá nhân được pháp luật trao
thẩm quyền để thực hiện.
Khơng chỉ vậy, trong q trình thực hiện BHXH vẫn ln xảy ra mâu
thuẫn, mâu thuẫn này có thể là giữa người lao động với người sử dụng lao
động, giữa người sử dụng lao động với bên thực hiện BHXH. Khi mâu thuẫn
giữa các bên khơng thể hịa giải, thỏa thuận được thì Tịa án sẽ là cơ quan
đứng ra giải quyết.
Hai là về phạm vi thực hiện pháp luật về BHXH
Thực hiện pháp luật về BHXH là hoạt động diễn ra giữa các chủ thể có
tham gia vào quan hệ BHXH. Theo quy định của Luật BHXH, các quan hệ
BHXH bao gồm:
Chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội; quyền và trách nhiệm của
người lao động, người sử dụng lao động; cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan đến bảo hiểm xã hội, tổ chức đại diện tập thể lao động,
tổ chức đại diện người sử dụng lao động; cơ quan bảo hiểm xã hội;
quỹ bảo hiểm xã hội; thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội và quản lý
nhà nước về bảo hiểm xã hội [20, Điều 1].

Một cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể tham gia vào rất nhiều loại quan
hệ pháp luật khác nhau, nhưng chỉ khi những chủ thể này được đặt trong mối
quan hệ BHXH thì mới thuộc phạm vi thực hiện pháp luật về BHXH. Trong
các quan hệ xã hội về BHXH, phát sinh rất nhiều loại quan hệ xã hội khác
nhau. Căn cứ vào chủ thể tham gia thực hiện pháp luật về BHXH, đó có thể là
quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa cơ quan nhà nước với
người lao động, giữa cơ quan nhà nước với người sử dụng lao động hay giữa
người lao động với người sử dụng lao động.
Có thể thấy hệ thống pháp luật về BHXH ở nước ta khá là đồ sộ. Trước
đây, khi BHXH mới được nhà nước ta quy định thì việc thực hiện pháp luật

11


về BHXH hầu như chỉ diễn ra trong phạm vi khối nhà nước. Tuy nhiên, trong
quá trình đổi mới và phát triển, vấn đề này đã được mở rộng ra ngoài phạm vi
nhà nước, bao phủ toàn xã hội.
Hiện nay, những chính sách pháp luật về BHXH nói chung đều được áp
dụng thống nhất trên cả nước, từ trung ương xuống địa phương. Tuy nhiên, do
đặc điểm phát triển kinh tế, xã hội của nhiều địa phương khác nhau nên nhà
nước ta cũng có nhiều chính sách đặc thù áp dụng cho một số khu vực và một
số đối tượng đặc biệt với mục đích tạo sự cơng bằng trong xã hội, đảm bảo
đời sống nhân dân ổn định và phát triển.
Phạm vi thực hiện pháp luật về BHXH không bị giới hạn bởi các văn
bản pháp luật quy định về BHXH như Luật BHXH hay các Nghị định, Thông
tư hướng dẫn mà đó cịn là những vấn đề phát sinh khác khi các chủ thể tham
gia vào quan hệ BHXH như xử lý vi phạm về BHXH (xử phạt vi phạm hành
chính hoặc xử lý hình sự), giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến BHXH,
giải quyết tranh chấp liên quan đến BHXH.
Ba là về nội dung thực hiện pháp luật về BHXH.

Thực hiện pháp luật về BHXH là hiện thực hóa các quy phạm pháp
luật trong các văn bản pháp luật về BHXH vào đời sống xã hội. Các chủ thể
tham gia quan hệ BHXH hiện thực hóa những quy phạm pháp luật gì và
bằng những cách thức nào hay nói cách khác các hoạt động cần làm để đưa
các quy định pháp luật áp dụng vào thực tiễn chính là nội dung thực hiện
pháp luật về BHXH.
Do tính chất đặc thù của ngành luật này, hệ thống các văn bản pháp luật
về BHXH rất phong phú và được thay đổi qua từng năm, từng thời kỳ, nhưng
tập trung nhất nằm trong các văn bản pháp luật sau: Luật Bảo hiểm xã hội
năm 2014; Nghị quyết số 93/2015/QH13 về việc thực hiện chính sách hưởng
Bảo hiểm xã hội một lần đối với người lao động; Nghị định số 115/2015/NĐ-

12


CP về Quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã
hội bắt buộc; Nghị định số 134/2015/NĐ-CP về Quy định chi tiết một số điều
của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện; Nghị định số
33/2016/NĐ-CP về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với quân nhân, công an
nhân dân và người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;
Nghị định số 44/2017/NĐ-CP về Quy định mức đóng bảo hiểm xã hội bắt
buộc vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và đặc biệt là các
Nghị định và Thông tư về điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và
trợ cấp hàng tháng ln có sự thay đổi qua các năm. Sở dĩ có sự thay đổi này
là do xã hội luôn vận động dẫn đến cơ chế thị trường cũng ln thay đổi, do
đó Nhà nước phải thay đổi pháp luật để đảm bảo ổn định đời sống cho người
dân đặc biệt là đối với nhóm người khơng cịn khả năng lao động tạo ra thu
nhập. Việc nhà nước áp dụng các quy định pháp luật về BHXH vào thực tiễn
hay việc các chủ thể tham gia quan hệ BHXH bằng nhiều hình thức khác nhau

đưa pháp luật về BHXH vào thực tiễn là thực hiện pháp luật về BHXH.
1.1.3. Hình thức thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội
Hình thức thực hiện pháp luật là cách thức mà các chủ thể tiến hành các
hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống.
Các quy phạm pháp luật rất đa dạng nên hình thức thực hiện chúng cũng rất
đa dạng và khác nhau. Dưới góc độ lý luận, thực hiện pháp luật về bảo hiểm
xã hội là thực hiện pháp luật về một lĩnh vực cụ thể, do đó nó cũng được tiến
hành dưới bốn hình thức: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng
pháp luật và áp dụng pháp luật.
Tuân thủ pháp luật về BHXH là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó
các chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hiện những hành vi mà pháp luật
về BHXH ngăn cấm
Các chủ thể pháp luật kiềm chế không làm những điều mà pháp luật về
13


BHXH có quy định cấm, tức là họ đã tuân thủ đúng các quy phạm pháp luật
mang tính chất ngăn cấm thực hiện những hành vi nhất định. Luật Bảo hiểm
xã hội quy định các hành bị nghiêm cấm như sau: Trốn đóng BHXH bắt buộc,
bảo hiểm thất nghiệp; chậm đóng tiền BHXH, bảo hiểm thất nghiệp; chiếm
dụng tiền đóng, hưởng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp; gian lận, giả mạo hồ sơ
trong việc thực hiện BHXH, bảo hiểm thất nghiệp; sử dụng quỹ BHXH, quỹ
bảo hiểm thất nghiệp không đúng pháp luật; cản trở, gây khó khăn hoặc làm
thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, người
sử dụng lao động; truy cập, khai thác trái pháp luật cơ sở dữ liệu về BHXH,
bảo hiểm thất nghiệp; báo cáo sai sự thật; cung cấp thông tin, số liệu khơng
chính xác về BHXH, bảo hiểm thất nghiệp [20, Điều 17].
Như vậy, việc các chủ thể thực hiện pháp luật về BHXH biết kiềm chế,
không thực hiện các hành vi bị pháp luật cấm thì quá trình đó gọi là tuân thủ
pháp luật về BHXH.

Chấp hành pháp luật về BHXH là việc mà các chủ thể pháp luật thực
hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực theo quy định của
pháp luật về BHXH
Chủ thể chấp hành pháp luật về BHXH có thể là người lao động, người
sử dụng lao động, cơ quan bảo hiểm xã hội, Bộ trưởng Bộ Lao động –
Thương binh và xã hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Uỷ ban nhân dân các cấp, tổ
chức cơng đồn, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của
Mặt trận, tổ chức đại diện người sử dụng lao động. Đối với các cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động trong cơ quan nhà nước, thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn nhà nước giao khơng chỉ là quyền mà cịn là nghĩa vụ pháp lý.
Việc thực hiện trách nhiệm của các chủ thể trên theo quy định của pháp luật
về BHXH được hiểu là chấp hành pháp luật về BHXH.

14


Sử dụng pháp luật về BHXH là việc các chủ thể pháp luật BHXH thực
hiện quyền chủ thể của mình bằng những hành vi mà pháp luật về BHXH
cho phép
Đặc điểm của hình thức này thể hiện ở chỗ, các chủ thể pháp luật có
quyền tự mình quyết định việc thực hiện hay không thực hiện những việc mà
pháp luật cho phép mà không bị áp đặt, ép buộc. Quyền của các chủ thể trong
quan hệ BHXH được quy định trong Luật bảo hiểm xã hội bao gồm: khoản 1
Điều 14 về quyền của tổ chức cơng đồn, khoản 1 Điều 15 về quyền của tổ
chức đại diện người sử dụng lao động, Điều 18 về quyền của người lao động,
Điều 20 về quyền của người sử dụng lao động và Điều 22 về quyền của cơ
quan BHXH. Khi các chủ thể này thực hiện hoặc không thực hiện các quyền
trên chính là hoạt động sử dụng pháp luật về bảo hiểm xã hội của các chủ thể.
Áp dụng pháp luật về BHXH là việc mà nhà nước thông qua các cơ quan
nhà nước, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật

BHXH thực hiện các quy định của pháp luật về BHXH hoặc tự mình căn cứ
vào các quy định của pháp luật BHXH để ban hành các quyết định làm phái
sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật về BHXH.
Đặc điểm để phân biệt hình thức áp dụng pháp luật với các hình thức
thực hiện, sử dụng, tuân thủ pháp luật thể hiện rõ nét nhất ở tính quyền lực
nhà nước. Trong hình thức này, bắt buộc phải có sự tham gia của nhà nước
thơng qua các cơ quan, tổ chức, cá nhân được nhà nước trao thẩm quyền.
Từ cách hiểu trên có thể thấy áp dụng pháp luật về BHXH là hình thức
thực hiện pháp luật mang tính quyền lực nhà nước [20, tr.496]. Hoạt động áp
dụng pháp luật về BHXH chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến
hành. Mỗi một cơ quan nhà nước trong phạm vi thẩm quyền được giao thực
hiện một hoặc một số những hoạt động áp dụng pháp luật nhất định. Các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành là các cơ quan có liên quan đến BHXH

15


như: Cơ quan Bảo hiểm xã hội (BHXH Việt Nam, BHXH các tỉnh, huyện), Bộ
Lao động - Thương binh và xã hội, các Vụ, Cục, Sở thuộc Bộ LĐTBXH có
liên quan đến BHXH, UBND các cấp,… đây là những cơ quan nhà nước trực
tiếp đưa các quy phạm pháp luật về BHXH vào cuộc sống. Bên cạnh đó, để áp
dụng pháp luật vào cuộc sống đạt hiệu quả cao thì cần phải có sự tham gia của
các cơ quan khác như Chính phủ, Bộ LĐTBXH, các Bộ ngành có liên quan để
đưa ra các nghị định, thông tư hướng dẫn cũng như các quy chế phối hợp cho
các cơ quan bên dưới trong việc áp dụng pháp luật về BHXH. Chính các cơ
quan này là những chủ thể đại diện cho quyền lực nhà nước trong việc xem xét,
giải quyết, đưa ra các quyết định pháp lý cụ thể, có hiệu lực bắt buộc thi hành.
Áp dụng pháp luật về BHXH là hình thức thực hiện pháp luật mang
tính chất thủ tục pháp lý chặt chẽ theo quy định pháp luật [20, tr.496]. Các cơ
quan nhà nước áp dụng pháp luật phải tuân thủ đúng các thủ tục pháp lý theo

quy định của pháp luật trong việc áp dụng các quy định pháp luật về nội dung.
Khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuân thủ đúng các thủ tục pháp luật
thì mới góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo vệ trật tự pháp luật, sự
công bằng, minh bạch trong các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh,
bảo vệ, bảo đảm các quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức. Chẳng
hạn việc giải quyết chế độ cho người lao động đã về hưu phải được thực hiện
theo đúng các thủ tục đã được quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội và Nghị
định hướng dẫn kèm theo.
Áp dụng pháp luật về BHXH là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối
với các trường hợp, chủ thể cụ thể nhất định [20, tr.497]. Đối tượng của hoạt
động áp dụng pháp luật về BHXH là những trường hợp, vụ việc cụ thể thuộc
phạm vi điều chỉnh của pháp luật về BHXH, bao gồm:
Chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội; quyền và trách nhiệm của
người lao động, người sử dụng lao động; cơ quan, tổ chức, cá nhân

16


có liên quan đến bảo hiểm xã hội, tổ chức đại diện tập thể lao động,
tổ chức đại diện người sử dụng lao động; cơ quan bảo hiểm xã hội;
quỹ bảo hiểm xã hội; thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội và quản lý
nhà nước về bảo hiểm xã hội [20, Điều 1].
Bằng hoạt động áp dụng pháp luật, những quy phạm pháp luật về
BHXH được cá biệt hóa vào trong những trường hợp cụ thể của đời sống. Khi
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định áp dụng pháp luật thì chúng có
hiệu lực bắt buộc đối với các chủ thể có liên quan. Kết quả của hoạt động áp
dụng pháp luật được thể hiện bằng quyết định áp dụng pháp luật của các chủ
thể có thẩm quyền đối với các chủ thể có liên quan. Hình thức thể hiện các
quyết định áp dụng pháp luật là văn bản pháp luật cá biệt, trong lĩnh vực
BHXH thường là các quyết định. Các quyết định này chỉ do các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật về BHXH hay nói cách khác các cơ
quan nhà nước khơng có thẩm quyền trong lĩnh vực BHXH hay khơng được
pháp luật về BHXH quy định thì khơng được phép ban hành văn bản áp dụng
pháp luật trong lĩnh vực này. Quyết định áp dụng pháp luật có giá trị bắt buộc
thi hành đối với những cá nhân, tổ chức có liên quan. Trong một số trường
hợp cần thiết, những quyết định này còn được bảo đảm thực hiện bằng sự
cưỡng chế của nhà nước.
Hoạt động áp dụng pháp luật địi hỏi tính sáng tạo (trong phạm vi các
quy định, nguyên tắc pháp luật) [20, tr.498]. Trong hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước cũng như cán bộ, cơng chức có thẩm
quyền khơng thể lúc nào cũng áp dụng pháp luật một cách cứng ngắc mà địi
hỏi họ phải có kiến thức, kỹ năng, tính sáng tạo, am hiểu thực tiễn, có trách
nhiệm để đưa ra các quyết định áp dụng pháp luật một cách mềm dẻo, hài hòa
giữa quy định pháp luật với các vụ việc xảy ra trong thực tiễn.

17


×