Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

Khảo sát việc sử dụng từ ngữ Hán Việt trong sáng tác của Nam Cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 153 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----  ----

TRẦN THỊ NGỌC HÀ

KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG TỪ NGỮ HÁN VIỆT
TRONG SÁNG TÁC CỦA NAM CAO

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ NGÀNH: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS: NGUYỄN VĂN KHANG

Thái Nguyên – 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài ..............................................................................3
2. Lịch sử vấn đề..................................................................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................6
4. Đối tƣợng nghiên cứu ......................................................................7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu..................................................................7


6. Đóng góp của luận văn ....................................................................8
7. Bố cục của luận văn .........................................................................8
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN
1.1 Những nhân tố ảnh hƣởng đến sự tiếp xúc Hán Việt ......................9
1.2 Quá trình hình thành cách đọc Hán Việt ......................................11
1.3 Từ Hán Việt .................................................................................13
1.3.1 Khái niệm từ Hán Việt .......................................................13
1.3.2 Đặc điểm của từ ngữ Hán Việt ...........................................15
1.3.3 Vai trò của từ ngữ Hán Việt trong tiếng Việt ......................27
1.4 Phong cách ngôn ngữ và phong cách ngôn ngữ tác giả ................28
1.4.1 Các quan niệm khác nhau về phong cách ngôn ngữ............28
1.4.2 Các quan niệm khác nhau về phong cách ngôn ngữ tác giả 30
1.5 Khái quát về con ngƣời và sự nghiệp sáng tác của Nam Cao .......32
1.5.1 Vài nét về tác giả Nam Cao ................................................32
1.5.2 Khái quát về sự nghiệp văn chƣơng của Nam Cao .............34
CHƢƠNG 2: CÁC TỪ NGỮ HÁN VIỆT ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG
SÁNG TÁC CỦA NAM CAO
2.1 Dẫn nhập......................................................................................36
2.2 Thống kê, phân loại các từ ngữ Hán Việt đƣợc sử dụng trong sáng
tác của Nam Cao........................................................................................36
2.2.1 Thống kê, phân loại chung ..................................................36

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



1


2.2.2 Các từ ngữ Hán Việt đƣợc sử dụng trong sáng tác của Nam

Cao xét về cấu tạo .....................................................................................38
2.2.3 Các từ ngữ Hán Việt đƣợc sử dụng trong sáng tác của Nam
Cao xét về từ loại
...........................44
2.2.4 Các từ ngữ Hán Việt đƣợc sử dụng trong sáng tác của Nam
Cao xét về ngữ nghĩa. ................................................................................45
2.3 Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................53
CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG
SÁNG TÁC CỦA NAM CAO
3.1 Vai trò của từ ngữ Hán Việt trong sáng tác văn học .....................55
3.1.1 Vai trị của ngơn từ trong sáng tác văn học ..........................55
3.1.2 Vai trò của từ ngữ Hán Việt trong sáng tác văn học Việt
Nam...........................................................................................................58
3.2 Nghệ thuật sử dụng từ ngữ Hán Việt trong sáng tác của Nam Cao
3.2.1 Nghệ thuật sử dụng từ ngữ Hán Việt qua lời văn miêu tả ....59
3.2.1.1 Nghệ thuật sử dụng từ ngữ Hán Việt qua lời văn miêu
tả ngƣời nông dân nghèo ...........................................................................60
3.2.1.2 Nghệ thuật sử dụng từ ngữ Hán Việt qua lời văn miêu
tả ngƣời trí thức nghèo ..............................................................................65
3.2.1.3 Nghệ thuật sử dụng từ ngữ Hán Việt qua lời văn miêu
tả bọn địa chủ phong kiến .........................................................................70
3.2.2 Nghệ thuật sử dụng từ ngữ Hán Việt qua vai giao tiếp ........74
3.2.2.1 Nghệ thuật sử dụng từ ngữ Hán Việt qua vai giao tiếp
ngang hàng ................................................................................................74
3.2.2.2 Nghệ thuật sử dụng từ ngữ Hán Việt qua vai giao tiếp
không ngang hàng .....................................................................................79
3.3 Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................81
KẾT LUẬN ...............................................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................86
PHỤ LỤC ..................................................................................................89


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vay mƣợn từ vựng là hiện tƣợng ngôn ngữ học xã hội phổ biến của
mọi ngôn ngữ, tiếng Việt cũng không tách khỏi quy luật này. Các từ mƣợn là
nguồn bổ sung quan trọng cho vốn từ tiếng Việt cả về số lƣợng lẫn chất
lƣợng, trong đó từ ngữ Hán Việt có số lƣợng lớn nhất. Lớp từ này đƣợc sử
dụng nhƣ một phƣơng thức biểu hiện hữu hiệu của các nhà văn, nhà thơ.
Việc đọc - hiểu văn bản nghệ thuật để khám phá ra các giá trị chân - thiện mĩ, khơng thể bỏ qua việc lí giải ngơn ngữ đƣợc sử dụng, đặc biệt là các từ
ngữ Hán Việt.
Do hoàn cảnh địa lí và lịch sử, từ xa xƣa, hai dân tộc Việt - Hán đã
có một q trình tiếp xúc ngơn ngữ rất dài. Đó chính là điều kiện để các từ
ngữ gốc Hán hồ vào dịng từ thuần Việt và trở nên gần gũi với dân tộc Việt.
Tuy nhiên cho đến nay, khái niệm từ Hán Việt dƣờng nhƣ mới chỉ đƣợc xác
định về mặt lí thuyết và còn nhiều điều bỏ ngỏ trong thực tế.
Song song với việc nghiên cứu về từ ngữ Hán Việt, việc đi sâu vào
khảo sát, tìm hiểu cách sử dụng từ ngữ Hán Việt trong sáng tác của các nhà
văn là một hƣớng đi cần thiết. Nam Cao là nhà văn xuất thân trong một gia
đình trung nơng nghèo, nhƣng ơng lại am hiểu sâu sắc đời sống của ngƣời
dân thôn quê lẫn cuộc sống của ngƣời dân thành thị và đặc biệt nhạy cảm
trƣớc những thay đổi của xã hội. Khi quá trình tiếp xúc giữa tiếng Việt với
tiếng Hán và nền văn tự Hán xảy ra, dẫn đến hệ quả là sự xuất hiện các từ
mƣợn Hán thì Nam Cao đã nắm bắt rất nhanh và đƣa vào trong sáng tác của

mình một khối lƣợng lớn từ ngữ Hán Việt. Có thể nói ơng là một trong
những tác giả sử dụng rất thành công lớp từ ngữ Hán Việt.
Những tác phẩm của Nam Cao trƣớc và sau cách mạng tháng Tám
đều viết về hai đề tài: nông dân và tiểu tƣ sản. Đây cũng là hai vấn đề thu hút

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



3


đƣợc sự chú ý của những nhà nghiên cứu. Tuy nhiên đến nay việc nghiên
cứu cách sử dụng từ ngữ Hán Việt trong sáng tác của Nam Cao vẫn chƣa
đƣợc tìm hiểu một cách có hệ thống. Trong khi đó, lớp từ ngữ Hán Việt
trong tác phẩm của ông đƣợc sử dụng nhƣ một biện pháp nghệ thuật và đã
trở thành một phong cách riêng mà không phải nhiều nhà văn, nhà thơ làm
đƣợc.
Với tất cả những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Khảo sát việc sử
dụng từ ngữ Hán Việt trong sáng tác của Nam Cao”.
2. Lịch sử vấn đề
Từ Hán Việt một sản phẩm độc đáo của q trình giao lƣu và tiếp
xúc ngơn ngữ. Ngày nay từ Hán Việt đã đi vào kho từ vựng tiếng Việt với tƣ
cách là một bộ phận từ vựng lớn nhất. Lớp từ này có mặt ở mọi cấp độ, trong
mọi hoạt động của đời sống ngôn ngữ tiếng Việt. Đặc biệt chúng đóng một
vai trị quan trọng trong ngơn ngữ văn học.
Hiện nay có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về từ Hán Việt, mỗi
cơng trình lại có hƣớng nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, chúng tôi khái
quát thành các khuynh hƣớng nghiên cứu sau:
- Khuynh hƣớng nghiên cứu từ Hán Việt ở mặt cấu trúc – hệ thống

nhƣ: đặc điểm cấu tạo, ngữ pháp, ngữ nghĩa và phong cách. Đây là khuynh
hƣớng đƣợc rất nhiều tác giả lựa chọn khi nghiên cứu về từ Hán Việt. Với
khuynh hƣớng này chúng ta phải kể đến cơng trình Mẹo giải nghĩa từ Hán
Việt (Phan Ngọc, NXB Đà Nẵng, 1984). Trong cơng trình này, tác giả tập
trung nghiên cứu về cấu tạo và ngữ nghĩa của từ Hán Việt, chỉ ra hai loại yếu
tố Hán – Việt xét về mặt hoạt động và khả năng sản sinh. Đồng thời tác giả
còn chỉ ra các quan hệ ý nghĩa bằng cách quy ra thành công thức và những
quy tắc, làm cho những ngƣời khơng có vốn kiến thức Hán học cũng có thể
nhận diện đƣợc âm tiết Hán Việt. Ngồi cơng trình trên, chúng ta khơng thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



4


khơng kể đến các giáo trình từ vựng học tiếng Việt, nhƣ: Từ vựng học tiếng
Việt của Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt của Đỗ Hữu
Châu,…
- Khuynh hƣớng nghiên cứu từ Hán Việt gắn với việc dạy học ở
trƣờng phổ thơng. Hiện nay trong chƣơng trình học tập các môn Văn – tiếng
Việt ở các trƣờng phổ thông từ Tiểu học đến Trung học phổ thông, số lƣợng
từ ngữ Hán Việt đƣợc đƣa vào giảng dạy rất nhiều. Trong khi đó vốn từ Hán
Việt của học sinh thì rất hạn chế. Chính vì vậy, nghiên cứu từ Hán Việt theo
khuynh hƣớng này càng ngày càng nhận đƣợc sự quan tâm của rất nhiều nhà
nghiên cứu và đã có rất nhiều các cơng trình, tiêu biểu là: Dạy và học từ Hán
- Việt ở trường phổ thông (Đặng Đức Siêu, NXB Giáo dục, 2000); Rèn luyện
kỹ năng sử dụng tiếng Việt và mở rộng vốn từ Hán - Việt (Nguyễn Quang
Ninh (chủ biên), Đào Ngọc, Đặng Đức Siêu, Lê Xuân Thại, NXB GD,

2001); Từ Hán Việt và việc dạy học từ Hán Việt ở tiểu học (Hoàng Trọng
Canh, NXB Giáo dục Việt Nam, 2009), Giải thích từ Hán Việt trong sách
giáo khoa văn học hệ phổ thông (Lê Anh Tuấn, NXB ĐHQG HN, 2005)…
Bên cạnh những cơng trình này, cịn có các bài viết nghiên cứu từ Hán - Việt
gắn liền với vấn đề giảng dạy tiếng Việt, nhƣ các bài: Từ Hán - Việt và vấn
đề dạy học từ Hán - Việt trong nhà trường Phổ thông (Nguyễn Văn Khang,
Tạp chí Ngơn ngữ, số 1/ 1994); Dạy và học từ Hán - Việt ở trường phổ thông
(Trƣơng Chính, Tiếng Việt, số 7/1989); Xung quanh vấn đề dạy và học từ
ngữ Hán - Việt ở trường Phổ thông (Lê Xn Thại, Tạp chí Ngơn ngữ, số 4/
1990),…. Trong các cơng trình nghiên cứu và các bài viết trên, các tác giả đã
khái quát lại những đặc điểm cơ bản của từ Hán Việt, đƣa ra những phƣơng
pháp cụ thể để việc dạy học từ Hán Việt trong trƣờng phổ thông đạt đƣợc
hiệu quả cao nhất. Đây thực sự là những tài sản vô giá giúp chúng ta dạy và
học tập tốt từ ngữ Hán Việt trong chƣơng trình phổ thơng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



5


- Khuynh hƣớng nghiên cứu từ Hán Việt gắn với nguồn gốc, lịch sử
tiếng Việt: Nhƣ chúng ta biết, tiếng Việt và nền văn tự Hán đã có một q
tình tiếp xúc lâu dài, chính vì vậy nghiên cứu từ Hán Việt gắn với nguồn gốc
lịch sử tiếng Việt là một khuynh hƣớng cũng đƣợc rất nhiều giới nghiên cứu
quan tâm. Tiêu biểu nhất cho khuynh hƣớng nghiên cứu này là cơng trình
Nguồn gốc và q trình hình thành cách đọc Hán Việt (Nguyễn Tài Cẩn,
NXB ĐHQG HN, 2000). Trong cơng trình này, tác giả đã chỉ ra cho chúng ta
biết những nhân tố ảnh hƣởng đến việc tiếp xúc lâu dài, liên tục và sâu rộng

giữa tiếng Việt và tiếng Hán; cách đọc Hán Việt. Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử
(Nguyễn Ngọc San, NXB ĐHSP, 2003), ở cơng trình này, tác giả đã trình
bày những vấn đề cơ bản về ngữ âm lớp từ Hán Việt trong mối quan hệ với
lịch sử phát triển của tiếng Việt.
Ngoài các khuynh hƣớng nghiên cứu trên, chúng ta không thể không
kể đến những cuốn từ điển Hán Việt. Đó là những cơ sở nền tảng rất cần
thiết, không thể thiếu giúp chúng ta trong việc giảng dạy, học tập, nghiên
cứu và lĩnh hội từ Hán Việt. Có thể kể đến các cuốn từ điển Hán Việt sau:
- Từ điển Hán Việt, Đào Duy Anh, NXB KHXH, 2000.
- Từ điển từ Hán Việt, Phan Văn Các, NXB TP HCM, 2001.
- Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nguyễn Lân, NXB VH, 2007.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Khảo sát việc sử dụng từ ngữ Hán Việt trong sáng
tác của Nam Cao”, luận văn hƣớng vào mục đích sau: thông qua việc khảo
sát, thống kê các từ ngữ Hán Việt đƣợc sử dụng trong sáng tác của Nam Cao,
ngƣời viết khái quát bức tranh về từ ngữ Hán Việt đƣợc sử dụng trong các
tác phẩm của nhà văn. Trên cơ sở đó, ngƣời viết mong muốn góp phần vào
việc nghiên cứu, phân tích đánh giá, nhận xét hiệu quả và giá trị sử dụng của
lớp từ ngữ Hán Việt, góp phần giải thích, chứng minh nghệ thuật sử dụng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



6


xen kẽ từ thuần Việt và từ ngữ Hán Việt trong văn chƣơng nghệ thuật nói
chung và trong các tác phẩm của Nam Cao nói riêng.
Từ mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau: Nhiệm vụ đầu tiên

là hệ thống hóa vấn đề lí luận về sự tiếp xúc và vay mƣợn ngôn ngữ. Thứ hai
là điểm lại những kết quả nghiên cứu về từ Hán Việt. Trên cơ sở đó, chúng
tơi khảo sát, thống kê và phân loại từ ngữ Hán Việt trong sáng tác của Nam
Cao. Rút ra nhận xét về giá trị sử dụng từ ngữ Hán Việt trong sáng tác văn
học và trong các sáng tác của Nam Cao.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài này tập trung khảo sát việc sử dụng từ Hán Việt trong tác
phẩm của Nam Cao qua hai tuyển tập: Nam Cao toàn tập – tập 1 và Nam
Cao toàn tập – tập 2, Nxb Văn học, 2002.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp thống kê: Dựa vào các tác phẩm của Nam Cao để
khảo sát các từ ngữ Hán Việt, sau đó đƣa ra bảng hệ thống các từ ngữ Hán
Việt đƣợc sử dụng theo một số tiêu chí nhất định.
- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu: Để thấy đƣợc hiệu quả của việc sử
dụng từ ngữ Hán Việt trong các tác phẩm của Nam Cao, ngƣời viết so sánh
việc sử dụng các từ ngữ Hán Việt giữa các thể loại, giữa hai giai đoạn trƣớc
và sau Cách mạng tháng Tám.
- Phƣơng pháp phân tích ngữ nghĩa cũng đƣợc sử dụng trong việc
làm nổi bật nghệ thuật sử dụng từ ngữ Hán Việt trong sáng tác của Nam Cao.
Ngoài ra, ngƣời viết còn phối hợp sử dụng các phƣơng pháp, thủ
pháp khác khi cấn thiết nhƣ: phân tích, tổng hợp, khái quát,…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



7



6. Đóng góp của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Góp phần làm rõ giá trị sử dụng của lớp từ ngữ Hán Việt trong sáng
tác văn chƣơng nói chung và trong sáng tác của Nam Cao nói riêng. Đồng
thời ngƣời viết hi vọng sẽ có những đóng góp nhất định trong việc chỉ ra
những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của tác giả khi sử dụng từ
ngữ Hán Việt.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Thực hiện đề tài này ngƣời viết mong muốn có những đóng góp nhất
định trong việc tìm hiểu cách sử dụng từ ngữ Hán Việt trong các tác phẩm
văn chƣơng, đồng thời sẽ giúp cho việc giảng dạy các tác phẩm của Nam
Cao trong nhà trƣờng (nhất là bậc phổ thông) đạt chất lƣợng và hiệu quả cao
nhất.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, thƣ mục tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm các chƣơng sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và những vấn đề có liên quan.
Chƣơng 2: Các từ ngữ Hán Việt đƣợc sử dụng trong sáng tác của
Nam Cao.
Chƣơng 3: Giá trị sử dụng từ ngữ Hán Việt trong sáng tác của Nam
Cao.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



8


CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CĨ LIÊN QUAN
1.1 Những nhân tố ảnh hƣởng đến sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán –
Việt
Từ Hán Việt là sản phẩm của một q trình tiếp xúc quy mơ, sâu
rộng trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt giữa hai dân tộc Hán – Việt trên
nhiều lĩnh vực. Chính sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Hán đã hình thành
nên cách đọc Hán - Việt. Nhƣng sự tiếp xúc quy mơ, lƣu lại ảnh hƣởng sâu
đậm bắt đầu tính từ khi Triệu Đà đem quân xâm lƣợc Âu Lạc (-179) nhất là
lúc nhà Hán đặt nên đô hộ ở Giao Chỉ, Cửu Chân (-111). Đến 938 khi Ngô
Quyền đại thắng quan Nam Hán, đƣa lại nền độc lập cho nƣớc nhà thì đợt
tiếp xúc này mới thực sự chấm dứt.
Theo tài liệu lịch sử, khảo cổ,… ta thấy có ba nhân tố đã đƣa đến sự
tiếp xúc lâu dài, liên tục và sâu rộng này:
Thứ nhất - nhân tố chính trị: Bộ máy chính quyền của ngƣời Hán –
nhìn trên những nét lớn - vẫn luôn luôn đi theo một hƣớng duy nhất đó là
một bộ máy thống trị ngoại bang. Dƣới sự cai trị của nhà Hán, lúc đầu, chính
quyền đơ hộ phƣơng Bắc mới tập trung quyền lực ở cấp trung ƣơng, nhƣng
càng ngày càng cố đi sâu xuống tận cơ sở, với chính sách “Hán hóa” để bóp
nghẹt tinh thần quật khởi của ngƣời Việt. Đặc biệt từ khi Mã Viện dập tắt
đƣợc cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trƣng thì bộ máy cai trị ngoại bang đã siết chặt
hoàn toàn xuống tận quận, huyện. Đến thời nhà Đƣờng, bộ máy đô hộ đã
xuống tận làng xã.
Thứ hai - nhân tố xã hội: Với sự hỗ trợ của bộ máy chính quyền ngày
càng thắt chặt nhƣ trên, trong gần một nghìn năm Bắc thuộc, các bộ phận,
các lực lƣợng xã hội khác cũng từng đợt, từng đợt một, kéo vào nƣớc ta bằng
nhiều con đƣờng khác nhau. Ngƣời Hán đã dần thâm nhập vào các mặt hoạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




9


động quan trọng của xã hội, văn học, sống trà trộn với ngƣời Việt Nam và
chi phối đến nhiều hoạt động quan trọng của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Đó là những Kiều nhân sang sinh sống ở Việt Nam với nhiều tầng lớp xã
hội, mục đích và lí do khác nhau. Vì thế chính sách “Hán hóa” dân tộc Việt
ngày càng có tác động sâu sắc đến xã hội nƣớc ta. Đó cịn là sự tác động
mang tính chất qua lại hai chiều khi các binh lính là cƣ dân ngƣời Việt bị bắt
phải đi lính cho chính quyền nhà Hán. Đây là nhân tố thứ hai là cho đợt tiếp
xúc này thêm ảnh hƣởng sâu đậm, nhất là ở những nơi lỵ sở, cƣ dân tập
trung đông đúc.
Thứ ba - quan trọng là sự truyền bá nền văn hố Hán trong tồn vùng
và sự ra đời của một tầng lớp quyền quý ngƣời Việt tham gia góp phần tuyên
truyền cho ngôn ngữ, văn tự Hán. Lúc Triệu Đà kéo quân sang xâm lƣợc thì
Âu Lạc đang ở vào giai đoạn có sự phân hố xã hội và có sự hình thành của
một cơ cấu nhà nƣớc đầu tiên trên cơ sở của những điều kiện nội tại của nó,
với việc bị thu hút và phạm vi ảnh hƣởng cả Trung Quốc, có thể nói rằng giai
đoạn lịch sử này là giai đoạn xã hội Âu Lạc chuyển biến dần, đi và một quá
trình phong kiến lâu dài. Chính cơ sở kinh tế xã hội này đã tạo điều kiện cho
việc dễ dàng tiếp thu nền văn văn học Hán, làm cho ảnh hƣởng của nền văn
học này ngày càng thấm sâu vào xã hội Việt Nam, thúc đẩy xã hội Việt Nam
càng đi nhanh hơn vào con đƣờng phong kiến hố. Lực lƣợng góp phần đắc
lực nhất cho q trình Hán hố này trƣớc hết phải kể đến bộ máy thống trị do
quan lại Trung Quốc nắm và tầng lớp đông đảo các kiều nhân ngƣời Hán
(trong đó có một bộ phận rất có uy thế). Nhƣng càng về sau vai trò của tầng
lớp phong kiến, tầng lớp quyền quý Việt Nam dần dần trở thành một vai trị
khơng thể khơng kể đến.
=> Đến thời kỳ này, nền văn học Hán nói chung và nền ngơn ngữ văn

tự Hán nói riêng đã có một ảnh hƣởng quyết định trên địa bàn Việt Nam nhất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



10


là ở những nơi trung tâm của chính quyền đơ hộ. Và đến thời kỳ này trong
giai cấp phong kiến Việt Nam cũng đã xuất hiện một tầng lớp khá đơng đảo
Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Đây chính là một lực lƣợng sau khi dành
đƣợc độc lập đã ra sức bảo vệ, duy trì những gì tiếp thu đƣợc trƣớc đó về
mặt văn học; nhất là về mặt ngơn ngữ, văn tự và đã góp phần đắc lực trong
việc củng cố tun truyền cho vai trị của văn ngơn và chữ Hán.
1.2 Quá trình hình thành cách đọc Hán - Việt
Cách đọc Hán - Việt là kết quả của q trình tiếp xúc ngơn ngữ giữa
tiếng Hán và tiếng Việt. Tuy nhiên có rất nhiều quan điểm khác nhau xoay
quanh vấn đề quá trình hình thành cách đọc Hán - Việt này.
Tác giả Đặng Đức Siêu trong cuốn “Dạy và học từ Hán Việt ở trƣờng
phổ thông” quan niệm nhƣ sau:
Sự gần kề về địa lí, sự tƣơng đồng về phƣơng thức hoạt động sản
xuất và tổ chức đời sống xã hội đã tạo điều kiện thuật lợi cho việc hình thành
các mối quan hệ giao hảo giữa ngƣời Việt cổ và tổ tiên Hán tộc. Chính vì
vậy, q trình du nhập, định hình và hoạt động của lớp từ ngữ gốc Hán gắn
bó với các hồn cảnh lịch sử thuộc các giai đoạn khác nhau của lịch trình
tiếp xúc giao lƣu ngơn ngữ, văn hố Hán - Việt. Sự du nhập và phổ biến
ngôn ngữ văn tự Hán ở nƣớc ta diễn ra trong một hoàn cảnh đặc biệt, bằng
những phƣơng thức khác biệt và diễn tiến theo những phƣong hƣớng riêng
qua từng giai đoạn, từng thời kì lịch sử khác nhau. Quá trình này diễn ra theo

hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Bắt đầu vào khoảng thế kỉ I, II sau Công nguyên và kết
thúc vào khoảng thế kỉ X. Ban đầu việc du nhập và phổ biến ngơn ngữ - văn
hố Hán là một chủ trƣơng quan trọng trong chính sách đồng hố ngƣời bản
địa của đế chế phƣơng Bắc. Nó đƣợc chính quyền đơ hộ thực thi ráo riết với
nhiều âm mƣu, thủ đoạn, cách thức khác nhau, nhƣng kết quả đạt đƣợc rất ít.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



11


Tuy nhiên giai đoạn này, do cuộc sống cộng cƣ, sự tiếp xúc giao lƣu văn hố
- ngơn ngữ giữa hai bên Việt - Hán vẫn diễn ra theo phƣơng hƣớng chủ đạo
là Việt hoá, nên một số lƣợng lớn từ ngữ Hán đã thâm nhập và xuất hiện
trong hoạt động ngôn ngữ của ngƣời Việt cổ sau khi đã bị Việt hố trên
nhiều khía cạnh khác nhau.
Nhƣ vậy giai đoạn này việc tiếp nhận và Việt hoá từ ngữ Hán nhằm
làm giàu cho tiếng Việt đã đƣợc khai triển rộng rãi.
Giai đoạn 2: Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV: Giai đoạn này đã có nhiều
sự đổi mới về số lƣợng và chất lƣợng. Thời kì này, vị trí của Nho giáo đã
đƣợc xác lập, nền Hán học ở nƣớc ta bƣớc vào thời kì thịnh vƣợng. Đó cũng
là cơ sở khoa học để lớp từ ngữ Hán Việt hoạt động một cách chuẩn xác và
có hiệu quả hơn.
Tác giả Nguyễn Tài Cẩn trong cuốn “Nguồn gốc và quá trình hình
thành cách đọc Hán Việt” cho rằng quá trình tiếp xúc Hán Việt bắt đầu vào
khoảng đầu Cơng nguyên và có thể chia ra làm hai giai đoạn sau:
Giai đoạn 1 kéo dài đến hết thế kỉ VI - VII. Giai đoạn này chỉ lƣu lại

lẻ tẻ một số cách đọc gọi là cổ Hán Việt mà không thành hệ thống. Giải thích
điều này, tác giả cho rằng, “trong suốt 9 thế kỉ sau Công nguyên, cách đọc
Hán Việt ở Việt Nam là một cách đọc luôn luôn gắn liền với những sự biến
đổi xảy ra trong tiếng Hán”.
Giai đoạn 2 là giai đoạn cuối Đƣờng, Ngũ đại. Đây là giai đoạn để lại
cách đọc Hán Việt hệ thống, lƣu lại một ảnh hƣởng sâu đậm tồn tại mãi đến
ngày nay.
Theo ý kiến của tác giả Phan Ngọc trong cuốn “Mẹo giải nghĩa từ
Hán Việt và chữa lỗi chính tả”, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2000.
q trình hình thành cách đọc Hán Việt diễn ra nhƣ sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



12


Bắt đầu từ thế kỉ thứ 1 TCN: Lúc đó ngƣời Việt và ngƣời Mƣờng còn
là một tộc ngƣời chung và ngôn ngữ của họ lúc bấy giờ là tiếng Việt Mƣờng. Khi chữ Hán chƣa vào nƣớc ta một cách ồ ạt thì ngƣời Việt Mƣờng
đã tiếp thu tiếng Hán “theo cách phát âm của ngƣời đƣơng thời” và trong q
trình phát âm nhƣ thế, họ cũng có những sai lệch nhất định. Tình hình này
tiếp diễn đến thế kỉ VII và nó để lại trong cả tiếng Việt và tiếng Mƣờng một
số từ đơn tiết và tác giả gọi đó là từ Hán cổ:
Ví dụ:
Danh từ: buồng, buồm, đời, thơ,...
Động từ: buộc, múa, mong, khoe,...
Tính từ: vng, khớp, muộn,...
Sang thế kỉ VII nhà Đƣờng cai trị Việt Nam và ngƣời Việt lại đọc
chữ Hán theo âm Đƣờng và có nhiều điểm khác âm Hán cổ.

Từ thế kỉ X, chữ Hán là công cụ quan trọng nhất để xây dựng nhà
nƣớc, việc học chữ Hán ngày càng phát triển và từ đây dẫn đến sự hình thành
cách phát âm Hán Việt, đó là cách phát âm chữ Hán của đời Đƣờng.
1.3 Từ Hán Việt
1.3.1 Khái niệm “từ Hán Việt”
Xuất phát từ nhiều quan niệm khác nhau về cái gọi là cách đọc Hán
Việt, cho nên cũng có nhiều ý kiến khác nhau nhằm giải đáp cho câu hỏi “từ
Hán Việt là gì?” hay “thế nào là từ Hán Việt?”
Tác giả Nguyễn Nhƣ Ý - “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ
học”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003: “Từ tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng
Hán, đã nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự chi phối của các quy
luật ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa của tiếng Việt, còn gọi là từ Việt gốc
Hán”. [tr 369]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



13


Tác giả Nguyễn Văn Khang - “Từ ngoại lai trong tiếng Việt”, Nxb
Giáo dục, 2007: “tất cả những từ Hán có cách đọc Hán Việt đã có ít nhất một
lần sử dụng trong tiếng Việt nhƣ một đơn vị từ vựng trong văn cảnh giao tiếp
thì đều đƣợc coi là từ Hán Việt”. [tr 131]
Tác giả Phan Ngọc - “Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính
tả”, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2000: “Xét về mặt lịch sử, một từ Hán Việt là
một từ đƣợc viết ra bằng chữ khối vuông của Trung Quốc nhƣng lại phát âm
theo cách phát âm Hán Việt, ngƣời Việt vẫn dùng để đọc mọi văn bản viết
bằng chữ Hán, dù đó là của ngƣời Hán hay của ngƣời Việt. Xét về chữ, thì

chỉ có chữ Hán mà khơng có chữ Hán Việt. Hán Việt chỉ là cách phát âm
riêng của ngƣời Việt về chữ Hán”. [tr 11]
Tác giả Đặng Đức Siêu - “Dạy và học từ Hán Việt ở trường phổ
thông”: “Từ Hán Việt là kết quả của quá trình giao lƣu tiếp xúc ngơn ngữ văn hóa Việt Hán diễn ra hàng ngàn năm, trong đó chủ trƣơng “chủ động” và
“Việt hóa” là đƣờng hƣớng chủ đạo, bộc lộ rõ tài chí thơng minh sáng tạo
của tổ tiên ta”. [tr 6]
Tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến - “Cơ
sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005: “Từ Hán Việt
là những từ gốc Hán du nhập vào tiếng Việt trong giai đoạn 2 (từ đời Đƣờng
trở về sau) mà ngƣời Việt đã đọc âm chuẩn (Trƣờng An) của chúng theo hệ
thống ngữ âm của mình”. [tr 214]
Nhƣ vậy có rất nhiều quan điểm khác nhau về từ Hán Việt. Trƣớc
hết, tác giả luận văn hồn tồn nhất trí với những quan điểm trên. Bởi nó
đƣợc xuất phát từ những khía cạnh, góc nhìn và cách giải quyết khác nhau.
Từ đó, chúng ta có thể phát biểu một cách khái quát về khái niệm từ Hán
Việt nhƣ sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



14


Từ Hán Việt là những từ mượn Hán, được đọc theo cách đọc Hán
Việt và nhập vào kho từ vựng tiếng Việt.
1.3.2 Đặc điểm của từ ngữ Hán Việt
1.3.2.1 Đặc điểm về cấu tạo của từ ngữ Hán Việt
Căn cứ vào số lƣợng âm tiết từ ngữ Hán Việt đƣợc chia thành 2 loại
từ đơn âm tiết và từ đa âm tiết.

a. Đặc điểm cấu tạo từ Hán Việt đơn âm tiết
Từ Hán Việt đơn âm tiết là những từ đƣợc biểu thị bằng một từ (một
văn tự bằng ngữ âm) chiếm một số lƣợng lớn trong hệ thống từ Hán Việt.
Những từ Hán Việt đơn âm tiết thƣờng có nghĩa từ vựng gọi tên
những sự vật, đặc điểm, tính chất mà tiếng Việt chƣa có để gọi tên, nên khi
đi vào kho từ vựng tiếng Việt chúng vẫn giữ đƣợc khả năng hoạt động tự do.
Những từ Hán Việt đơn tiết khi vào tiếng Việt, tuy cũng gặp những xung đột
đồng âm và đồng nghĩa với từ tiếng Việt, nhƣng vẫn trở thành từ hoạt động
tự do bên cạnh từ tiếng Việt là không nhiều và phần lớn các đơn vị đó đã có
sự phân cơng hoặc thay đổi ít nhiều về nghĩa để tạo ra giá trị riêng.
Đại bộ phận từ Hán Việt đơn tiết trong tiếng Việt là danh từ:
Danh từ chỉ ngƣời: ông, bà, quan, dân, ...
Danh từ chỉ động vật: hổ, báo, phượng,...
Danh từ chỉ thực vật: tùng, trúc, cúc, mai,...
Danh từ chỉ đồ vật: quần, áo, sách, bút,...
Cịn những tính từ và động từ loại này khi đi vào tiếng Việt, khả năng
hoạt động độc lập rất ít.
Những từ Hán đơn tiết nêu trên trở thành từ Hán Việt đơn tiết hoạt
động tự do trong tiếng Việt nhƣ đã nêu trên, nhìn chung chúng rất quen
thuộc, cho nên cảm thức tự nhiên của ngƣời Việt thƣờng cho các từ đó là
thuần Việt.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



15


b. Đặc điểm cấu tạo từ Hán Việt đa âm tiết

Trong lớp từ Hán Việt xét về mặt số lƣợng các yếu tố cấu tạo, từ đa
âm tiết chiếm số lƣợng lớn hơn hẳn so với từ đơn tiết (mà phần lớn là từ
song tiết).
Dựa vào phƣơng thức cấu tạo, từ đa âm tiết Hán Việt đƣợc chia thành
hai loại từ ghép và từ láy.
* Từ ghép
Có hai cách cấu tạo từ ghép Hán Việt:
ghép phân nghĩa (ghép chính phụ)
ghép hợp nghĩa (ghép đẳng lập)
- Từ ghép phân nghĩa (từ ghép chính phụ).
Đây là loại từ ghép mà nghĩa của thành tố này quy định, hạn chế, bổ
sung nghĩa cho thành tố kia để tạo nên một nghĩa hoàn chỉnh. Các nét nghĩa
của hai thành tố gắn bó hữu cơ với nhau.
Từ ghép chính phụ gồm hai loại:
Từ ghép có yếu tố chính đứng trƣớc, yếu tố phụ đứng .
Từ ghép có yếu tố phụ đứng trƣớc, yếu tố chính đứng sau.
+ Từ ghép có yếu tố chính đứng trước, yếu tố phụ đứng sau.
VD: ái quốc, thất vọng, tận tâm, tận lực,...
Những từ ghép loại này có số lƣợng ít, yếu tố chính đứng trƣớc có
các tính chất từ loại khác nhau:
Yếu tố chính là tính từ: nhiệt tình, yên thân, khổ tâm, khốn cực,...
Yếu tố chính là động từ: tận tâm, tốt nghiệp, khai sinh, thưởng
thức,...
+ Từ ghép có yếu tố phụ đứng trước, yếu tố chính đứng sau
VD: thanh niên, tác phẩm, tối tân, ưu đãi, ác nghiệt,...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




16


Những từ ghép loại này có số lƣợng rất lớn, yếu tố chính đứng sau có
các tính chất từ loại khác nhau:
Yếu tố chính là danh từ: học sinh, nhân loại, tác phẩm, quốc ca, quốc
kỳ, hải quân,...
Yếu tố chính là tính từ: tối tân, tương phản, tàn nhẫn, bạo tàn, tương
tự,..
Yếu tố chính là động từ: cao hứng, hoan nghênh, lợi dụng, bình
phục, du kích,...
- Từ ghép phân nghĩa (từ ghép chính phụ).
Đây là loại từ ghép mà nghĩa của thành tố này quy định, hạn chế, bổ
sung nghĩa cho thành tố kia để tạo nên một nghĩa hoàn chỉnh. Các nét nghĩa
của hai thành tố gắn bó hữu cơ với nhau.
VD:
Các từ có yếu tố trái nghĩa: sinh tử, động tĩnh, nam nữ, lợi hại,...
Các từ có yếu tố đồng nghĩa, gần nghĩa, hoặc cùng trƣờng nghĩa: cô
độc, hưng thịnh, gian ác, vĩ đại, cao thượng, phân phát, thịnh vượng, hân
hoan, lương thiện,…
Trật tự của các yếu tố trong từ ghép đẳng lập thƣờng là cố định,
nhƣng cũng có một số từ có thể đảo trật tự các yếu tố mà nghĩa vẫn không
thay đổi: VD: chung thuỷ = thuỷ chung; biệt li = li biệt, trang điểm = điểm
trang, hoàng kim = kim hoàng, tranh đấu = đấu tranh, giản đơn = đơn giản,
tăng gia = gia tăng, tha thiết = thiết tha,…
Trong từ ghép Hán Việt cịn có loại từ ghép trùng lặp đó là những từ
đƣợc cấu tạo bởi hai đơn vị có kết cấu âm tiết và ý nghĩa nội tâm hoàn toàn
giống nhau, sau khi đƣợc lắp ghép thành một chỉnh thể trở thành một từ ghép
song âm.
VD: gia gia, xứ xứ, nhân nhân, thường thường,…


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



17


Những từ đƣợc cấu tạo theo kiểu này thƣờng đƣợc dùng để biểu thị
sự toàn thể, toàn bộ, khắp lƣợt, liên tục, lặp di lặp lại,… Chúng đi vào tiếng
Việt bằng hình thức sao phỏng; nhƣ kiểu kết hợp: người người làm việc
thiện, nhà nhà làm việc thiện,…
* Từ láy
Theo quan niệm hiện tại thì một từ đƣợc coi là từ láy phải thỏa mãn
những điều kiện sau:
- Phải gồm từ hai thành tố trở lên (chủ yếu là hai thành tố)
- Các thành tố trong từ láy có quan hệ về ngữ âm với nhau.
- Nghĩa của từ láy có giá trị gợi tả, biểu cảm
Tuy nhiên thực tế cịn có rất nhiều từ ít nhiều gợi lên mối quan hệ
ngữ âm nhƣ: hoang mang, ấm ức, khổ sở, an ủi, đường hồng,… cũng có vẻ
nhƣ là từ láy. Vì tuy khơng lặp lại bộ phận (hay tồn bộ) ngữ âm, nhƣng các
từ này lại “gây cảm tƣởng có sự lặp lại về âm”.
Từ láy Hán Việt cũng vậy. Bên cạnh những từ mà quan hệ ngữ âm
giữa các thành tố khơng có sự lặp lại tồn bộ (hay bộ phận) mà chỉ gợi lên
mối quan hệ ngữ âm nhƣ: đường hồng, bàng hồng, an ủi,… chúng ta cịn
bắt gặp ở đó những từ láy mà cả hai yếu tố đều có nghĩa trong thụ cảm của
ngƣời hiểu biết tiếng Hán.
Những từ đƣợc gọi là từ láy Hán Việt phải thỏa mãn một điều kiện
trƣớc tiên là: các thành tố tạo nên từ láy là yếu tố Hán Việt. Đó có thể là:
- Cả hai thành tố là Hán Việt: đinh ninh, lâm li, độc đốn, đường

hồng, lam lũ, khang trang, tư lự, do dự,…
- Có thể chỉ có một thành tố là yếu tố Hán Việt: biền biệt, khô khốc,
hậu hĩ, não nùng, bạc bẽo, nhục nhã,...
Hầu hết những từ láy Hán Việt mà cả hai thành tố là Hán Việt thì đều
là những từ mƣợn nguyên khối từ tiếng Hán. Đối với những từ láy này: về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



18


mặt ngữ âm có thể thấy có một sự tƣơng ứng khá rõ giữa các từ láy Hán Việt
với bản thân chúng ở trong nguyên ngữ; về mặt ý nghĩa, các thành tố đều có
nghĩa và nghĩa của từ láy Hán Việt trong nguyên ngữ tiếng Hán là do chính
các thành tố này tạo thành.
VD: “phong phú”:
- phong: dồi dào
- phú: giàu
Trong tiếng Hán “phong phú” vừa đƣợc dùng làm tính từ với
nghĩa “nhiều, dồi dào”; vừa đƣợc dùng làm động từ với nghĩa “làm
cho nhiều, làm cho dồi dào”.
Còn những từ láy chỉ có một thành tố là yếu tố Hán Việt thì đều là
những từ láy đƣợc tạo ra trong tiếng Việt. Những từ láy này nhìn chung
khơng nhiều. Đặc điểm bao trùm lên loại từ láy này là khi tham gia cấu tạo
từ láy, các thành tố Hán Việt đóng vai trị là thành tố chính, “có nghĩa”, cịn
từ láy đƣợc cấu tạo nên thì theo mơ hình của từ láy tiếng Việt.
VD:


khơ – khơ khốc
biệt - biền biệt
bạc – bạc bẽo
hậu – hậu hĩ

c. Đặc điểm cấu tạo thành ngữ Hán Việt
Khi nói đến bản sắc dân tộc hay đặc trƣng văn hoá dân tộc đƣợc hiện
trong lớp từ vựng của một ngƣời, khơng thể nói đến thành ngữ. Bởi mỗi
thành ngữ đều chứa đựng trong đó cả một chiều sâu tƣ duy, kinh nghiệm
sống và làm việc; những tập tục, lễ giáo, quan điểm, thẩm mĩ, đạo lí làm
ngƣời, cách đối nhân xử thế, ...của con ngƣời thuộc từng dân tộc. Các thành
ngữ Hán Việt nhập vào tiếng Việt chủ yếu thông qua con đƣờng sách vở.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



19


Khi nhập vào tiếng Việt, các thành ngữ Hán có vỏ ngữ âm Hán Việt
đƣợc Việt hoá và ở các mức độ khác nhau.
Do đặc điểm của thành ngữ là nghĩa biểu tƣợng, nghĩa tổng thể chứ
không phải là nghĩa của từng thành tố cộng lại cho nên việc thay đổi một
thành tố (có khi là hai) ảnh hƣởng đến nghĩa của cả thành ngữ.
VD:

cải lão hoàn đồng
bách niên giai lão
tự cổ chí kim

bách chiến bách thắng…

Cùng với sự tồn tại và hoạt động của các từ Hán Việt trong tiếng
Việt, thành ngữ gốc Hán nói chung và các thành Ngữ Hán Việt nói riêng
chiếm một vị trí quan trọng trong kho tàng thành ngữ Việt Nam.
1.3.2.2 Đặc điểm về ngữ nghĩa từ ngữ Hán Việt
Các từ ngữ Hán Việt khi đƣợc mƣợn vào tiếng Việt trở thành một bộ
phận của từ vựng tiếng Việt và chúng hoạt động theo quy luật tiếng Việt vì
vậy ngữ nghĩa của các đơn vị gốc Hán có thể thay đổi so với tiếng Hán.
a. Sự mở rộng nghĩa, phát triển thêm nghĩa mới
Rất nhiều những từ ngữ Hán Việt khi đi vào hoạt động hành chức,
bên cạnh nghĩa gốc trong tiếng Hán, còn phát triển thêm nghĩa mới.
VD:
- Hắc: có nghĩa là đen tối
Vào tiếng Việt, ngồi nghĩa trên cịn có thêm hai nghĩa nữa:
+ có mùi xơng mạnh lên mũi, gây cảm giác khó chịu
+ tỏ ra nghiêm cứng rắn đến mức có thể cứng nhắc trong việc giữ
nguyên tắc, làm ngƣời dƣới quyền phải nể sợ một cách khó chịu
- đả: có nghĩa là đánh
Vào tiếng Việt, ngồi nghĩa trên cịn có các nghĩa sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



20


+ Đả kích bằng lời nói, tranh ảnh. VD: Bài báo đả thói cửa quyền.
+ ăn, uống hoặc ngủ (nhƣ đánh). VD: Hắn đả hết 2 bát cơm.

- động: có các nghĩa là không đứng yên – đụng đến – hang núi
Vào tiếng Việt, ngồi nghĩa trên cịn có các nghĩa sau:
+ cồn rộng và không cao lắm, thƣờng ở vùng ven biển. VD: động cát
+ có những biến đổi trạng thái mạnh mẽ. VD: biển động dữ dội
+ có dấu hiệu khơng bình thƣờng cho thấy tình hình khơng yên, cần
đề phòng. VD: Thấy động, tên trộm bỏ chạy.
- đầu: có các nghĩa sau:
+ phần trên hết của thân mình VD: cái đầu,…
+ ném vào, đƣa vào VD: đầu cơ, đầu thai,…
Vào tiếng Việt, ngồi nghĩa trên cịn có các nghĩa sau:
+ Phần có điểm xuất phát của một khoảng không gian của thời gian
đối lập với cuối. VD: đầu mùa thu, nhà ở đầu sông, những ngày đầu năm, …
+ Phần ở tận cùng, giống nhau ở hai phía đối lập trên chiều dài của
một vật. VD: hai bên đầu cầu, nắm hai đầu dây,…
+ Vị trí hoặc thời điểm thứ nhất, trên hoặc trƣớc tất cả những vị trí,
thời điểm khác. VD: lần đầu, hàng ghế đầu, tập đầu của bộ phim,…
b. Sự thu hẹp nghĩa
Đây là sự phát triển theo hƣớng: các yếu tố gốc Hán khi đi vào tiếng
Việt thì tiếng Việt khơng tiếp nhận tất cả các nghĩa vốn có của nó mà chỉ tiếp
nhận phần nào một số nghĩa, hoặc bớt các nét nghĩa, hoặc hạn chế phạm vi
sử dụng từ Hán Việt với nghĩa cụ thể.
VD:
- Bì: trong tiếng Hán có nghĩa là “tổ chức mặt bên ngoài của ngƣời
hay sinh - thực vật”. Với nghĩa này, bì tƣơng đƣơng với các cách dùng sau

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



21



trong tiếng Việt: da của ngƣời (nhân bì), da của động vật (trƣ bì, ngƣu bì), vỏ
của thực vật (thụ bì).
Nhƣng hiện nay trong iếng Việt bì chủ yếu đƣợc dùng với nghĩa: da
của động vật: trâu, bò, lợn, gà,... đã chết, dùng làm thức ăn.
- Hồng: trong tiếng Hán có nghĩa là đỏ - một loại màu sắc cơ bản.
Nhƣng khi vào tiếng Việt lại đƣợc dùng để chỉ mức độ từng loại màu đỏ: đỏ
hồng, đỏ au, đỏ chót, đỏ quạch, đỏ hoe, đỏ chói,...
- Tống: trong tiếng Hán có nghĩa chỉ một hành động chung là tiễn.
Nhƣng khi vào tiếng Việt nó lại đƣợc dùng để chỉ một hành động cụ thể: đƣa
đi, đuổi đi bằng hành động dứt khoát, mạnh mẽ: tống cổ, tống giam, tống
khứ,...
- Thổ: trong tiếng Hán mang nghĩa chỉ đất nói chung.
Nhƣng khi vào tiếng Việt lại mang nghĩa chỉ tiểu loại: đất để xây
dựng nhà ở, làm vƣờn hay để trồng trọt (nhƣng không phải là ruộng để trồng
lúa): thổ canh, thổ cƣ,...
c. Sự biến đổi nghĩa
Bên cạnh hai khuynh hƣớng mở rộng và thu hẹp nghĩa thì một số từ
tiếng Hán khi trở thành yếu tố (hoặc từ) Hán Việt thì có xu hƣớng: nghĩa của
chúng chuyển nghĩa rất xa hoặc thay đổi hẳn so với nghĩa trong tiếng Hán.
VD:
- thiên vị (Hán): vốn có nghĩa là ngơi vua; vào tiếng Việt lại có nghĩa
là thiên về phía khơng cơng bằng, không vô tƣ.
VD: Trọng tài thiên vị đội A
- bàng hồng: vốn có nghĩa là do dự, khơng biết đi lối nào; vào tiếng
Việt lại có nghĩa là: chống váng, bất ổn định nhất thời về tinh thần.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




22


- sa đà: vốn có nghĩa là: vấp ngã vì hờ hững mà bỏ mất thời giờ; vào
tiếng Việt lại có nghĩa là: bị cuốn hút vào việc gì đó đến mức khơng tự kiểm
chế đƣợc.
- khốn nạn: vốn có nghĩa là khó khăn; vào tiềng Việt lại có nghĩa là
hèn mạt, khơng cịn chút nhân cách, đáng khinh bỉ, nguyền rủa…
1.3.2.3 Đặc điểm phong cách của từ ngữ Hán Việt
a. Tính cố định
Từ Hán Việt có sự kết hợp bền chắc, mang tính chất cố định.
Ví dụ: So sánh:
“giang sơn”



“sông núi”

“hạnh phúc”



“sung sướng, đủ đầy”

“đê tiện”




“xấu xa, hèn nhát”

Chúng ta thấy rằng: Với các từ Hán Việt, chúng ta khơng thể đảo vị
trí các yếu tố trong từ hay thêm bất kì yếu tố nào vào đƣợc:
sơn giang

(-)

phúc hạnh

(-)

tiện đê

(-)

Nhƣng với các từ thuần Việt tƣơng đƣơng, chúng ta có thể đảo vị trí
các yếu tố, thậm chí thêm các yếu tố khác vào:
núi sông

(+)

sông và núi

(+)

đủ đầy, sung sƣớng

(+)


sung sƣớng và đủ đầy

(+)

hèn nhát, xấu xa

(+)

xấu xa và hèn nhát

(+)

b. Tính đa nghĩa
Từ Hán Việt thƣờng bao chứa nhiều nghĩa khác nhau: nghĩa gốc,
nghĩa chuyển, nghĩa mở rộng.
Ví dụ:
Từ “di”: Có các nghĩa sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



23


- để lại cho ngƣời sau: di chiếu, di chúc, di bút,…
- dời đi nơi khác: di chuyển, di cƣ, di trú,…
Từ “giải”: Có các nghĩa sau:
- chia ra, tách ra: giải tán, giải tỏa,...
- nói cho hiểu rõ: lý giải, phân giải,...

c. Tính trừu tƣợng, cổ kính
Từ Hán Việt tuy cơ đọng, súc tích nhƣng rất khó hiểu vì nó chứa
đựng nhiều ý tứ sâu sắc. Khi nhắc đến một yếu tố Hán Việt nào đó, chúng ta
sẽ liên tƣởng theo nhiều chiều, tới nhiều yếu tố kết hợp với nó; khiến cho
chúng ta có cảm giác về sự tĩnh tại, cổ kính, trừu tƣợng. Trong khi đó, từ
thuần Việt đồng nghĩa lại tạo nên một hình ảnh rất sống động, cụ thể, gần
gũi.
So sánh: thái dương và mặt trời ta sẽ cảm nhận thấy rất rõ điều ấy:
Khi nói đến thái dương, chúng ta cảm thấy có một cái gì đó rất xa
xơi, trừu tƣợng và rất khó định hình một cách cụ thể. Nhƣng nếu nói mặt
trời, chúng ta sẽ tƣởng tƣợng ra ngay trƣớc mắt một sự vật cụ thể, thân thiện,
gần gũi mà có thể vẽ hoặc mô tả bằng ngôn ngữ: mặt trời đỏ rực, mặt trời
khuất dần sau những rặng tre,…. Thậm chí, các em thiếu niên, nhi đồng cịn
có thể vẽ nên ông mặt trời của riêng mình: “ chác vẽ ông mặt trời, miệng ông
cƣời thật tƣơi, nhƣ miệng cƣời cô giáo…cháu vẽ ơng mặt trời, chùm mây ở
cạnh ơng…”
Chính đặc điểm này đã tạo nên sự đối lập giữa tính chất tĩnh của từ
Hán Việt với tính chất động của từ thuần Việt:
kiêu ngạo

- tỏ vẻ khinh người, tự cao tự đại

nghiêm trang

- chỉnh đốn và có vẻ thận trọng

li biệt

- lìa cách nhau, kẻ ở người đi


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



24


×