Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Đối thoại văn hóa trong thơ nôm truyền tụng hồ xuân hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 91 trang )

..

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐINH THỊ THÙY CHI

ĐỐI THOẠI VĂN HĨA
TRONG THƠ NƠM TRUYỀN TỤNG
HỒ XN HƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2020


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐINH THỊ THÙY CHI

ĐỐI THOẠI VĂN HĨA
TRONG THƠ NƠM TRUYỀN TỤNG
HỒ XN HƯƠNG
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 822.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Dương Thu Hằng

THÁI NGUYÊN - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài khoa học “Đối thoại văn hóa trong thơ Nơm truyền
tụng Hồ Xn Hương” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được cơng bố trong bất cứ
cơng trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày 27 tháng 12 năm 2020
Tác giả luận văn

Đinh Thị Thùy Chi

i


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Dương Thu Hằng đã
tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tơi trong suốt q trình tìm hiểu, nghiên cứu và
hồn thiện luận văn.
Tơi xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn nói riêng
và các thầy cơ giáo của trường Đại học sư phạm Thái Nguyên nói chung đã tạo
điều kiện cho tơi trong suốt q trình học tập và thực hiện luận văn.
Tôi xin gửi trân trọng cảm ơn BGH trường THPT Bạch Đằng và các đồng
nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập và hồn thiện
luận văn.
Cuối cùng, tơi xin gửi lời cảm ơn đến người thân, bạn bè đã động viên, giúp
đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thiện

luận văn.

Thái Nguyên, ngày 27 tháng 12 năm 2020
Tác giả luận văn

Đinh Thị Thùy Chi

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
MỤC LỤC ...........................................................................................................iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 5
4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 5
5. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6
7. Đóng góp mới của luận văn ............................................................................. 6
8. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 7
NỘI DUNG ......................................................................................................... 8
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN ....... 8
1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ liên quan ..................................................... 8
1.1.1. Văn bản, tác giả, độc giả từ cái nhìn liên văn bản ..................................... 8
1.1.2. Đối thoại và đối thoại văn hóa trong tác phẩm văn học .......................... 16
1.2. Vài nét về cuộc đời và thơ Nôm của Hồ Xuân Hương .............................. 18
1.2.1. Vài nét về thi sĩ Hồ Xuân Hương ............................................................ 18

1.2.2. Thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương ............................................ 20
1.3. Không gian văn hóa thời đại Hồ Xuân Hương ........................................... 22
1.3.1. Tiền đề lịch sử - xã hội ............................................................................ 22
1.3.2. Không gian văn hóa ................................................................................. 24
Chương 2. ĐỐI THOẠI VĂN HĨA TRONG THƠ NÔM TRUYỀN TỤNG
HỒ XUÂN HƯƠNG ................................................................................. 28
2.1. Đối thoại với văn hóa dân gian ................................................................... 28
2.1.1. Văn hóa dân gian và các tác phẩm mang yếu tố dân gian trong thơ
Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương ..................................................... 28

iii


2.1.2. Thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương đối thoại tương hỗ với văn
hóa dân gian ............................................................................................... 31
2.2. Đối thoại với văn hóa phong kiến phương Đơng ....................................... 42
2.2.1. Văn hóa phong kiến phương Đơng và các tác phẩm mang yếu tố văn
hóa phong kiến phương Đơng ................................................................... 42
2.2.2. Đối thoại tương phản với văn hóa phong kiến phương Đơng ................. 45
Chương 3. PHƯƠNG THỨC ĐỐI THOẠI VĂN HĨA TRONG THƠ NÔM
TRUYỀN TỤNG HỒ XUÂN HƯƠNG ......................................................... 60
3.1. Sử dụng một sô thủ pháp nghệ thuật dân gian trong thơ Nôm truyền tụng
Hồ Xuân Hương ........................................................................................ 60
3.1.1. Thủ pháp đố tục giảng thanh ................................................................... 60
3.1.2. Thủ pháp lấp lửng hai mặt ....................................................................... 65
3.1.3. Thủ pháp nói lái, chơi chữ, sử dụng khẩu ngữ ........................................ 67
3.2. Vận dụng thủ pháp giễu nhại và tiếng cười dân gian trong thơ Nôm
truyền tụng của Hồ Xuân Hương .............................................................. 70
3.2.1. Thủ pháp giễu nhại .................................................................................. 70
3.2.2. Tiếng cười dân gian ................................................................................. 77

KẾT LUẬN....................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 84

iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1. Văn học phản ánh một số những biểu hiện của văn hoá, như một tấm
gương của văn hóa. Trong tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh của văn hố qua
sự lĩnh hội và qua cách thể hiện của nhà văn. Văn hố tác động đến văn học khơng
chỉ ở đề tài mà ở mọi mặt đời sống tinh thần bao bọc trong hoạt động sáng tạo của
nhà văn và hoạt động tiếp nhận của độc giả. Bản thân nhà văn với thế giới nghệ
thuật của mình như một đứa con tinh thần của văn hoá. Người đọc, với việc tiếp
cận tác phẩm cũng được rèn luyện về cách cảm thụ thẩm mỹ trong một mơi trường
văn hố nhất định. Khơng gian văn hoá này chi phối cách xử lý đề tài, thể hiện chủ
đề, xây dựng nhân vật, sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật… trong quá trình sáng
tác; đồng thời cũng chi phối cách cảm thụ, đánh giá, thưởng thức… trong q trình
tiếp nhận. Một nền văn hố đa dạng, bao dung là tiền đề thuận lợi cho văn học
phát triển. Vì vậy, có thể nói văn học là thước đo, là “một không gian nghiên cứu”
vừa thẩm định, vừa kiểm nghiệm chất lượng và trình độ văn hố của một xã hội
trong một thời điểm lịch sử nhất định. Chính vì nhu cầu làm mới văn học nên một
loạt những khái niệm mới như đối thoại văn hóa, liên văn bản ra đời đóng sứ mệnh
như một cơng cụ để giải mã cho sự cởi mở trong văn học.
2. Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương là một hiện tượng văn học
độc đáo, mang một số nét đặc thù, cá biệt luôn tạo ra một không gian nghiên
cứu khơng có giới hạn trong việc tiếp nhận văn học trong lịch sử. Vì vậy, nghiên
cứu tiếp nhận các vấn đề có liên quan đến hiện tượng thơ Nơm Hồ Xuân Hương
là một cách tìm lại với những kinh nghiệm lịch sử của quá khứ để tìm hướng
tiếp cận những hiện tượng này; đồng thời góp phần hướng đến một góc nhìn

đánh giá cởi mở, hợp lý hơn đối với các hiện tượng văn học đương đại khác.
3. Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ nổi tiếng được đông đảo độc giả biết
đến với tên gọi “Bà chúa thơ Nơm”. Có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về Hồ
Xn Hương trong nhiều vấn đề như góc độ giới tính, nghệ thuật ngơn từ, hình

1


tượng thơ... Mặt khác, có một số tác phẩm của Hồ Xuân Hương được học trong
chương trình THCS, THPT như: Bánh trơi nước, Tự tình... Vì vậy, lựa chọn đề
tài Đối thoại văn hóa trong thơ Nơm truyền tụng của Hồ Xn Hương chúng
tơi hi vọng có thêm được một góc nhìn mới, qua đó thấy được quan niệm, tư tưởng
nghệ thuật và tài năng sáng tạo của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương trên nền tảng bối cảnh
văn hóa đã sản sinh và nuôi dưỡng các tác phẩm, cũng là để góp phần vào q trình
học tập và nghiên cứu các tác phẩm.
4. Liên văn bản là một phương pháp phê bình văn học khá phổ biến ngày
nay. Trong lý thuyết về liên văn bản, nguyên lí đối thoại là một trong số những
vấn đề quan trọng, được các nhà nghiên cứu văn học quan tâm hiện nay. Tuy
nhiên, vấn đề đối thoại theo liên văn bản mới chỉ được nghiên cứu phổ biến ở
văn học hiện đại, văn học trung đại cịn ít, chưa được khai thác sâu về vấn đề
này. Chính vì vậy, khi thực hiện luận văn này, tơi hy vọng sẽ trình bày được
một vấn đề mới mẻ cụ thể là vấn đề đối thoại văn hóa trong thơ Nơm truyền
tụng Hồ Xn Hương.
2. Lịch sử vấn đề
Từ trước đến nay, đã có rất nhiều quan điểm đánh giá khác nhau về thơ
Hồ Xuân Hương. Nếu nhà thơ Tản Đà cho rằng ở thơ bà: "Thi trung hữu quỷ"
(trong thơ có quỷ), thì nhà thơ Xuân Diệu gọi bà là: "Bà chúa thơ nôm". Trong
khi đó, nhà thơ Hoa Bằng gọi bà là "nhà thơ cách mạng"... Nhìn chung, bằng con
mắt của các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu về Hồ Xuân Hương đều có những
quan điểm, cách nhìn nhận khác nhau song đều cùng gặp nhau ở một quan điểm

đó là thơ Hồ Xuân Hương có một phong cách riêng, khác thường, tài hoa.
Hồ Xuân Hương là một hồn thơ giàu sắc thái sáng tạo, giàu tính nhân bản
nhân văn sâu sắc. Một con người độc đáo cả về tính cách lẫn thơ văn mà từ trước
đến nay. Điều làm nên sự độc đáo nổi tiếng của bà chúa thơ Nơm chính là ngơn
từ trong thơ Hồ Xuân Hương. So với các sáng tác của một số nhà thơ đương thời,
sự nghiệp sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương với số lượng không nhiều, chủ yếu

2


là mảng thơ nơm, bên cạnh đó cịn có sự xuất hiện của Lưu Hương Kí, Xuân
Hương đàm thoại... với một phong cách thơ độc đáo, đậm chất Hồ Xuân Hương.
Thơ Hồ Xuân Hương chiếm một vị trí đặc biệt trong lòng người đọc, gay ấn
tượng mạnh, làm say mê, rung động biết bao thế hệ...
Trong bài viết “Khuynh hướng thơ Hồ Xuân Hương”, Nguyễn Văn
Hoàn nêu ra vấn đề: "Thơ Hồ Xuân Hương nổi rõ lên khuynh hướng bình dân,
khuynh hướng dân gian. Điều này được thể hiện qua việc sử dụng ngôn ngữ, qua
việc vận dụng và gia công phát triển, sáng tạo lại tục ngữ, ca dao; triệt để lợi
dụng những tính từ, trạng từ, từ lấp láy để tăng hiệu suất chính xác cho việc miêu
tả" [6; tr342]. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ ra cách mà Hồ Xuân Hương sử dụng
linh hoạt thi liệu dân gian mà chưa đề cập tới nguyên nhân tại sao Hồ Xuân
Hương lại sử dụng như vậy? Ý đồ khi bà sử dụng như vậy là gì? Luận văn của
chúng tơi hướng tới làm sáng tỏ điều đó.
Trong bài viết: “Hồ Xn Hương từ cái nhìn hậu hiện đại”, Đồn Lê
Giang đã từng khẳng định: “Như một viên đá kỳ hình đa sắc, thơ Hồ Xn Hương
từ mỗi một góc nhìn lại thấy một kiểu dáng mới, một màu sắc mới. Có rất nhiều
điểm nhìn đối với thơ Hồ Xn Hương như cái nhìn của văn chương bác học, có
người lại nhìn từ điểm nhìn văn hóa dân gian, có người nhìn từ chủ nghĩa nhân
văn thời Phục Hưng và cũng có người nhìn từ phân tâm học, gần đây có người
lại nhìn từ phê bình nữ quyền luận,…” [4, tr.2]. Hồ Xuân Hương là hiện tượng

văn học kỳ lạ, người ta khơng ngừng tìm hiểu, khơng ngừng khám phá. Hồ Xuân
Hương - một hiện tượng thơ tồn tại hàng trăm năm nay mà vẫn không hề cũ bao
giờ, luôn được khai thác tìm hiểu trên nhiều phương diện. Mặt khác, bà ví Hồ
Xuân Hương sáng tác như một nhà văn hậu hiện đại, chứng tỏ một sự gắn bó
khăng khít về mặt khơng gian và thời gian của Hồ Xuân Hương với văn hóa, văn
học. Vậy nên luận văn của chúng tôi muốn đi sâu để khám phá xem bóng dáng
một nhà văn hậu hiện đại có trong một nữ thi sĩ thời trung đại được thể hiện như
thế nào?.

3


Nguyễn Đăng Na trong bài"Thơ Hồ Xuân Hương với văn học dân gian"
in trong cuốn “Hồ Xuân Hương về tác gia và tác phẩm”, NXB Giáo dục (2003)
đã nhận xét: "...Chủ nghĩa nhân đạo và chủ nghĩa cấm dục tôn giáo là hai chủ
nghĩa đối lập hoàn toàn quan điểm với nhau, tuy nhiên, Xuân Hương đưa những
cảm hứng dân gian không được giai cấp thống trị thừa nhận vào thơ chính thức.
Đó cũng là nét riêng của Hồ Xn Hương, bà tiếp tục tiếng cười dân gian một
cách thành công. Tuy nhiên văn học dân gian không phải là nguồn duy nhất tạo
nên Hồ Xuân Hương..." [14,tr.363]. Đồng thời chỉ ra mối liên hệ giữa thơ Hồ
Xuân Hương với văn hoá dân gian và hẹp hơn là văn học dân gian trong cách
cảm, cách nghĩ, từ đó ta thấy sự kế thừa cũng như nét độc đáo riêng của nữ sĩ.
Tác giả khảo sát thơ Hồ Xuân Hương trên ba hệ thống đề tài: Đề tài về loại người
"có học" hay cụ thể là những bậc anh hùng, hiền nhân quân tử, đề tài về nhà chùa
và đề tài về người phụ nữ rồi đi tới khẳng định: "Hồ Xuân Hương tiếp thu dân
gian nhưng không lặp lại dân gian; bà chỉ tiếp thu cái hay, cái đẹp, cái đúng; cái
gì chưa đúng thì uốn nắn"[14, tr.157]. Tuy nhiên, với bài viết này ông chỉ đưa ra
vấn đề trong một khuôn khổ nhất định, chưa đặt thơ Hồ Xuân Hương song song
trên nhiều phương diện với văn hóa dân gian để thấy được sự đột phá trong phong
cách thơ Hồ Xuân Hương. Nhưng ở đây, nhà văn đã hé mở sự đa dạng trong

phong cách thơ Hồ Xuân Hương, sự ràng buộc trong nhiều mối quan hệ văn hóa
nhưng chưa đặt thơ của Hồ Xuân Hương trong đối thoại với văn hóa dân gian,
với văn hóa trung đại thời phong kiến một cách cụ thể nên luận văn của chúng
tơi rất muốn đi sâu tìm hiểu thêm.
Trong nền văn học Việt Nam, bên cạnh mảng dịch thuật, những bài viết,
cơng trình nghiên cứu về ngun lý đối thoại của Trần Đình Sử, Đặng Anh Đào,
Nguyễn Đăng Điệp đem lại nhiều nhận định sâu sắc. Cụ thể, Trần Đình Sử trong
“M. Bakhtin và thi pháp của Dostoievski” (in trong tạp chí văn nghệ quân đội
năm 1985) là người tiên phong so sánh tiểu thuyết đa thanh và đơn thanh của
Bakhtin và Dostoievski. “Khi nhân vật được thể hiện tập trung ở sự tự ý thức
và lời nói của nó thì quan hệ nhân vật là quan hệ giữa ý thức và ý thức, giữa lời
4


nói và lời nói”. Do đó quan hệ nhân vật thực chất là quan hệ đối thoại. Các sự
kiện thực tế là đề tài của đối thoại, thúc đẩy quá trình tự nhận thức. Thuật ngữ
đối thoại từ đây phát triển một cách mạnh mẽ trên tinh thần của Bakhtin với sự
cụ thể hóa tư tưởng chưa có hồi kết của tính liên chủ thể.
Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy viết “Hồ Xuân Hương đã vi phạm một loạt
những điều cấm kị”, và những vi phạm, những cấm kị đó được ơng trình bày rất
rõ ràng, chi tiết trong quyển “Hồ Xn Hương - Hồi niệm phồn thực”.Trái
ngược với hình ảnh Hồ Xuân Hương gắn cùng niềm bi ai sầu khổ về số phận bảy
nổi ba chìm, Đỗ Lai Thúy đã chỉ ra một Hồ Xuân Hương khác, một Xuân Hương
mạnh mẽ tuyên chiến với trật tự xã hội cũ. Một khía cạnh vơ cùng thú vị được
ơng khai thác, đó là hồi niệm phồn thực trong thơ bà.
Đã có một số luận văn nghiên cứu về vấn đề đối thoại văn hóa tiêu biểu
như luận văn của Nguyễn Nhật Huy “Đối thoại văn hóa trong tiểu thuyết “Đức
Phật, nàng Savitry và tôi”, đại học khoa học xã hội và nhân văn -ĐHQGHN,
năm 2011. Đây cũng là một luận văn khai thác về vấn đề đối thoại văn hóa của
một tác phẩm văn học. Tuy nhiên có một điểm khác đó là đối thoại văn hóa trong

tiểu thuyết cụ thể cịn đối với luận văn của tơi là đối thoại văn hóa trong thơ Nơm
truyền tụng Hồ Xn Hương.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện luận văn này, chúng tơi hi vọng có thể góp phần tìm hiểu khái
niệm về đối thoại văn hóa, những điểm cơ bản về cuộc đời và thơ Nơm truyền
tụng Hồ Xn Hương đồng thời tìm ra những đối thoại văn hóa, những phương
thức để đối thoại văn hóa trong thơ Nơm truyền tụng của bà.
4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện luận văn này, chúng tôi không nghiên cứu toàn bộ các tác phẩm
thơ Hồ Xuân Hương mà chủ yếu tập trung tìm hiểu về thơ Nơm truyền tụng của
bà với những đối thoại văn hóa.

5


4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của luận văn là tìm hiểu những tiền đề cơ bản làm cơ sở cho
nghiên cứu, lí thuyết liên văn bản trong việc tìm hiểu những đối thoại văn hóa
trong thơ Nơm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, khái niệm đối thoại và đối thoại
văn hóa, đơi nét về đặc điểm thơ Nơm Hồ Xn Hương. Trên cơ sở đó, chúng
tơi đi tìm xu hướng đối thoại giữa tác phẩm với văn hóa.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những đối thoại văn hóa trong thơ Hồ
Xn Hương
Chúng tơi sử dụng tác phẩm: “Hồ Xuân Hương thơ và đời”, Nxb Văn học,
Hà Nội, 1998 để khảo sát nghiên cứu cùng với các tài liệu tham khảo có liên
quan đến đề tài.
6. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận văn, chúng tôi vận dụng đồng bộ các phương pháp nghiên

cứu sau:
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học và lý thuyết liên văn bản: Sử dụng
phương pháp tiếp cận văn hóa học. Đồng thời, vận dụng lý thuyết liên văn bản
để nhìn nhận tác phẩm như một văn bản ln tồn tại trong mối liên hệ với những
văn bản khác, với người đọc và tác giả, luôn nằm trong một chuỗi bất tận những
mối quan hệ.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Kết hợp phương pháp nghiên cứu
văn hóa, nghiên cứu lịch sử,... trên cơ sở kế thừa và khai thác thế mạnh của các
ngành khoa học khác để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
Ngoài ra, luận văn của chúng tơi cịn sử dụng các thao tác nghiên cứu khác
như phân tích thi pháp tác phẩm và các thao tác tổng hợp, phân tích, thống kê,
so sánh…
7. Đóng góp mới của luận văn

6


Đã có rất nhiều luận văn nghiên cứu về Hồ Xuân Hương trên nhiều phương
diện trong đó có phương diện văn hóa. Tuy nhiên, đối thoại văn hóa là một vấn
đề chưa được khai thác. Chính vì vậy, thực hiện luận văn này, tơi muốn đóng
góp thêm về vấn đề đối thoại văn hóa trong thơ Nơm truyền tụng Hồ Xuân
Hương, đặt thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương với văn hóa dân gian và
văn hóa phong kiến phương Đơng để tìm ra xu hướng đối thoại và phương thức
đối thoại.
8. Cấu trúc của luận văn
Luận văn của chúng tơi ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo,
phần Nội dung được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung liên quan đến luận văn.
Chương 2: Đối thoại văn hóa trong thơ Hồ Xuân Hương.
Chương 3: Phương thức đối thoại văn hóa trong thơ Hồ Xuân Hương.


7


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ liên quan
1.1.1. Văn bản, tác giả, độc giả từ cái nhìn liên văn bản
Liên văn bản (LVB - intertextuality) là một trong những thuật ngữ được
sử dụng nhiều nhất nhưng đồng thời cũng là một trong những thuật ngữ khó xác
định nhất trong lý thuyết văn học nửa sau thế kỷ XX. Theo nghĩa rộng nhất khái
niệm này có thể được xác định như là “sự tương tác của các văn bản” [24,tr.5].
Tuy nhiên, tùy thuộc vào các lập trường triết học và nghiên cứu của nhà khoa
học mà nội dung cụ thể của nó có thể biến đổi
Đứng ở phía là các tác giả hiểu LVB như một thủ pháp văn học xác định
(trích dẫn, ám chỉ, bình giải, nhại, bắt chước, vay mượn); cách hiểu như thế đòi
hỏi sự hiện diện của văn bản gốc đã có trước và xu hướng của tác giả sử dụng
văn bản gốc đó. Trong cách tiếp cận này khơng có gì mới ngồi thuật ngữ được
dùng để biểu thị các hiện tượng văn học vốn cũng cổ xưa như chính văn học.
Chẳng hạn, khi tìm hiểu các tác phẩm văn học ở phương Đông và phương Tây,
tất yếu sẽ bộc lộ dấu vết của liên văn bản. Tác phẩm nào cũng có dáng dấp của
thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, các thể loại của văn học dân gian với
ý thức trong trường ngôn ngữ, tư duy bằng mã ngôn ngữ xuyên trong không
gian và thời gian chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Trong tác phẩm “Rừng xà nu” của
Nguyễn Trung Thành ta thấy dáng dấp của thể loại sử thi, xây dựng hình tượng
nhân vật điển hình về hình thức lẫn hành động, thường là những nhân vật anh
hùng có ý nghĩa lịch sử đó là nhân vật Tnú. Như vậy, ý thức liên văn bản ln
sẵn có trong q trình sáng tạo chung, hành trình sáng tác nói riêng của nhân
loại, biểu hiện rất nhiều những dấu vết của các công trình quá khứ một cách rõ

nét.

8


Liên văn bản là một lý thuyết văn học có phạm vi rộng lớn. Nên chính vì
vậy khi nghiên cứu chúng ta chỉ tìm hiểu về một trong những khía cạnh nhỏ của
liên văn bản. Ở đây, chúng tơi tìm hiểu kĩ về khái niệm văn bản và các khái niệm
khác liên quan đến văn bản như tác giả, độc giả.
Ở cả phương Đông và phương Tây, văn bản được tạo nên bởi rất nhiều
yếu tố, kết hợp với nhau một cách rất chặt chẽ về mặt lý luận. Vì vậy, tính liên
văn bản vì vậy được hiểu là đặc tính bản thể luận của mọi văn bản. Về cơ bản,
tính liên văn bản là quan hệ tương tác, các văn bản có sự “nương nhờ” lẫn nhau,
được thực hiện trong tư duy hình thành nội dung văn bản của tác giả và tiếp cận,
tiêu thụ văn bản của người đọc. Nó chống lại mọi định kiến về cội nguồn, sự độc
sáng, tính tự trị, tính biệt lập của các tác giả, văn bản và độc giả.
Theo Bakhtin, đứng ở một khía cạnh khác, LVB được hiểu như là “thuộc
tính bản thể của mọi văn bản (“bất kỳ văn bản nào cũng là liên văn bản”, R.
Barthes), tức là giữa các văn bản khơng có sự độc lập, khơng có ranh giới riêng
khiến ta không thể phân biệt được các văn bản của cá nhân các tác giả, giữa văn
bản văn học cá nhân và văn bản vĩ mô của truyền thống, giữa các văn bản thuộc
các thể loại và loại hình khác nhau (khơng nhất thiết là mang tính nghệ thuật),
giữa văn bản và độc giả, và cuối cùng, giữa các văn bản và hiện thực”. [24,tr.26].
Như vậy LVB mô tả không phải hiện tượng văn học, mà một quy luật khách quan
nào đấy phụ thuộc vào sự tồn tại, tư duy phát triển của con người. Do đã có sự
xóa nhịa về ranh giới, liên văn bản cũng tạo nên sự hiện hữu, đồng hành cùng
tồn tại trong các văn bản hiện thời của các văn bản truyền thống và các văn bản
khác. Mặc dù các văn bản bị xóa nhịa về ranh giới nhưng nhiều loại tư tưởng
khác nhau cùng tồn tại trong văn học và đặc biệt là sự đối thoại của các tư tưởng
này trong văn học của các tác giả với các tư tưởng khác được khuyến khích thể

hiện cơng khai chứ khơng phải là cái nhìn kín đáo, phiến diện, theo ý đồ chủ
quan của tác giả nữa. Trong thực tế, một tác phẩm văn học ra đời luôn chịu sự
tác động của thời đại, của nền văn hóa trong thời đại đó. Điều này lí giải cho vấn

9


đề trong cùng một thời đại mà kết cấu hay kết thúc của một số tác phẩm văn học
rất giống nhau, hay cách giải quyết vấn đề của tác giả tương đối giống nhau.
Trong giai đoạn văn học hiện thực 1930-1945, do chịu ảnh hưởng sâu sắc của
bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa nên các tác giả khơng “tìm ra lối thốt” cho các
nhân vật của mình. Chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngơ Tất Tố cũng có kết cục
đen tối như bầu trời đêm cuối tác phẩm, Lão Hạc trong “Lão Hạc” của Nam Cao
vì quá nghèo đói bần cùng nên phải kết thúc cuộc đời bằng cách ăn bả chó để
chết… Như vậy, ở những tác phẩm cùng thời ln có sự tương đồng trong cách
nghĩ, cách viết của tác giả mà liên văn bản gọi đó là sự “xóa nhịa ranh giới”.
Người viết - hay còn gọi là tác giả, là những người sản sinh ra văn bản và
văn bản được ví như “những đứa con tinh thần” của tác giả. Về mặt hình thức,
tác giả là những người tạo ra văn bản ngôn từ: bài thơ, bài văn, bài báo, tác phẩm
văn học. Về thực chất, “tác giả là người làm ra cái mới, người sáng tạo ra các giá
trị văn học mới”[24, tr.27]. Đây là cách định nghĩa phổ biến trong tìm hiểu văn
học hiện đại. Tác giả vẫn luôn là chủ thể trực tiếp tạo nên hình thức và nội dung
của tác phẩm, đó là q trình sáng tạo riêng biệt. Tuy nhiên, dưới điểm nhìn của
các nhà văn học hậu hiện đại, trong tâm thế liên văn bản thường trực, thì sự nhìn
nhận về tác giả, hay người viết, cũng bao trùm những sắc thái mới. Theo
R.Barthes, cũng có thể xem người viết như một kẻ truyền đạt và người đọc là kẻ
thụ nhận, vai trò của hai chủ thể trên là song song và khơng thể thay thế trong
q trình hình thành ý nghĩa văn bản. Tác giả, được xem như “cha đẻ” của các
văn bản, hình thành các quy ước ngữ nghĩa, các diễn ngơn văn hóa, các kí hiệu
triết học.

Trong sự xâm lấn của trào lưu và nhận thức luận hậu hiện đại, tác giả đã
hoàn toàn mất đi vai trị độc tơn trong việc ấn định ý nghĩa cho văn bản. Điều
này đi ngược lại quan điểm khi tìm hiểu, nghiên cứu văn bản, chỉ cần khai thác
được hàm ý cụ thể của tác giả khi sáng tạo tác phẩm là sẽ phân tích được tồn bộ
nội dung tác phẩm. Cụ thể hơn, chính văn bản khơng bị gò ép, cố định theo ý

10


niệm của tác giả, nó được thể hiện nội lực vận động theo đúng quy luật phát triển.
Bản thân nó tuân theo những quy luật tự trị và người viết chỉ là một phần trong
việc quyết định và chuyển dịch ngữ nghĩa của văn bản. Hơn nữa, theo liên văn
bản, một văn bản không tồn tại một tác giả cố định với một ý nghĩa được đinh
sẵn mà có sự giao cắt không ngừng giữa các ranh giới và các mạng lưới văn bản
từ đó đã khiến nảy sinh vơ số những luồng tư tưởng của nhiều các tác giả khác
nhau trong một văn bản, tức là, đọc một văn bản của một tác giả nhưng ta bắt
gặp bóng dáng của rất nhiều luồng tư tưởng khác của những tác giả khác có thể
khơng cùng thời, khơng cùng phong cách.
Trong Cơng trình Lý thuyết văn chương đương đại của John Lye, cho rằng,
tác giả, trong q trình viết, ln chịu sự tác động của bốn loại văn cảnh, tức là,
nội dung và ý nghĩa của các văn bản được tạo nên khơng do hồn tồn chủ quan
tác giả mà bị chi phối của những yếu tố khách quan tác động. Đầu tiên, đó là văn
cảnh thẩm mỹ, tức là những biểu tượng, hình ảnh liên quan về mặt hình thức, cái
đẹp. Vốn được coi là những văn cảnh nghệ thuật nói chung, với các phương tiện
sáng tạo văn bản, khi tiếp cận văn bản, người đọc có thể cảm nhận được tính
thẩm mỹ và phong cách thời đại mà tác giả đã kế thừa hay lựa chọn. Tiếp theo là
những điều kiện văn hóa và kinh tế xã hội của việc tạo lập và tiếp nhận văn bản
đó. Trong một văn bản, tất cả hình tượng, ngơn ngữ, ý nghĩa đều mang dấu ấn
của văn hóa và xã hội. Với những tác phẩm văn học giai đoạn 1930- 1945, với
một tình hình đất nước khó khăn, chìm đắm trong nạn đói và sự bóc lột của tầng

lớp thống trị về sưu thuế. Nhân dân phần số đơng là dân trí thấp, mù chữ, nghèo
đói, bị kìm kẹp về vật chất và tinh thần, nên chính vì vậy các yếu tố về ngơn ngữ,
hình ảnh, tư duy cũng bị ảnh hưởng tới điều đó. Thứ ba là các bối cảnh gắn với
lịch sử cá nhân, sự diễn giải và ý nghĩa của nó đối với người viết như một cá
nhân lẫn một chủ thể sáng tạo. Điều này thể hiện rõ nhất đối với các nhà văn, nhà
thơ có cuộc đời đầy sóng gió và biến cố. Họ ln thể hiện bóng dáng lịch sử cá
nhân của mình trong các văn bản, tạo ra một khía cạnh tìm hiểu cho người đọc

11


khi tiếp cận văn bản của họ. Ví dụ khi tiếp cận tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” của
nhà thơ Hàn Mặc Tử, ta có thể thấy rõ về lịch sử cá nhân ở đây. Cuộc gặp gỡ với
người con gái xứ Huế Hồng Thị Kim Cúc đã khiến ơng để nhớ để thương.
Nhưng sau đó ơng mắc bệnh phong và điều trị bệnh ở Quy Nhơn. Vào một ngày
đẹp trời, ơng nhận được tấm bưu ảnh có hình thơn Vĩ Dạ kèm theo mấy lời hỏi
thăm của Hoàng Thị Kim Cúc- người con gái mà ông đã yêu bằng một tình u
đơn phương vơ vọng và ơng đã sáng tác tác phẩm ấy. Tác phẩm ấy đã mang đậm
dấu ấn về lịch sử cá nhân của tác giả. Cuối cùng, cũng quan trọng nhất, là sự ảnh
hưởng của những nền văn hóa phụ, giai cấp, chủng tộc, phái tính, khu vực, tạo
nên một hệ thống thái độ, nhận thức, nhãn quan và biểu tượng riêng. Hơn nữa,
bốn loại văn cảnh đó khơng tách biệt mà ln đan xen với nhau trong suốt quá
trình sống cũng như sáng tác của người viết, và khơng phải tồn bộ chúng đều
được thể hiện theo nhận thức tường minh, mà có một số chỉ hiển lộ qua những
yếu tố hàm ẩn, mơ hồ, đa nghĩa. Do có nhiều sự chi phối nên mọi ý tưởng ban
đầu của nhà văn sẽ không bao giờ được ấn định một cách trọn vẹn vào trong
tác phẩm theo đúng với ý tưởng ban đầu mà qua sự chi phối ít nhiều của các
văn cảnh, khi thực sự bước vào tiến trình tạo lập, văn bản đều phần nào lệch
hướng và được cung cấp những cấu trúc hoàn tồn mới lạ, tự do. Trong q
trình lựa chọn những kết hợp của trục biểu đạt, các ý tưởng ban đầu của tác giả

không ngừng bị chi phối, ý tưởng này lại sản sinh ra những liên tưởng khác và
cứ thế bội sinh lên những ngữ nghĩa mới lạ mà chính tác giả khơng lường trước
được. Khơng chỉ có tác giả khơng kiểm sốt được mà chính người viết cũng
khơng thể dự đoán hay kiểm soát trường liên tưởng tồn tại trong văn bản do
chính mình tìm tịi, ghép các mảnh nghĩa. Chính vì vậy, ngơn ngữ đóng một vị
trí quan trọng trong việc tạo lập văn bản thông qua ý thức của người viết hay
tác giả. Trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, bà cũng luôn bị chịu
ảnh hưởng của bốn loại văn cảnh đó. Hồ Xuân Hương ln biết tiếp thu tinh
hoa văn hóa của dân tộc, những nét đẹp trong văn hóa dân tộc, tuy nhiên, các

12


sáng tác của bà cũng chịu ít nhiều về hồn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa của thời
đại bà sinh sống. Và một điểm đặc biệt nữa là Hồ Xn Hương có một cuộc đời
khơng bằng phẳng, hai lần lấy chồng làm lẽ. Điều này cũng ảnh hưởng sâu sắc
đến các tác phẩm của bà.
Người đọc, người tiếp nhận hay độc giả là một trong những nhân tố chủ
đạo của quá trình diễn giải và giải mã trong văn học. Người đọc, theo Từ điển
thuật ngữ văn học, là “cá nhân thông qua hành vi đọc mà tham gia vào đời sống
xã hội. Trong lý luận tiếp nhận, khái niệm người đọc có các nội dung sau: 1)
Người đọc thực tế bao gồm người đọc thông thường và người đọc chuyên nghiệp;
2) Người đọc trong quan niệm được chia làm hai loại. Người đọc với tư cách là
đối tượng của ý hướng và người đọc hàm ẩn” [5; tr.45-46]. Những khái niệm
này đã được làm rõ trong lý luận văn học hiện đại. Cho đến giai đoạn hậu hiện
đại, vị thế người đọc càng được nâng cao, tâm lý đọc được đào sâu phân tích. Có
thể nói, sự khám phá kĩ lượng đặc tính và việc phát hiện vai trị của độc giả đối
với q trình tạo nghĩa cho văn bản cũng là một trong những bước ngoặt quan
trọng của lý thuyết liên văn bản.
Có thể thấy, trong bối cảnh “tác giả đã chết”, đã đánh mất sự quyết định

về ranh giới giữa văn bản và liên văn bản, thì chính độc giả là chủ thể xác lập
ranh giới ấy. Vì so với một cá nhân người viết với thế giới quan, thì người đọc,
với tư duy và khả năng nghiên cứu, lĩnh hội của mình đã đủ sức mạnh để mở ra
và tạo dựng nên yếu tính liên văn bản của chính văn bản đó. Ý tưởng này đã được
R.Barthes khai triển: “sự cáo chung vai trò chủ quyền của tác giả cũng là sự ra
đời của người đọc và vận mệnh của một văn bản không phải tùy thuộc vào xuất
xứ mà được xác định bởi đích đến của nó: người đọc” [24; tr.148]. Độc giả, có
thể nói, là người đã giải phóng năng lượng liên văn bản bởi lẽ. liên văn bản không
tồn tại dưới dạng tường minh công khai mà luôn luôn tiềm tàng giữa những
khoảng trống và dưới mỗi mạch ngầm của một tập hợp các chuỗi ngữ nghĩa kí
hiệu trong văn bản. Như vậy, người đọc đã được xác lập rõ vai trò của đồng đẳng

13


và độc lập trong văn bản. Chủ thể ấy tiếp nhận ý nghĩa gửi gắm từ văn bản, nhưng
đồng thời, cũng là một thành tố khi lĩnh hội, cảm thụ được ý nghĩa đó, và tác
nhân tham gia trực tiếp vào quá trình tạo nghĩa cho văn bản. Trong khoảnh khắc
tiếp cận, người đọc không chỉ đồng sáng tạo nên văn bản, mà thực chất, còn tự
do sáng tạo nên các diện mạo đa dạng và phong phú của văn bản, bằng điều kiện
văn hóa, nguồn nhận thức, điều kiện triết học, văn cảnh, nói cách khác, là các
cách đọc mà đối tượng ấy bị chi phối, hoặc kế thừa, lựa chọn.
Như R. Barthes viết, “Mọi văn bản đều là liên văn bản đối với một văn
bản khác, nhưng không nên hiểu tính liên văn bản này theo kiểu là văn bản có
một nguồn gốc nào đó; mọi sự tìm kiếm “cội nguồn” và “ảnh hưởng” là phù hợp
với huyền thoại về quan hệ huyết thống của tác phẩm, văn bản thì lại được tạo
nên từ những trích đoạn vơ danh, không nắm bắt được nhưng đồng thời lại đã
từng được đọc - những trích đoạn khơng để trong ngoặc kép”. Tức là theo R.
Barthes, bất kỳ văn bản nào cũng được hiểu như một khơng gian đa chiều, nơi
có rất nhiều văn bản va đập và xáo trộn vào nhau mà không một cái nào là gốc

cả. Mọi hiện tượng từ tác phẩm văn hóa, trên nhiều lĩnh vực của đời sống văn
học, triết học, kinh tế, chính trị, xã hội, các trích đoạn, cách ngơn cho đến một
cuộc đời, một quan niệm, một lối sống, một bản ngã,… đều có thể được xem như
một văn bản. Và chúng không ngừng lớn lên, chi phối lẫn nhau, cùng nhau để
sản sinh ra những hệ giá trị mới, những văn bản mới và những văn bản đó lại bội
sinh sự chi phối các văn bản khác.
Như trên đã chứng minh, văn bản không xác định một cách sắc nét giữa
các ranh giới, mặc dù các ranh giới cùng tồn tại nhưng ở trạng thái nhập nhằng.
Thứ nhất, đấy là ranh giới của các thể loại văn học và phi văn học, cũng như giữa
các thể loại văn học với nhau. Như đã phân tích, mạng lưới liên văn bản tiến
hành đánh đổ những quan điểm “duy nhất” của các hiện tượng trong đời sống,
đưa chúng vào đa nhãn quan. Hơn nữa, cảm thức liên thể loại trong sáng tạo văn
học đã và đang chi phối mạnh mẽ lối viết hậu hiện đại. Sự xâm lấn giữa văn xuôi

14


và thơ, giữa hình thức của truyện ngắn, truyện dài, sự liên kết các phương thức
biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, v.v, ngày càng phổ biến trong các
thực hành ngôn ngữ văn chương đương đại. Điều này kéo theo việc có nhiều văn
bản khơng xác định được rõ thể loại, thậm chí tạo ra một thể loại biến thể mới
rất độc đáo. Việc trộn lẫn giữa tư duy và hình thức sáng tác khác nhau đã cấu tạo
nên một văn bản đa cấu trúc. Thứ hai, nó cịn bao hàm cả sự hịa quyện những
thành tố bên ngoài và bên trong của các văn bản khác nhau. Đấy là mạng liên
văn bản luôn chi phối cấu trúc nội tại và ngoại tại của mọi văn bản văn học. Thứ
ba, ranh giới của các văn cảnh, ý thức cá nhân, vốn hiểu biết, hoàn cảnh lịch sử,
kinh tế, xã hội, điểm tựa triết học, diễn ngôn văn hóa và các nhân tố phụ như:
khu vực, phái tính, quy ước ngôn ngữ,… đều không được xác định rõ nét do
chúng tác động đồng thời, liên tục vào quá trình đọc và viết, tạo nên một diện
mạo mới văn bản. Thứ tư, ngay tại nút giao của các tuyến ngơn ngữ đó, sự phân

biệt giữa những cá nhân các tác giả cũng hịa trộn phức hợp, và khơng tồn tại
một tác giả cố định đối một văn bản nhất định, về bản chất và thậm chí cả hình
thức do sự hỗn hợp đa phương diện. Hơn nữa, sự liên đới, giao cắt và đan xen
giữa những ranh giới không chỉ dừng lại ở một số phạm trù nhất định, giới hạn
của nó khơng ngừng được mở rộng sang cả định mức về không - thời gian, về sự
minh định các khái niệm: người viết/sự viết, người đọc/sự đọc, ý nghĩa của văn
bản,… Mọi văn bản đều không xác định được bản thể, đều trong quá trình vận
động chuyển nghĩa liên tục. Văn bản không ở trạng thái tĩnh, luôn phụ thuộc
những yếu tố bên trong và bên ngồi, ln tồn tại các chỗ trống cần được bổ sung
cho hoàn chỉnh bằng sự tương giao của việc các văn bản hòa trộn và lúc ý thức
liên văn bản vận hành trong người viết lẫn người đọc.
Bên cạnh tác giả và độc giả tạo sự lập nên văn bản, văn bản, tự nó, cịn bộc
lộ tính giải cấu trúc, hay chính là tính phi trung tâm sâu sắc. Với năng lượng
tương liên mạnh mẽ như vậy, tất yếu văn bản, cũng như ngơn ngữ, đều có tính
đối thoại. Nội hàm một văn bản chứa trong nó vơ số các yếu tố cấu thành một

15


văn bản hồn chỉnh như tiếng nói, bản ngã, văn cảnh và hồi quang của hệ thống
diễn ngơn, nói cách khác, là những ý niệm, những mạnh vụn ngôn ngữ xuyên
không-thời gian gặp nhau tại một điểm hoặc đan xen lẫn nhau. Tuy nhiên, mặc
dù là nền tảng để tư duy về khái niệm, nhưng cần phân biệt giữa tính đối thoại
trong ý thức của Bakhtin với trong ý thức liên văn bản. Đối với Bakhtin, đối thoại
ln có tính tư tưởng, nó là những tác động giữa các giá trị của bối cảnh xã hội
và ý thức cá nhân. Trong khi đó, đối thoại theo tinh thần liên văn bản là việc tổng
hợp và biến cải các mã ngôn ngữ khi chuyển đổi giữa các hệ thống biểu tượng
khác nhau, các trường văn bản khác nhau. Như vậy, đối thoại của Bakhtin có tính
xã hội, cịn của liên văn bản có tính kí hiệu.
Về vấn đề ý nghĩa của văn bản, phương diện này bộc lộ tính đa tầng, không

cố định một ý nghĩa nhất định. Văn bản này được tạo ra từ ngữ cảnh hay ý nghĩa
của các văn bản kia và đồng thời cũng trở thành cơ sở để tạo lập cho các văn bản
khác. Văn bản hậu hiện đại đã vượt ra mọi định chế và quan niệm trước đây về
văn bản. Trong đó, cùng với tính đa tầng, là bản chất đa trị, đa nguyên và đa diện
được hình thành xuyên suốt trong quá trình liên kết và giải liên kết không ngừng
nghỉ của tác giả và độc giả. Tiềm năng về nghĩa của văn bản vì vậy mà ln phát
tán khắp mạng lưới liên ngôn ngữ, luôn di chuyển phức hợp xung quanh khoảng
trống, bên dưới mạch ngầm và tràn phủ trong không gian của các kết nối văn bản
khác. Có thể nói, hệ thống kí hiệu trong văn bản ln có khả năng dự báo và phác
thảo những gì rộng rãi và xa xơi hơn chính sự hiện diện ngun sơ của nó.
Có thể nói, là một tác giả trong thời kì trung đại nhưng Hồ Xuân Hương
lại được đánh giá là hậu hiện đại với những biểu hiện của liên văn bản ẩn sâu
trong lớp vỏ ngôn từ, mạng lưới liên kết ngữ nghĩa là đối thoại văn hóa dưới
nhiều tầng bậc.
1.1.2. Đối thoại và đối thoại văn hóa trong tác phẩm văn học

16


Đối thoại là một khái niệm rất quen thuộc và gần gũi. Theo cách hiểu thông
thường, đối thoại là sự trình bày, trao đổi với nhau về thơng tin hay một vấn đề
nào đó. Các yếu tố tạo nên đối thoại bao giờ cũng từ hai yếu tố trở nên. Chúng
ta vẫn thường hiểu đối thoại nó sẽ là một cuộc hội thoại giữa hai hay nhiều người,
bàn bạc về một vấn đề mà tất cả mọi người tham gia và cuộc hội thoại đó đều có
những hiểu biết nhất định trao đổi, tham góp ý kiến, bàn bạc tìm cách giải quyết.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu văn học, đối thoại theo cách hiểu từ lý thuyết
liên văn bản thì có rất nhiều điều đáng quan tâm. Bakhtin đã viết trong cuốn “Lý
thuyết liên văn bản”: “con người tạo dựng các mối quan hệ liên chủ thể thông
qua đối thoại, nhưng đối thoại khơng chỉ gói gọn trong hình thức tranh luận trực
tiếp. Kristva đã bỏ qua hai cấp độ đối thoại đầu có tính chất thực tiễn sinh tồn và

thống nhất biện chứng để tập trung khếch đại các cấp độ sau. Cấp độ đối thoại
thứ ba duy trì sự bình đẳng mãi mãi giữa các bên tham thoại. Nó cởi mở với mọi
kết quả có thể có. Nó không nhằm làm cho đối phương câm bặt. Sự im lặng của
chủ thể đối thoại ln kèm với cái nhìn chăm chú, mong chờ được lắng nghe.
Cấp độ đối thoại này mang tính đa bội, tính vơ hạn đa chiều. Chủ thể và khách
thể đối thoại không bị giới hạn, được vận động linh hoạt theo không gian và thời
gian.” [24,tr.47].
Theo cách hiểu của chúng tơi, đối thoại văn hóa trong các tác phẩm văn
học là sự trao đổi thông tin giữa văn hóa và văn học, giữa tác giả tác phẩm với
văn hóa dân tộc, tùy thuộc vào quan điểm của tác giả mà hình thành nên xu
hướng đối thoại. Xu hướng của đối thoại văn hóa được phân hóa thành 2 kiểu.
Một là xu hướng đối thoại về mặt hình thức đó là đối thoại trực tiếp và đối thoại
gián tiếp. Hai là xu hướng đối thoại về mặt nội dung và ý nghĩa đó là đối thoại
tương phản và đối thoại tương hỗ. Tức là trong đối thoại, tác phẩm văn học có
thể tán đồng hoặc đả kích với văn hóa dân tộc.
Theo chúng tơi, khi đọc các tác phẩm văn học ta thấy bóng dáng của văn
hóa trong đó. Đây dường như là một điều tất yếu khi văn học là một bộ phận

17


trong hệ thống văn hóa. Đối thoại văn hóa trải qua thời gian ngày càng đậm nét
trong các tác phẩm văn học, khác hồn tồn so với trước khi tìm hiểu một tác
phẩm văn học ln tập trung tới khía cạnh nội dung và nghệ thuật. Đối thoại văn
hóa trong các tác phẩm văn học ln có cả phạm vi rộng và phạm vi hẹp. Có
những tác phẩm văn học chỉ đối thoại một nét rất nhỏ trong văn hóa của một giai
đoạn rất ngắn nhưng cũng có những tác phẩm văn học đối thoại với văn hóa
chung cho cả một thời kì và thậm chí cịn có sức lan tỏa rộng khắp với văn hóa
của nhiều quốc gia, dân tộc và có sức ảnh hưởng tới thời đại mới. Như vậy, vấn
đề đối thoại văn hóa trong văn học luôn như một mảnh đất thâm canh mà rất

nhiều người nghiên cứu muốn “cày xới” và tìm hiểu về vấn đề này. Bởi lẽ khi đi
sâu tìm hiểu về đối thoại văn hóa, chúng ta khơng chỉ hiểu sâu sắc về thông điệp,
ý nghĩa mà tác giả gửi gắm qua tác phẩm mà chúng ta còn hiểu thêm về những
nét văn hóa có thể là thời điểm mà các tác giả sống, cũng có thể là sự hồi niệm,
sự trân trọng các giá trị văn hóa từ xa xưa của tác giả.
Như vậy, với chất liệu ngôn từ, với yếu tính của liên văn bản, một tác phẩm
văn học hay một hiện tượng văn học có giá trị thường tạo ra đối thoại văn hóa đa
thanh điệu, đối thoại văn hóa trong thơ Nơm truyền tụng của Hồ Xn Hương là
một ví dụ điển hình.
1.2. Vài nét về cuộc đời và thơ Nôm của Hồ Xuân Hương
1.2.1. Vài nét về thi sĩ Hồ Xuân Hương
Trong nền văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là nữ thi sĩ với những hiện
tượng rất đặc biệt, không chỉ trong nội dung và nghệ thuật sáng tác mà ngay cả
trong tư duy sáng tác của Hồ Xuân Hương vẫn còn là những vấn đề đặc biệt, nếu
tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu sẽ tìm ra rất nhiều điểm mới và độc đáo. Riêng về
cuộc đời riêng tư của nhà thơ, cho đến nay vẫn chưa thể xác định một cách chính
xác, vẫn cịn là những dấu hỏi mà các nhà nghiên cứu vẫn đang trong quá trình
tìm hiểu.

18


Cho đến nay, qua q trình nghiên cứu đã có rất nhiều những tư liệu văn
học và qua những nguồn thư tịch (tuy chưa có cơ sở chắc chắn), nhưng các nhà
nghiên cứu của nhiều thế hệ đã lắp ghép những nguồn tài liệu nghiên cứu để tạo
nên hình dáng cuộc đời của nhà thơ, mặc dù giữa họ cũng có những luồng tư
tưởng khác nhau song cũng đã có nhiều điểm tương đồng tạo nên một nguồn tài
liệu chung để tham khảo.
Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xn Hương thì bà là con ơng
Hồ Phi Diễn (sinh 1704) ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông

thi đậu tú tài năm 24 tuổi dưới triều Lê Bảo Thái. Do điều kiện gia đình khó khăn,
khơng thể tiếp tục học, ông ra dạy học kiếm sống ở Hải Hưng, Hà Bắc. Tại đây
ông đã lấy một cô gái họ Hà, người BắcNinh làm vợ lẽ và Hồ Xuân Hương ra
đời là kết quả của mối tình dun đó. Nhưng theo một tài liệu mới được cơng bố
(trên tạp chí Văn học số 10-1964) của nhà nghiên cứu văn học cố giáo sư Trận
Thanh Mai, thì Hồ Xn Hương có cùng q qn, nhưng là con ơng Hồ Sĩ Danh
(1706-1783), em cùng cha với Hồ Sĩ Đống (1738-1786). Trước khi nữ sĩ chào
đời, gia đình thầy đồ Diễn dọn về ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận (gần
Hồ Tây - Hà Nội bây giờ). Lúc Hồ Xuân Hương đã lớn, gia đình về thơn Tiên
Thị, Tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương (nay là phố Lý Quốc Sư - Hà Nội). Khi
đến tuổi thành niên, Hồ Xuân Hương có một ngơi nhà riêng dựng gần hồ Tây,
lấy tên là Cổ Nguyệt đường.
Hiện nay, Hồ Xuân Hương không rõ năm sinh, năm mất, chỉ xác định
được khoảng thời gian bà sinh sống, và thời đại bà sinh sống. Tuy nhiên, dựa
theo khoảng thời gian và thời đại bà sinh sống, về con người Hồ Xuân Hương có
những điều rất đặc biệt. Trong ý niệm của tất cả chúng ta, khác với những cái tên
như Đoàn Thị Điểm, Bà huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương là một người phụ
nữ không tuổi, không bao giờ già. Cuộc đời của Hồ Xuân Hương gắn liềnvới đời
thơ của bà. Mỗi một giai đoạn lịch sử cá nhân, bà đều phản ảnh trong các tác
phẩm thơ , đặc biệt là thơ Nôm. Do không rõ về thời gian cụ thể, nhưng nhờ có

19


×