Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài tập cuối kì môn tố tụng dân sự Hòa giải vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.1 KB, 12 trang )

Họ tên: Hoàng Hữu Phúc

Lớp: K17G

Mã sinh viên: K17GCQ012

Đề bài: Hòa giải vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện.
A. Các quy định của pháp luật về hòa giả vụ án dân sự
I. Khái quát chung về hoạt động hòa giải trong vụ án dân sự
Trong cuộc sống hàng ngày, việc tranh chấp dân sự là điều khó có thể tránh khỏi. Khi
những tranh chấp xảy ra , hai bên có tranh chấp khơng thể ngồi lại đàm phán với nhau họ
sẽ tìm đến Tịa án để địi lại lợi ích cho riêng mình. Lúc này các đương sự và tòa án sẽ
phát sinh một loạt các hành động pháp lý để giải quyết vấn đề. Và trong đó khơng thể
thiếu được hoạt động hịa giải. Hịa giải là một cơng việc diễn ra sau khi tịa án thụ lý vụ
án, lúc này tịa án đóng vai trị trung gian, giúp các bên ngồi lại với nhau, bàn lại với
nhau, giải thích các quy định của luật về vấn đề mà các bên đang tranh chấp. Hoạt động
này được gọi là hòa giải VADS. Thực chất của vấn đề đây là một trong những khâu đầu
tiên trước khi bước vào giai đoạn tố tụng nhằm cho các bên tranh chấp tự thỏa thuận lại
với nhau về cách thức giải quyết mâu thuẫn, trnah chấp. Trong giai đoạn này quyền tự
quyết của các bên được tôn trọng và ghi nhận, có giá trị tương đương với phán quyết của
tịa. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng ghi nhận và quy định rõ trách nhiệm của Tòa
án trong giai đoạn này, cụ thể ở điều 10. Tòa án ở đây giữ vai trò trung gian vừa tiến hành
hòa giải, đồng thời có trách nhiệm tạo mọi điều kiện để các bên tiến hành hòa giải.
-> Hòa giải vụ án dân sự là một hoạt động pháp lý trong quá trình tố tụng dân sự nhằm
giải quyết tranh chấp với sự tham gia của Tòa án giữ vai trò giúp các đương sự thỏa thuận
giải quyết các tranh chấp của mình.
II. Đặc điểm, vai trị của hịa giải vụ án dân sự
1. Đặc điểm của hòa giải vụ án dân sự
- Hoạt động hịa giải mang tính tự nguyện, thỏa thuận của các bên
Nếu xét trong cả q trình hịa giải chúng ta ln thấy có sự tham gia của tịa án , nhưng
nhìn thực tế thì tịa án ở đây chỉ đóng vai trị trung gian, tổ chức và tạo điều kiện để các


bên tiến hành thỏa thuận tự quyết định với nhau về quyền lợi ích. Việc quyết định hồn
tồn do các bên đưa ra mà khơng có sự can thiệp tác động nào từ tòa án. Mọi sự tác động
từ tịa án và những người bên ngồi thì sẽ bị coi là trái pháp luật và sẽ khơng có giá trị
pháp lý.

1


- Hòa giải vụ án dân sự trong tố tụng dân sự phải có sự tham gia của tịa án giữ vai trò
trung gian, là cầu nối giúp các bên tự thỏa thuận với nhau
Tịa án giữ vai trị khơng thể thay thế trong hòa giải vụ án dân sự bởi tòa án là cơ quan sẽ
mở ra phiên hòa giải, là người tổ chức, bố trí sắp xếp về thời gian, địa điểm, triệu tập các
bên tham gia hòa giải, phân tích nội dung, giải thích pháp luật, thống nhất lại nội dung mà
2 bên tranh chấp để các bên hiểu rõ quyền, lợi ích của mình mà đưa ra những quyết định
sáng suốt nhất.
- Hòa giải vụ án dân sự phải được tiến hành theo thủ tục được luật tố tụng dân sự quy
định
Hòa giải vụ án dân sự được pháp luật quy định như một nội dung bắt buộc trước khi tiến
hành mở phiên tòa sơ thẩm. Hoạt động hòa giải được quy định cụ thể tại chương XIII Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015. Việc quy định pháp luật liên quan đến hòa giải vụ án dân
sự góp phần bảo đảm cho hoạt động hịa giải diễn ra một cách hiệu quả, dễ dàng đồng thời
bảo đảm tính khách quan, cơng bằng, bình đẳng của các đương sự trong quá trình giải
quyết vụ án.
2. Vai trò của hòa giải
- Mang lại hiệu quả lớn về thời gian, chất lượng trong quá trình tố tụng
Như chúng ta biết việc tiến hành mở phiên tòa tố tụng rất phức tạp, vi vậy nếu các bên
có thể hịa giải sẽ giúp Toà án sớm kết thúc việc giải quyết VADS, tránh được những phức
tạp trong giải quyết VADS và giúp các đương sự thỏa thuận giải quyết VADS, tránh được
việc kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại. Bên cạnh đó, việc hịa giải VADS thành cịn giúp
cho việc thi hành án được thuận lợi do nhiều vụ án, nếu càng kéo dài thời gian thì tài sản

khó có thể được thu hồi hoặc khơng cịn ngun vẹn, điều này làm ảnh hưởng lớn đến lợi
ích của đương sự. Kể cả trong trường hợp hồ giải VADS khơng thành thì qua hoà giải vụ
án dân sự thẩm phán cũng nắm rõ yêu cầu, quan hệ tranh chấp giữa các đương sự, tình tiết
của vụ án dân sự, hiểu rõ hơn tâm tư, nguyện vọng, tình cảm và những khúc mắc của
đương sự, từ đó có thể đưa ra định hướng giải quyết vụ án dân sự được đúng đắn.
- Mang lại hiệu quả về kinh tế trong hoạt động tố tụng
Thực tế cho thấy, khi diễn ra một phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự sẽ tốn rất nhiều tiền
của, kinh phí để tổ chức giữa các bên: từ kinh phí của tịa án cho tới kinh phí của các
đương sự. Việc vụ án được chấm dứt ngay sau khâu hịa giải góp phần giúp các bên tiết
kiệm thời gian, tiền bạc, chi phí đi lại bởi khơng phải vụ án nào các đương sự cũng gần
trụ sở nơi tịa án xét xử. Ví dụ: có vụ án ly hôn người chồng ở Hà Nội, người vợ ở Thành
2


phố Hồ Chí Minh, Tịa án nhân dân một huyện Hà Nội xét xử nếu hịa giải khơng thành
thì người vợ có thể phải đi lại 3 hoặc 4 lần rất tốn kém cho các đương sự.
III. Hòa giải vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
1. Nguyên tắc tiến hành hòa giải
Tại khoản 2 điều 205 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã quy định rất rõ nguyên tắc tiến
hành hòa giả là:
“ Việc hòa giải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe
dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận khơng phù hợp với ý chí của
mình;
b) Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội.”
Xuất phát từ mục đích của hồ giải vụ án dân sự là nhằm giúp các đương sự tự thỏa thuận,
giải quyết trước khi đưa ra xét xử. Các nhà làm luật coi việc thỏa thuận như là một giao
dịch dân sự nên quy định khi hoà giải, Toà án phải tôn trọng sự tự nguyện thoả thuận của
cá đương sự, không được dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận khơng phù

hợp với ý chưa của mình, nội dung thoả thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội. Nhìn chung các nguyên tắc này khá là phù hợp với
quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo diều 117 Bộ luật dân sự 2015.
Lại một lần nữa nguyên tắc này làm rõ hơn vai trò của tòa án như một bên trung gian làm
cầu nối cho cơng tác hịa giải chứ khơng hề có vai trị quyết định kết quả giải quyết hịa
giải.

Hạn chế của những nguyên tắc này là việc quy định vẫn còn chung chung chưa làm rõ
được thế nào là tôn trọng sự thỏa thuận, những vấn đề phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện
từ khi chuẩn bị hòa giải cho đến khi hòa giải thành cũng như chưa đề cập trách nhiệm của
thẩm phán chủ trì hịa giải. Một số vụ việc thẩm phán làm chưa hết trách nhiệm dẫn đến
đương sự chưa hiểu rõ quyền, nghĩa vụ của mình làm cơng tác hịa giải trở nên hình thức
và tạo thêm khó khăn cho cơng tác xét xử về sau.
2. Chủ thể tham gia vào hoạt động hòa giải vụ án dân sự
2.1. Tòa án

3


Trong hoạt động của tòa án ở giai đoạn này chúng ta thấy xuất hiện hai đối tượng là chủ
thể sẽ tiến hành hòa giải , tổ chức và điều hành hoạt động hòa giải giữa các đương sự.
Theo điểm a, b khoản 1 điều 209 đó là thẩm phán chủ trì phiên họp và thư kí tịa án ghi
biên bản phiên họp. Quyền và trách nhiệm của thẩm phán chủ trì phiên họp được luật quy
định tại khoản 7 điều 48 Bộ luật Tố tungj dân sự năm 2015:
“Điều 48. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
7. Tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hịa giải,
ra quyết định cơng nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định của Bộ luật này.”
Như vậy, mặc dù không phải người quyết định thỏa thuận nhưng thỏa thuận của các
đương sự chỉ có hiệu lực khi có một quyết định cơng nhận của thẩm phán tiến hành hoạt
động hịa giải. Chính điều này góp phần thể hiện vai trị trung gian và khơng thể thiếu của

tịa án trong hịa giải vụ án dân sự.
Ngồi thẩm phán chủ trì phiên hịa giải, thư ký toà án ghi biên bản phiên hoà giải cũng
phải ghi biên bản hoà giải theo đúng quy định tại điều 211 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và
phải chịu trách nhiệm về việc ghi biên bản hoà giải của mình.
2.2. Các bên tham gia hịa giải
Tất cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến tranh chấp đều là đối tượng được tòa
án tổ chức tham gia vào buổi hịa giải.
- Các bên buộc phải có trong buổi hòa giải là: đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của
đương sự( nguyên đơn, bị đơn, ngoài ra tùy từng vụ án sẽ có người có quyền, nghĩa vụ
liên quan).
- Một số vụ án sẽ có sự xuất hiện của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự,
người phiên dịch, người làm chứng…
Theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 là những
người không thể thiếu trong phiên hòa giải, vắng những người này thì phiên hịa giải bị
coi là vi phạm và khơng có giá trị pháp lý. Các vụ án về ly hơn và gia đình, tùy theo tình
tiết từng vụ án mà có thể sẽ có sự tham gia của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, trẻ
em hay Hội Liên hiệp phụ nữ.
3. Phạm vi hòa giải của các vụ án dân sự
3.1. Những trường hợp buộc phải thơng qua hịa giải
Điều 205. Ngun tắc tiến hành hịa giải
4


1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương
sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án khơng được hịa giải
hoặc khơng tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này
hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.
Theo cách quy định tại điều 205 này thì ta thấy nhà làm luật khơng liệt kê ra cách trường
hợp phải hịa giải, mà nêu một cách chung chung theo phương pháp loại trừ. Những
trường hợp sẽ khơng tiến hành hịa giải nằm ở điều 206, 207 Bộ luật Tố tụng dân sự. Với

cách loại trừ này thì hầu như các vụ án đều nằm trong diện được tòa án mở phiên hòa giải
trước khi bước vào giai đoạn tố tụng tiếp theo, chỉ một số ít là ngoại lệ.
Như vậy, các tranh chấp dân sự nào thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án theo điều 26,
28, 30. 32 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì bắt buộc sẽ xuất hiện hoạt động hòa giải của
tòa án, ngoại trừ những vụ án ko hịa giải được hoặc khơng được hịa giải theo điều 206,
207 Bộ luật Tố tụng dân sự, và một số ít vụ giải quyết theo thủ tục rút gọn
Việc quy định như vậy góp phần nâng cao vai trị của hòa giải, tạo điều kiện cho các
đương sự tự thỏa thuận quyết định lại tranh chấp của mình, đồng thời giảm bớt phiền hà,
tốn kém do thủ tục tố tụng gây nên.
3.2. Những trường hợp không được tiến hành hòa giải
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã nêu ra những trường hợp cho dù đương sự có đồng
ý thỏa thuận, đàm phán với nhau thì tịa án vẫn khơng được tiến hành hịa giải. Đó là
những trường hợp quy định theo điều 206 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
“ Điều 206. Những vụ án dân sự khơng được hịa giải
1. u cầu địi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
2. Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức
xã hội.”
Sở dĩ có những quy định này vì ngay từ đầu chúng ta phân tích đã thấy, các nhà làm luật
coi việc hòa giải như một thỏa thuận dân sự của các bên, mà đã thỏa thuận dân sự thì nó
phải theo tinh thần của Bộ luật dân sự 2015 là không được trái với điều cấm của luật hoặc
đạo đức xã hội. Việc cho tịa án có quyền đứng ra tổ chức hòa giải những trường hợp
tranh chấp phát sinh từ giao dịch vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội chả khác
nào là sự chấp nhận cái sai, cái trái đạo đức xã hội. Như vậy, vai trò của pháp luật trong
đời sống xã hội khơng cịn được coi trọng.
Ngồi ra ở khoản 2 điều 206 này ta còn bắt gặp trường hợp nữa là tịa án sẽ khơng hịa
giải những u cầu địi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản nhà nước. Sở dĩ có
5


nguyên tắc này là vì tài sản nhà nước được cho là tài sản chung toàn dân, là tài sản được

bảo vệ hàng đầu nên khi đã có hành vi vi phạm xâm hại đến tài sản này thì đều phải bồi
thường theo quy định với thủ tục chặt chẽ được pháp luật quy định, ngồi ra cịn có thể bị
xử phạt vi phạm hành chính. Khơng có ai có thẩm quyền đứng ra như một chủ thể có
quyền đại diện để đàm phán về việc đền bù thiệt hại. Tuy vậy, quy định này còn một số
điểm bất hợp lý ở cụm từ tài sản nhà nước, bởi xuyên suốt trong quy định của Bộ luật dân
sự về sở hữu chúng ta khơng thể tìm thấy cụm từ sở hữu nhà nước, vì vậy cụm từ tài sản
nhà nước được sử dụng ở đây là chưa thực sự thích hợp.
3.3. Những trường hợp khơng tiến hành hịa giải được
Xét về bản chất đây là những vụ án trong diện buộc phải đưa ra hịa giải nhưng vì lý do
nào đó mà các đương sự khơng tham gia hịa giải hoặc khơng đồng ý tiến hành hịa giải
dẫn đến việc hịa giải khơng diễn ra được. Những trường hợp khơng có sự xuất hiện của
các bên tại phiên hịa giải có thể xuất phát từ những yếu tố khách quan hoặc chủ quan.
Yếu tố khách quan là: trường hợp đương sự gặp lý do bất khả kháng, chính đáng hoặc
khơng chính đáng dẫn đến được tịa triệu tập lần 2 mà vẫn vắng mặt, đương sự là người
mất năng lực hành vi dân sự. Cịn lý do chủ quan có thể do các bên, một trong các bên cố
tình vắng mặt khi được triệu tập hay có đề nghị khơng tiến hành hòa giải. Căn cứ để tòa
xem xét ra quyết định khơng tiến hành hịa giải được quy định tại điều 207 của Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015.
4. Thủ tục tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật
4.1. Thơng báo về việc mở phiên hịa giải
Nội dung thông báo, đối tượng thông báo được bộ luật Tố tụng dân sự quy định cụ thể tại
điều 208, một số trường hợp đặc biệt như sự tham gia của cơ quan quản lý nhà nước về
gia đình, trẻ em cũng được nhắc đến tại khoản 3 của điều này. Đối với các trường hợp
khơng tiến hành hịa giải được hay khơng được hịa giải thì khơng cần tiến hành hòa giải
mà chỉ tiếp cận, giao nhận chứng cứ.
Nội dung chính của hoạt động hịa giải trong giai đoạn này là thẩm phá sau khi thụ lý sẽ
mở một phiên họp để kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận chứng cứ và tiến hành tham khảo
giải thích các quy định của pháp luật, làm rõ những tình tiết yêu cầu của đương sự, sau đó
hỏi ý kiến và ghi nhận ý kiến về kết quả quyết định của các bên. Giai đoạn này thực chất
là việc thông báo để các đương sự có chuẩn bị kĩ càng chứng cứ tài liệu, xác định lại mục

đích yêu cầu, cũng như để họ có thời gian tham khảo ý kiến nhằm tạo ra kết quả thương
lượng thỏa mãn nhu cầu của tất cả các bên.
4.2. Thành phần tham gia hòa giải
6


Theo quy định tại điều 209 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì những người tham dự phiên
hịa giải gồm:
- Thẩm phán giữ vai trị chủ trì, điều hành trực tiếp phiên hòa giải để các bên thỏa thuận
- Thư kí Tịa án là người có nhiệm vụ ghi biên bản nội dung cuộc họp
- Đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự là người quyết định nội dung và
sự thành công, thất bại của buổi hịa giải đó.
- Ngồi ra, tùy từng vụ án dân sự mà có có thể có sự tham gia của người bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự, người phiên dịch, đại diện tập thể người lao động…
Trong vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt
vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc tiến hành phiên họp đó khơng ảnh hưởng đến
quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các
đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hỗn phiên hịa giải để có mặt tất cả các
đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hỗn phiên họp. Thẩm phán phải thơng báo việc
hỗn phiên họp và việc mở lại phiên họp cho đương sự.
5. Kết quả của phiên hòa giải trong vụ án dân sự
5.1. Trường hợp hòa giải thành
Trong trường hợp phiên hòa giải diễn ra thuận lợi, các bên đồng ý thỏa thuận với nhau về
nội dung tranh chấp, quyền nghĩa vụ mỗi bên thì theo quy định điều 212 Bộ luật Tố tụng
dân sự 2015 sẽ có những hướng giải quyết sau:
- Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hịa giải thành mà khơng có đương sự nào
thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hịa giải hoặc một Thẩm
phán được Chánh án Tịa án phân cơng phải ra quyết định cơng nhận sự thỏa thuận của
các đương sự.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của

các đương sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
- Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương
sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
- Trong trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 210 của Bộ luật này mà các đương sự có
mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó chỉ có giá trị đối
với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh
hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh
hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và
7


được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải
đồng ý bằng văn bản.
5.2 Trường hợp hịa giải khơng thành
Trong q trình hòa giải, nếu các đương sự bất đồng sâu sắc về ý kiến, khơng thỏa thuận
nội dung và lợi ích của các bên để đi đến ý kiến chung nhất về việc giải quyết tranh chấp
thì tức là phiên hịa giải đã diễn ra không thành. Lúc này căn cứ vào điều kiện thực tế, nếu
khơng có căn cứ để đình chỉ hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ án thì tịa án sẽ lập biên bản
hịa giải khơng thành và tiếp tục đưa vụ án ra xét xử ở giai đoạn tiếp theo.

B. Thực tiễn cơng tác hịa giải vụ án dân sự hiện nay
1. Thực trạng và hiệu quả của cơng tác hịa giải vụ án dân sự hiện nay
1.1. Điểm tích cực của cơng tác hịa giải vụ án dân sự trong những năm gần đây
- Nhìn chung trong những năm gần đây, cơng tác hịa giải trong giải quyết vụ án dân sự đã
được chú trọng và thu được những hiệu quả nhất định. Tỉ lệ các vụ án hịa giải thành đã
có sự tăng về số lượng.
Theo thống kê của TANDTC, trong những năm qua, tỷ lệ hòa giải trong giải quyết các vụ
án dân sự của Tịa án cũng đã có nhiều điểm tích cực, trung bình hàng năm đạt 50% số vụ
án dân sự phải giải quyết và cá biệt có những Tịa án, tỷ lệ này đạt tới 60-70%. Tỷ lệ này
nhìn chung là khơng thấp và có nhiều chuyển biến so với giai đoạn trước. Tình trạng này

do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân chủ yếu là: chức năng chính
của Thẩm phán là xét xử. Ngồi ra, khi hòa giải, Thẩm phán gặp phải những hạn chế nhất
định về quyền hạn, kỹ năng; khơng ít Thẩm phán chưa chú trọng đúng mức đến cơng tác
hịa giải, đối thoại; một số quy định về trình tự, thủ tục, thời hạn, địa điểm trong hòa giải,
đối thoại cứng nhắc, khơng linh hoạt...
- Chất lượng của các phiên hịa giải cũng có sự cải thiện, một phần do năng lực của thẩm
phán điều hành phiên hòa giải đã được cải thiện, một phần do trình độ, nhận thức của các
đương sự đã có sự nâng lên.
- Thủ tục tiến hành hòa giải được đảm bảo theo đúng quy định của luật, đồng thời công
bằng, tạo mọi điều kiện cho các đương sự dễ dàng tham gia để bảo vệ quyền, lợi ích của
mình.
1.2. Những hạn chế cịn tồn đọng trong cơng tác hịa giải
Mặc dù, cơng tác hịa giải trong những năm qua có nhiều thay đổi theo hướng tích cực,
tuy nhiên hoạt động này vẫn còn rất nhiều hạn chế cịn phải khắc phục đó là:
8


- Đa phần những vụ án được tiến hành hòa giải thành có tỷ lệ rất nhỏ đặc biệt là những
vụ án dân sự về tranh chấp đất đai. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong
đó có nguyên nhân chủ yếu là: chức năng chính của thẩm phán là xét xử nên kiến thức về
hòa giải như các hịa giải viên là khơng cao. Ngồi ra, khi hòa giải, thẩm phán gặp phải
những hạn chế nhất định về quyền hạn, khơng ít thẩm phán chưa chú trọng đúng mức đến
cơng tác hịa giải, đối thoại; một số quy định về trình tự, thủ tục, thời hạn, địa điểm trong
hịa giải, đối thoại cứng nhắc, khơng linh hoạt...
- Một số vụ án đã có quyết định cơng nhận sự thỏa thuận, hòa giải của các đương sự
nhưng các đương sự lại không tự giác thi hành nội dung hòa giải, dẫn đến phải tiến hành
cưỡng chế để thi hành án. Điều này vơ tình làm bản chất và tinh thần của cơng tác hịa
giải bị ảnh hưởng, tốn kém chi phí cho cơng tác thi hành án. Ngun nhân một phần là do
trong q trình hịa giải đã khơng có sự giải thích cặn kẽ của thẩm phán dẫn đến các bên
hiểu không đúng về nội dung của pháp luật, các đương sự cho rằng họ có sự nhầm lẫn.

- Thủ tục hòa giải, triệu tập đương sự cịn có sự rắc rối, dẫn đến phiền hà, khó khăn về
thời gian, địa điểm tham gia các phiên hòa giải của các đương sự.
- Một số quy định của luật về thủ tục hòa giải vụ án dân sự thì mang tính chung chung,
khó áp dụng trên thực tế. Điều đó dẫn đến lúng túng của thẩm phán trong giải thích luật.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho cơng tác hịa giải nhìn chung cịn thiếu thốn, chưa đảm bảo
được tính chun nghiệp, hiện đại trong cơng tác đối thoại, giải thích.
- Một số khác thì tiến hành hịa giải nhưng khơng đúng quy định của pháp luật do khơng
có sự tham gia đầy đủ của đương sự trong vụ án. Nhất là với những vụ án ly hôn, khi tài
sản chung đã được bán cho một người hay mua chung với người thứ 3 nhưng tòa án lại
không triệu tập người thứ 3 này với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Nhiều vụ án thì tịa án lại lúng túng, khơng xác định được phạm vi, tư cách, quyền hạn
của những người được đương sự ủy quyền tham gia hòa giải dẫn đến kết quả hòa giải bị
bác do vượt quá nội dung được đương sự ủy quyền.
- Khơng ít vụ án thì có dấu hiệu vụ lợi, khơng trong sáng của thẩm phán điều hành phiên
hòa giải dẫn đến kết quả hòa giải có lợi cho một bên đương sự, cũng vì thế mà nội dung
biên bản và quyết định công nhận sự thỏa thuận khơng có sự đồng nhất.
1.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác hịa giải trong giải quyết vụ án dân sự
- Hoàn thiện và sửa đổi các quy định của pháp luật về hòa giải trong tố tung dân sự chưa
phù hợp. Chẳng hạn Bộ luật Tố tụng dân sự cần quy định thêm nguyên tắc kiên trì, mềm
dẻo trong hoạt động hịa giải. Bởi vì thực tế cho thấy nhiều vụ án các thẩm phán tiến hành
hịa giải thiếu sự kiên trì, làm qua loa, cứng nhắc trong việc vận dụng luật dẫn đến các
9


đương sự khơng có hứng thú và thiện chí hịa giải. Ngồi ra có thể bổ sung thêm ngun
tắc tơn trọng và bảo đảm quyền, lợi ích của các đương sự nhất là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Hay như bổ sung các quy định trong luật và văn bản hướng dẫn thi
hành về những trường hợp hòa giải không thành.
- Củng cố, không ngừng bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ, cơng chức tịa án để họ
trở thành những người có kĩ năng hịa giải. Nhất là với thẩm phán trực tiếp tổ chức hòa

giải. Nâng cao năng lực phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của những người này để họ
vô tư trong sáng, làm việc nhiệt tình có trách nhiệm trong cơng tác hòa giải.
- Nghiên cứu cơ chế thi đua, khen thưởng, nâng cao năng lực thẩm phán, thư kí tịa án,
tăng cường vai trị của thư kí tịa án trong việc tiến hành hòa giải để tăng cường tỉ lệ hòa
giải thành, giảm số lượng các vụ phải đưa ra xét xử sau khi hòa giải.
- Áp dụng các biện pháp hiện đại, tiện lợi trong việc tống đạt văn bản liên quan trong hịa
giải, quyết định cơng nhận hịa giải của tòa án đến các đương sự nhằm rút ngắn thời gian,
tiết kiệm chi phí.
- Đầu tư phương tiện, cơ sở vật chất nhiều hơn cho hoạt động hòa giải, sao cho hoạt động
hòa giải trở lên hiện đại, hiệu quả hơn.
- Tăng cường tuyển truyền, giáo dục kiến thức pháp luật đối với người dân để họ nâng
cao hiểu biết, kiến thức về hòa giải, về pháp luật dân sự, tránh những tranh chấp khơng
đáng có do thiếu hiểu biết pháp luật. Trong trường hợp khơng may có tranh chấp xảy ra để
thì người dân hợp tác và chủ động hơn trong việc thỏa thuận, giải quyết tranh chấp tại các
phiên hòa giải do tòa tổ chức.

Hết!

10


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bài viết của tác giả Trần Quang Huy trên Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối
cao ( .
2. Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thúy tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
( )
3. Bài viết chuyên mục Luật Tố tụng dân sự của tác giả Trần Linh Chi trên diễn đàn
Hocluat.vn ( )
4. Giáo trình Luật Tố tụng dân sự của Đại học Luật Hà Nội.


11


12



×