Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN (TRIẾT học MAC LÊNIN 1) quan điểm của mác lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.73 KB, 19 trang )

Trường Đại Học Ngoại Thương Hà Nội
Khoa Lí luận chính trị

TIỂU LUẬN
Mơn: Ngun lí Mac – Lenin 1
Đề tài : Quan điểm của Mác-LêNin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con
người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.

Tên Sinh viên :
Lớp :
Giáo viên :


Hà Nội


Mục lục :

Phần :
Lời mở đầu
Chương I : Lý luận của chủ nghĩa Mác-LêNin về con người
I.1 Bản chất con người
I.2 Lý luận của chủ nghĩa Mác Lê Nin về con người
Chương II : Vấn đề con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nươc ta hiện nay.
II.1 Tính tất yếu khách quan của cơng nghiệp hóa, hiện

Trang
4
5
5


7
11
11

đại hóa
II.2 Mục tiêu con người trong Cơng nghiệp hóa- Hiện đại

12

hóa
II.3 Thực trạng và giải pháp cho vấn đề nguồn lực cho

14

con người ở nước ta hiện nay
Chương III : Tổng kết

16


Lời mở đầu
Khi đất nước ta bước vào thế kỉ 21, sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH,HĐH) vẫn còn đang dang dở. Trong bối cảnh các hệ thống xã hội chủ nghĩa tan
rã làm cho các tư tưởng tự do tìm kiếm con đường khả quan nhất cho sự phát triển của
Việt Nam dễ đi đến sự phủ nhận vai trò, khả năng của chủ nghĩa Mác-Lê Nin
Song khi ta nhìn nhận lại một cách khách quan và tồn diện, nhìn vào khả năng,
những gì đã đạt được, đang làm được và sẽ làm được của chủ nghĩa Mác-LêNin thì ta
khơng thể phủ nhận được sự nổi trội và triển vọng của nó trong sự nghiệp phát triển
con người trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Phát triển con người tồn diện, đây chính là động lực và cũng là mục tiêu nhân

đạo của sự nghiệp CNH, HĐH mà nước ta đang tiến hành. Ta không thể phủ nhận vai
trò quan trọng của nguồn lao động nước ta trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và
trong sự phát triển nền kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, theo cơ chế
thị trường. Nghị quyết ĐH Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định:
“Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là
nhân tố quyết định thắng lợi của cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Thực tế
đã chứng tỏ rằng nếu khơng có nguồn nhân lực chất lượng cao thì nên kinh tế của
chúng ta chưa thế thoát ra khỏi sự nghèo nàn và lạc hậu. Tuy nhiên với nền kinh tế
của chúng ta hiện nay thì khó có thể xây dựng một nguồn nhân lực chất lượng cao,
đáp ứng những yêu cầu thiết yếu để xây dựng đất nước. Để thốt khỏi vịng luẩn quẩn
này thì khơng thể khơng xây dựng một tầm nhìn chiến lược về con người, nâng cao
chất lượng của người lao động, trong đó, tư tưởng Mác-LeeNin chính là nền tảng xây
dựng nên tầm nhìn chiến lược đó.
Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em đã chọn đề tài tiểu luận:
“Quan điểm của Mác-LêNin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con
người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.”


Chương I : Lý luận của chủ nghĩa Mác-LêNin về con người.
1. Bản chất con người.
a. Các quan điểm về con người của các nhà Triết học trước Mác.
Từ xưa đến nay, trong những vấn đề được bàn cãi nhất trong giới triết học nói
riêng và trong nghiên cứu khoa học nói chung thì vấn đề con người ln được đưa lên
hàng đầu. Không những thế, đề tài con người được các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý.
Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là do con người là sinh vật cao cấp và
phát triển nhất trên trái đất. Trong quá trình lâu dài gần 5 tỉ năm của trái đất thì con
người mới xuất hiện được khoảng gần 300000 năm trước, tuy nhiên trong khoảng thời
gian đó con người với sự phát triển vượt bậc so với các lồi sinh vật khác và nhanh
chóng trở thành kẻ thống trị của thế giới.
Lĩnh vực Triết học là một trong những mơn khoa học đầu tiên của lồi người,

tuy nhiên, bản thân triết học luôn luôn thay đổi và đấu tranh khơng ngừng, chính vì
vậy mà ln ln có nhiều hướng giải quyết cho cùng một vấn đề. Do đó, vấn đề con
người từ xưa đến nay theo từng thời kì, từng các nhân mà có rất nhiều quan điểm khác
nhau. Theo phân tích của những nhà Triế học cổ đại thì con người là vật cao quý nhất
trong trời đất, trong vũ trụ, là chua tể của muôn loài và chỉ đứng sau thần linh. Chủ
nghĩa duy tâm và tơn giáo thì lại cho rằng: Phần hồn trong con người là do thượng đế
sinh ra, quy định và điều khiển mọi hành động của thể xác, linh hồn tồn tại mãi mãi,
khi thể xác mất đi thì hồn lại nhập vào thể xác khác và tiếp tục điều khiển thể xác đó.
Ngược lại với ý kiến trên thì chủ nghĩa duy vật lại coi phần xác là pần quyết định và
chi phối phần hồn, tất nhiên là chẳng có linh hồn nào bất tử cả. Đó chỉ là một số trong
rất nhiều nhận thức về con người. Theo thời gian thì các nhận thức về con người ngày
càng phát triển hơn và các nhà triết học đã ngày càng hoàn thiện nhận thức về bản
chất con người, phát triển và khắc phục những điểm bất hợp lí của các lí luận trước đó
. Đến thế kí XV – XVIII thì những quan điểm triết học về con người trên cơ sở tự
nhiên đã bắt đầu phát triển và chiếm ưu thế. Tuy nhiên những nhà triết học cổ điển
Đức từ Carter đến Hegel (Hê – ghen) đã xây dựng quan điểm triết học về con người
theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Trong đó Hegel quan niệm con người là hiện thân
của ý niệm tuyệt đối là con người ý thức và do đó đời sống con người chỉ được xem
xét về mặt tinh thần. Tuy nhiên Hegel cũng chính là người đầu tiên thơng qua việc


xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần mà phát hiện ra quy luật về sự phát
triển của đời sống tinh thần và cá nhân.
Đến thời Feuerbach thì ơng lại phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong
quan điểm của Hegel. Theo quan điểm của Feuerbach thì con người chính là một sản
phẩm của tự nhiên và có bản năng tự nhiên, ơng đã dùng những thành tựu của khoa
học để chứng minh mối liên hệ của tư duy với những quá trình vật chất diễn ra trong
cơ thể con người. Tuy nhiên sai lầm của Feuerbach là khi ơng giải thích con người
trong mối liên hệ cộng đồng thì Feuerbach lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy
tâm.

Nói chung lại từ Carter đến Feuerbach đã có một bước tiến dài trong việc tìm ra
bản chất của con người. Tuy nhiên trong lí luận của họ còn rất nhiều hạn chế, những
quan điểm về con người còn chưa đầy đủ và chặt chẽ, mang xu hướng duy tâm cá
nhân khá nhiều. Sau này, chủ nghĩa Mac đã kế thừa và khắc phục những hạn chế đó,
xây dựng một hệ thống quan niệm đầy đủ nhất về bản chất con người, vai trò của của
con người trong xã hội.
b. Bản chất của con người trong tự nhiên và xã hội.
Theo khoa học hiện nay đã chứng tỏ rằng con người là một sản phẩm của tự
nhiên theo q trình tiến hóa mà phát triển như ngày nay. Tuy con người đã vượt xa so
với những lồi sinh vật cịn lại nhưng con người vẫn khơng thể lột bỏ hết được những
cái tự nhiên để tách biệt hoàn toàn với tổ tiên, với những loài sinh vật khác. Trong con
người vẫn tồn tại những cái thú tính hoang dại của tổ tiên mình, những cái đó thuộc về
bản năng của con người, những bản năng gốc mà chính nhờ nó con người đã sống và
phát triển đến ngày hôm nay.
Điều giống nhau và cũng là điểm khác nhau giữa con người với những sinh vật
khác chính là sự phát triển về nhận thức và ý thức của con người. Lao động là phương
thức tồn tại của con người. Con người tồn tại được chỉ khi tiến hành lao động sản xuất
của cải vật chất để phục vụ cho chính cuộc sống của mình. Cũng chính nhờ lao động
mà con người hình thành được ý thức. Mặt khác, trong các mối quan hệ xã hội thì
quan hệ trong sản xuất lao động xuất hiện đầu tiên và trở thành quan hệ nền tảng cho
sự xuất hiện của các mối quan hệ xã hội khác trong các lĩnh vực đời sống và tinh thần
của con người.
Con người là sản phẩm của tự nhiên, con người sản xuất ra của cải vật chất, tác
động vào tự nhiên để làm thay đổi tự nhiên, do đó con người chính là chủ thể cải tạo
tự nhiên. Tuy nhiên con người sống phụ thuộc vào thiên nhiên. Do đó con người được


tự nhiên sinh ra, vừa bị phụ thuộc và vừa tác động vào thiên nhiên, Con người tác
động vào thiên nhiên theo cách không tự nhiên ( nhân tạo), bắt thiên nhiên phải phục
vụ cho con người. Bằng hoạt động lao động sản xuất, con người sáng tạo ra toàn bộ

nền văn hóa vật chất, tinh thần. Cũng như trong hoạt động kinh tế ( một phương thức
của sản xuất) thì vai trị của con người đóng góp quan trọng nhất, do đó, để xây dựng
một nền kinh tế vững mạnh, đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thì
hiểu rõ bản chất con người, xây dựng một nguồn lực vững mạnh là một yêu cầu thiết
yếu.


2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người.
a. Quan điểm của Mác về con người.
Như ta đã biết, các nhà Triết học cổ đại đều thần thánh hóa hình tượng con
người, các nhà Triết học cổ điển Đức thì đã có bước tiến xa hơn đó là đã định nghĩa
được con người là sản phẩm của tự nhiên. Tuy nhiên các triết gia đã rơi vào lập
trường chủ nghĩa duy tâm trong khi phân tích bản chất của con người trong các mối
quan hệ xã hội. Mác đã khắc phục những điểm yếu trong lí luận của các nhà Triết học
cổ điển Đức để xây dựng một cách hoàn thiện nhất khái niệm và bản chất của con
người.
Theo Mác thì bản chất con người gồm có 2 phần, đây cũng chính là 2 giác độ
để Mác phân tích bản chất của con người.
Thứ nhất : Phần sinh học đó là phần cấu tạo cơ thể và cơ thế sinh hoạt. Con
người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của tự nhiên. Điều này không thể phủ
nhận bởi sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên đã chứng minh điều
đó. Với học thuyết tiến hóa của Darwin đã chứng minh được rằng mọi lồi sinh vật
đều có nguồn gốc chung và đều là sản phẩm của tự nhiên. Điều này đã bác bỏ mọi lí
luận rằng con người là sản phẩm của Thượng Đế tạo ra. Đàn ông được nặn từ đất sét
và đàn bà được làm ra từ chiếc xương sườn của đàn ơng. Cũng như có ý kiến cho rằng
con người, trái đất là trung tâm của Vũ trụ, con người được thần thánh hóa như thần
linh. Thực tế khoa hoc đã kiểm nghiệm rằng Trái đất cũng chỉ là một phần cực kì nhỏ
bé của Vũ trụ, và may mắn có được sự sống. Cũng như lồi người chỉ là một trong vơ
số lồi sinh vật đã từng tồn tại trên trái đất và cũng may mắn khi tồn tại và phát triển
đến như ngày nay.

Thứ hai : Phần ý thức.
Con người là một bộ phận của giới tự nhiên va đồng thời giới tự nhiên cũng là “
thân thể vơ cơ của con người”. Do đó những biến đổi của tự nhiên và các tác động của
quy luật tự nhiên trực tiếp hay gián tiếp đến sự tồn tại của con người và xã hội loài
người. Điều đó tương tự như sự trao đổi vật chất giữa sinh vật và môi trường. Ở đây là
sự vất chất của con người với môi trường. Khi môi trường tác động đến con người thì
đồng thời con người cũng tác động ngược lại thiên nhiên, làm biến đổi thiên nhiên
hình thành mối quan hệ hai chiều. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn
tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên.


Một điểm khác biệt rõ ràng giữa con người với các lồi sinh vật khác chính là
bản năng của con người, nó khơng cịn hoang dại, mang tính tự nhiên mà đã phát triển
lên mức cao hơn và được xã hội hóa. Con người có thể làm ra cơng cụ lao động. Tuy
nhiên ta có thể thấy một số lồi khỉ có họ hàng xa với con người có những hành vi
đơn giản nhất của sự chế tạo công cụ lao động. Chúng lấy những hòn đá đập vỡ
những hạt cứng để lấy những nhân ở trong đó ăn. Tuy nhiên, con người không chỉ biết
làm ra công cụ lao động mà còn biết cải tạo tự nhiên, biến đổi thiên nhiên theo mục
đích của mình. Trong những luận điểm về con người của chủ nghĩa Mac về con người
thì luận điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo ra công cụ sản xuất được xem là
luận điểm tiêu biểu, điển hình cho sự khác biệt của con người và các loài sinh vật
khác.
Về mặt xã hội, mỗi người là một phần tử của xã hội, tập hợp con người với nhau
ta được một tập gọi là xã hội trong đó các cá nhân liên hệ với nhau bằng các mối quan
hệ đặc biệt. Đó gọi là quan hệ xã hội. Từ quan hệ xã hội sẽ nảy sinh những mối quan
hệ khác.
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, yếu tố hang đầu
quyết định trong lực lượng sản xuất, con người cịn đóng vai trị là chủ thể hoạt động
của q trình lịch sử. Chính việc thơng qua hoạt động sản xuất mà con người sáng tạo
ra lịch sử của mình. Dựa vào đó Mac khẳng định sự phát triển của lực lượng sản xuất

có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển phong phú bản chất con người. Do đó, ta có
thể nhận định rằng mục tiêu cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển con người
toàn diện , nâng cao nặng lực và phẩm giá của con người. Trong đó bước quan trọng
nhất là giải phóng con người về mặt xã hội.
Theo quan điểm của Mac thì định hướng phát triển xã hội lấy sự phát triển của
con người làm thước đo chung càng được khẳng định trong bối cảnh lịch sử của con
người. Hiện nay chúng ta đang sống trong một thế giới đầy biến động. Xã hội loài
người phát triển một cách đa dạng, do đó ta có thể thấy được sự khơng đồng đều
trong sự phát triển kinh tế xã hội ở các nước khác nhau. Sự không đồng đều này tạo
nên một bức tranh đa sắc màu về bối cảnh của thế giới. Tuy nhiên, cho dù có phát
triển theo kiểu gì thì định hướng phát triển đó đều hướng tới mục đích chung là phát
triển con người lên một mức cao hơn như Mac đề cập.
Nghiên cứu về con người, Mac lấy đối tượng nghiên cứu là con người vô sản là
chủ yếu. Điều đó có thể dễ hiểu là do Giai cấp vơ sản là giai cấp duy nhất có thể đáp
ứng đẩy đủ những quy luật của cuộc sống và phucj tùng được long dân. Theo Mac,


con người vô sản là người sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội tuy nhiên họ lại là
giai cấp bị bóc lột trong xã hội. Một luận điểm nữa của Mac cho rằng, người vô sản là
những người tiêu biểu cho phương thức sản xuất xã hội mới, đó là những người có
khả năng giải phóng xã hội, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Trong xã hội đó
con người làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu. Tuy nhiên điều này khó cỏ thể
xẩy ra và có cảm giác phi lí. Điều đó không xảy ra ở các nước tư bản chủ nghĩa hay
đa số các nước xã hội chủ nghĩa mà chỉ xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa tiêu biểu
như Liên Xô. Như ta đã biết, Liên Xô đã tan rã cách đây gần 2 thập kỉ. và đến nay tư
tưởng đó của Mac cũng gần như khơng thể thực hiện. Lí do đưa ra là đa phần xã hội
hiện nay không thể tồn tại những con người chỉ biết “làm thoe năng lực, hưởng theo
nhu cầu” .

b. Vai trò của chủ nghĩa Mac trong xã hội nước ta hiện nay.

Nước ta là nước đang phát triển do đó, Đảng và nhà nước ta đã rất quan tâm
đến vấn đề con người trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Muốn xây dựng một đất
nước phát triển về nhiều mặt, trong đó đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, ta cần phải đào tạo
con người một cách có chiều sâu lấy chủ nghĩa Mac lenin làm cơ sở. Đặc biệt trong
khi nên kinh tế đang rơi vào khủng hoảng, nước ta ít nhiều chịu ảnh hưởng thì việc
xây dựng một đội ngũ nhân lực giỏi để có thể vực dậy nền kinh tế của nước ta là một
điều vô cùng cần thiết. Hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, lĩnh vực phát triển con
người là mục tiêu cao cả nhất của tồn dân, đưa chúng đến một thời kì mới, mở ra
nhiều khả năng tìm ra những con đường tối ưu để phát triển đất nước. Người lao động
nước ta ngày càng đóng một vai trị quan trọng trong sự phát triển của kinh tế đất
nước theo cơ chế thị trường. Với khả năng của tư tưởng Mac lenin chúng ta hoàn toàn
tin tưởng vào con đường phát triển con người để phát triển đất nước của Đảng và nhà
nước đề ra. Thực tế đã chứng minh tư tưởng Mac – Lenin đã vạch ra nhiều con đường
đúng đắn trong lịch sử cho đất nước ta. Đó là cách mạng tháng tám năm 1945 hay
chiến thằng Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng đất nước, đó là điều mafmaf bao nhiêu
học thuyết trước Mac không thể làm được. Tư tưởng Mac Lenin hay sau này được chủ
tịch Hồ Chí Minh vận dụng một cách linh hoạt vào hoàn cảnh của đất nước và được
biết với cái tên tư tưởng Hồ Chí Minh. Hệ thống tư tưởng Mac Lenin đã trở thành hệ
thống tư tưởng chính thống của tồn xã hội , làm thay đổi nhanh chóng đời sống tinh
thần đại đa số nhân dân Việt Nam. Bằng hệ thống giáo dục với các hình thức đào tạo


đa dạng, với các hình thức khoa học thấm nhuần tinh thần chủ nghĩa cơ bản của chủ
nghĩa Mac Lenin đã hình thành những lớp người lao động mới ngày càng có tư tưởng,
trình độ chun mơn ngày càng cao. Ngày nay chúng ta đã có một đội ngũ cán bộ văn
hóa khoa học cơng nghệ với trình độ lý luận và quản lí tốt đồng đều trong cả nước.
Chỉ trong một thời gian ngắn tư tưởng Mac Lenin đã thể hiện xu hướng của
mình đối với nền văn hóa dân tộc, xóa bỏ dần sự thống trị của các tư tưởng tự phát lạc
hậu ở nước ta. Với sức mạnh hùng hồn cùng những dẫn chứng khoa học có cơ sở, học
thuyết Mac Lenin đã vạch rõ được những yếu tố phi khoa học, phi nhân đạo của các

tư tưởng nhân đạo. Hơn thế, chủ nghĩa Mac Lenin còn thể hiện tính ưu việt so với các
tư tưởng tư sản đang dần dần làm lệch hướng đi của người trong điều kiện đời sống
vật chất khó khăn. Với một nước cịn nhiều khó khăn, trong hồn cảnh những tư
tưởng lạc hậu, những tàn dư của các xã hội cũ để lại vẫn bám đuổi, che lấp con đường
đi của đất nước thì Chủ nghĩa Mac Lenin là ngọn đèn soi sáng cho con đường của đất
nước và cũng là người dẫn đường cho đảng và chính phủ cũng như hơn 80 triệu dân
Việt Nam.
Tuy nhiên một đất nước đã có truyền thống lâu đời như Việt Nam thì khơng phải
ai cũng hiểu và thấm nhuần tư tưởng Mác Lenin, tư tưởng Mác Lenin cũng chỉ là một
trong số rất nhiều tư tưởng đang tồn tại ở nước ta. Nhưng nó như một hệ tư tưởng
khoa học đang vượt hẳn lên so với các tư tưởng khác, tuy vẫn phải chịu sự ảnh hưởng
đan xen của các yếu tố đúng – sai, mạnh - yếu, mới cũ. Các yếu tố tích cực thì phần
thúc đẩy cịn các yếu tố tiêu cực thì kìm hãm sự phát triển con người.
Nói tóm lại, trong sự phát triển của đất nước, tiến trình CNH HĐH cần yếu tố
hàng đầu là phát triển con người, trong đó, chủ nghĩa Mác Lenin chính là nền tảng của
sự phát triển đó. Trong chương tiếp theo, chúng ta sẽ nghiên cứu kĩ hơn về vấn đề con
người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa nước ta hiện nay.


Chương II : Vấn đề con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nươc ta
hiện nay.
1. Tính tất yếu khách quan của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
a. Hoàn cảnh.
Đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường được gần 20 năm, sau khi chế độ
bao cấp được xóa bỏ, trong khoảng thời gian đó, thực hiện mục tiêu “dân giàu nước
manh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” đất nước ta đã có nhiều khởi sắc về nhiều
mặt, trong đó, lĩnh vực kinh tế đã có những bước nhảy tột bậc, tham gia vào nền kinh
tế thế giới. Tuy nhiên trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới đang có những
dấu hiệu khủng hoảng. Điều đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến một nền kinh tế con non trẻ
ở nước ta. Trong khi ở nước ta, sự nghiệp CNH HĐH cịn chưa hồn thành thì việc

thúc đẩy q trình này sẽ nhanh chóng làm cho nền kinh tế của chúng ta phục hồi.
b. Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp CNH HĐH, sự quan trọng của
phát triển con người
Ở các nước khác trên thế giới thì CNH HĐH là xu hướng tất yếu. Đây không
chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà nó cịn làm biến đổi sâu sắc tới các lĩnh vực đời
sống xã hội. Quá trình phát triển kinh tế đều có 3 giai đoạn, đầu tiên là nền kinh tế
nơng nghiệp, sau đó là nền kinh tế cơng nghiệp và cuối cùng là nền kinh tế dịch vụ.
Nước ta là nước có nền kinh tế nơng nghiệp lâu đời, và q trình cơng nghiệp hóa
hiện đại hóa xảy ra là điều tất yếu. Sự phát triển của CNH HĐH u cầu nhiều yếu tố
như mơi trường chính trị ổn định, vốn tài nguyên, cơ sở vật chất. Các yếu tố đó đều
tham gia vào q trình CNH HĐH tuy nhiên với một vai trị khơng giống nhau, trong
đó nguồn nhân lực là quan trọng nhất. Nguồn nhân lực phải đủ về số lượng và cả chất
lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải là động lực thúc đẩy quá trình CNH HĐH.
Điều đó được thể hiện ở các lí do sau đây:
Đầu tiên: Ngoại trừ yếu tố con người thì các yếu tố cịn lại như vốn, tài ngun
thiên nhiên, cơ sở vật chất, vị trí địa lí chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng, khơng thể có tác
dụng ngay được. Các yếu tố đó chỉ có thể phát huy được tác dụng khi chúng dưới điều
khiển và sử dụng của con người. Nguyên do cũng dễ hiểu là do con người là nguồn
lực duy nhất có thể tư duy, có trí tuệ và ý chí biết khai thác, điều khiển và gắn kết các
nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau, tạo nên một sức mạnh tổng hợp vơ cùng to
lớn để tác động vào q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa. Vì vậy, trong các yếu tố
cấu thành nên lực lượng sản xuất để có thể thúc đẩy quá trình CNH HĐH thì người
lao động chính là yếu tố quan trọng nhất.


Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn và khơng vĩnh cửu, có thể bị cạn kiệt do
khai thác và do thời gian. Tuy nhiên nguồn lực con người lại là vơ hạn. Ngồi về mặt
sinh học con người có khả năng sinh sản thì con người khơng ngừng phát triển về mặt
trí tuệ và khơng ngừng học hỏi. Do đó, con người góp phần cải tạo, nâng cấp những
nguồn lực khác. Khơng những thế con người có khả năng sáng tạo vơ tận, do đó con

người có thể tìm ra, phát minh ra những yếu tố khơng có trong tự nhiên. Điều đó dễ
dàng được chứng minh khi chúng ta nhìn vào lịch sử của con người, hệ thống công cụ
sản xuất của con người ngày càng hiện đại hơn, được hiện đại hóa, tự động hóa chính
là minh chứng rõ ràng nhất cho điều đó.
Thứ ba : Theo Mac thì trí tuệ con người có một sức mạnh vơ cùng to lớn khi nó
được vật thể hóa và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong thời đại hiện nay, khi
trình độ khoa học đang phát triển như vũ bão dẫn đến các nền kinh tế của các nước
công nghiệp phát triển vận động theo hướng trí thức. Ở các nước này, nguồn lợi thu
được từ tri thức (chất xám) có thể chiếm một nửa tổng giá trị tài sản quốc gia, ở các
nước đang phát triển như Việt Nam, nguồn lợi từ chất xám không nhiều mà hầu hết
bắt nguồn từ việc sản xuất thủ cơng. Ngày càng có nhiều nhân tài bỏ nước sang các
nước phát triển, mất đi một lượng nhân tài lớn. Điều đó được gọi là chảy máu chất
xám. Ở nước ta, hiện tượng chảy máu chất xám diễn ra không quá nhiều nhưng nó
đang âm thầm mang đi rất nhiều những con người tài giỏi đến những nước khác. Dó
đó, việc nâng cao chất lượng con người cần đi đôi với việc tránh tình trạng chảy máu
chất xám để chúng ta có thể xây dựng một nguồn lực chất lượng nhất, toàn tâm toàn ý
phục vụ cho đất nước.
Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn đã chứng minh sự nghiệp
CNH HĐH còn phụ thuộc vào kế hoạch đường lối chính sách của của Đảng và nhác
nước và phụ thuộc rất nhiều vào ý thức và năng lực nhận thức của mỗi người.
2. Mục tiêu con người trong Cơng nghiệp hóa- Hiện đại hóa.
Trong q trình CNH- HĐH hiện nay ở nước ta hiện nay, chúng ta cần phải đạt
được những mục tiêu sau :
“Xây dựng nước ta thành một nước CN có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ
cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuấtđời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh giữ vững, dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”.


CNH HĐH khơng chỉ là một tiến trình đổi mới, hơn thế nó cịn là một cuộc cách

mạng vì con người và do con người. Khi ta nói những lợi ích và ưu việt của chủ nghĩa
xã hội mang đến cho nước ta thì những điều đó khơng phải do ai đưa đến mà đó là kết
quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của nhân dân ta. Điều đó là khơng thể phủ
nhận, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định rằng :” con người là vốn quy nhất, chăm lo cho
hạn phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta” Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói :” Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” . Qua
đó ta có thể thấy được đường lối đúng đắn của Đảng ta khi đặt mục tiêu lâu dài vào
con người. trong thực tế trong suốt những năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác Đảng ta đã cố gắng làm nhiêu việc theo hướng đó.
Với tư cách là Đảng cầm quyền, ngay từ đầu những chính sách, đường lối của Đảng
đều quán triệt việc chăm sóc và phát huy nhân tố con người. Việc đẩy mạnh cơng
cuộc CNH HĐH đất nước địi hỏi chúng ra phải nhận thức một cách đầy đủ những giá
trị và những ý nghĩa quyết định của nhân tố con người. Nền cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa vì mục tiêu phát triển con người tồn diện, ta khơng chỉ hiểu con người ở đây với
tư cách là người lao động sản xuất mà là cịn là một cơng dân trong xã hội, một cá
nhân trong gia đình, tập thể, là một thành viên trong trong cộng đồng dân tộc. Đó
khơng chỉ là những con người lao động chân tay bình thường mà cịn là nhứng người
làm việc bằng trí óc, đó là những những nhà kinh tế, những doanh nhân hay quản lí…
Khơng chỉ thế, đó là cịn là lớp người ý thức được cuộc sống, nhận thức được thực
trạng của đất nước để cùng nhau hợp tác, cùng nhau gắn bó vì sự nghiệp chung của
đất nước.
Qua đó, ta có thể khẳng định rằng bước sang thời kì CNH HĐH theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, theo nền kinh tế thị trường thì chúng ta cần phải lấy việc phát
triển con người là mục tiêu trọng tâm, là yếu tố cơ bản cho việc phát triển nhanh, bền
vững của nền kinh tế đồng thời phát triển mọi mặt của xã hội như văn hóa, giáo dục…
Nếu CNH HĐH là vị sự nghiệp phát triển con người thì con người phải được coi là
giá trị tối cao.
CNH HĐH ở Việt Nam có thành cơng hay thất bại phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
trong đó quan trọng nhất là yếu tố con người phải được đáp ứng. Để đáp ứng được
điều đó thì chúng ta phải càng đầu tư hơn nữa trong việc nghiên cứu con người.

Nghiên cứu con người để phát triển con người, phát triển con người để đáp ứng những
sự phát triển khác. Yếu tố hang đầu của nguồn lực con người trước hết phải là trí tuệ.
Nó được biểu hiện ở khả năng áp dụng những thành tựu khoa học để sang chế ra


những kỹ thuật tiên tiến, sự nhạy bén, thích ứng nhanh và làm chủ được được kĩ
thuật, công nghệ hiện đại, có kĩ năng lao động nghề nghiệp, có năng lực hoạch định
chính sách và lựa chọn giải pháp và tổ chức thực hiện.
Tuy nhiên CNH HĐH không phải không có mặt trái của nó. CNH HĐH đụng
chạm đến vấn đề khá phức tạp và nhạy cảm trong mối quan hệ giữa con người và
thiên nhiên. Đây là vấn đề cấp bách khơng chỉ với mỗi quốc gia mà cịn đối với sự tồn
tại của con người trên trái đất, Do đó, đi kèm với CNH HĐH phải là trách nhiệm
trước vấn đề môi trường, không thể chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế mà quên bảo
vệ môi trường.
Sự nghiệp CNH, HĐH không chỉ đặt lên vai những con người lao động, trên vai
của chính phủ và nhà nước mà đây là nhiệm vụ của mỗi cá nhân, kể cả những học
sinh, sinh viên đang học tập. Điều mà chúng ta phải học tập theo những nước đã phát
triển hơn chúng ta một bước là việc coi trọng giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng
đầu. Việc coi thường giáo dục, tài năng, thờ ơ trước tương lai của thế hệ trẻ sẽ là lực
cản rất lớn đến q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa.


3.

Thực trạng và giải pháp cho vấn đề nguồn lực cho con người ở nước ta

hiện nay.
Muốn hoàn thành được CNH HĐH, chúng ta cần phải khai thác hiệu quả nguồn
lực con người và coi đây là nguồn lực quan trọng nhất. Muốn sử dụng tốt nó thì chúng
ta phải hiểu được thực trang và những tiềm năng, khó khăn cần giải quyết. Khi đó

chúng ta mới có thể khai thác được một cách triệt để và phát triển được nguồn nhân
lực ở nước ta hiện nay.
a. Thực trạng.
Nhìn vào thực trạng của nguồn lao động của nước ta, ta có thể thấy rất nhiều
điều đáng bàn. Bên cạnh những ưu thế sẵn có của nguồn lao động Việt Nam như
nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam cần cù chịu khó, thơng minh chịu khó
sáng tạo, nhanh chóng tiếp thu được những thành tựu mới thì cịn có rất nhiều hạn
chế. Trong số hơn 65 triệu lao động ở Vn thì số lao động được đào tạo bài bản chiếm
tỉ lệ rất nhỏ. Số còn lại hầu như không được đào tạo bài bản, chủ yếu là nguồn lao
động thủ công. Vấn đề phân bố lực lượng lao động còn rất nhiều vấn đề. Ở thành phố
là nơi tập trung đơng lao động, rất nhiều lao động có tay nghề nhưng lại khơng có việc
làm trong khi ở những làng quê, vùng núi thì lại thiếu lao động trầm trọng. Một điều
đáng nói nữa là theo thói quen của người Vn thì rất nhiều người có tác phong làm việc
khơng cao, khơng có năng suất. Ngồi việc hạn chế về thể lực, trí thức, nhiều lao động
lại thiếu những kĩ năng cần thiết về văn hóa, giao tiếp….
Điều bất hợp lí ở nước ta cịn bộc lộ khá rõ khi tình trang thừa thầy thiếu thợ
vẫn cịn phổ biến. Những lao động được qua đào tạo thì lại thiếu rất nhiều kinh
nghiệm về sản xuất thực tiễn. Đặt ra môt vấn đề lớn trong giáo dục và đào tạo ở nước
ta.
Khơng ngồi quy luật chung ở những nước đang phát triển, nước ta cũng phải
đương đầu với vấn đề “ chảy máu chất xám” tơi đã nói ở trên. Hiện nay, tình trang đó
cơ bản đã được giải quyết nhờ chính sách ưu tiên người tài của nhà nước. Tuy nhiên,
nếu không đáp ứng được những yêu cầu mà những người tài cần được hưởng xứng
đáng với công lao những gì họ làm được thì tình trạng trên khơng thể ngừng lại hồn
tồn.
b. Giải pháp.
Để đáp ứng những yêu cầu cơ bản về con người trong CNH HĐH thì chúng ta
phải thực hiện một loạt những giải pháp nhằm phát triển tốt yếu tố con người trong sự
đi lên của đất nước.



Ngồi việc đào tạo, chăm sóc những nguồn lao động có trí thức, có lí thuyết
chúng ta phải đào tạo cho họ những kĩ năng về văn hóa, những kinh nghiệm thực tiễn.
Chỉ có cách đó thì chúng ta mới có thể có những thế hệ người lao động hồn hảo về
mọi mặt, đáp ứng những yêu cầu khắt khe của nguồn tuyển dụng lao động, phục vụ
tốt cho CNH HĐH.
Muốn có những con người đáp ứng được những yêu cầu trong sự nghiệp CNH
HĐH ở nước ta hiện nay,cùng với sự giáo dục nhà trường và xã hội, bên cạnh đó là sự
chăm sóc, bồi dưỡng và những ưu đãi của nhà nước, mỗi con người chúng ta phải biết
phấn đấu hết mình trong học tập, lao động, nâng cao trí thức cá nhân, đồng thời học
tập theo gương chủ tịch Hồ Chí Minh, phát huy những phẩm chất đáng quý của con
người Việt Nam, cùng góp phần trong công cuộc đổi mới đất nước.


Chương III : Tổng kết.

Chủ nghĩa xã hội do con người và vì con người. Do vậy hình thành mối quan hệ
đúng đắn về con người trong vai trò của con người trong sự phát triển của xã hội nói
chung , xã hội chủ nghĩa nói riêng là một vấn đề khơng thể thiếu được trong lí luận tư
tưởng của chủ nghĩa Mác Lenin.
Ở nước ta, con đường CNH, HĐH là điều tất yếu để nước ta phát triển và hội
nhập với thế giới, đưa nước ta từ một nước kém phát triển đạt được những thành tựu
to lớn trên cả kinh tế và xã hội. Nhưng để CNH, HĐH thành cơng thì chúng ta khơng
thể phát triển nó trên những tư tưởng lí luận lạc hậu và lỗi thời. Chúng ta cần một lí
luận, một tư tưởng thơng suốt, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đáp ứng được điều
đó thì chỉ có tư tưởng của Mac Lenin là phù hợp với thực trang của nước ta hiện nay,
qua những phân tích ở trên chúng ta có thể thấy rằng Tư tưởng Mac Lenin hồn tồn
có thể đáp ứng mọi yêu cầu được đặt ra và nó cũng đã chứng tỏ qua những thành tựu
đã đạt được trong hơn 60 năm qua.
Trong sự nghiệp CNH, HĐH nói riêng và sự nghiệp phát triển đất nước nói

chung, tuy chúng ta đã được những thành tựu đáng kể song đời sống vật chất và tinh
thần của đại đa số người dân cịn thiếu. Dó đó, việc áp dụng triệt để, coi chủ nghĩa
Mac Lenin là kim chỉ nam cho mọi sự phát triển của đất nước vừa là mục tiêu vừa là
nhiệm vụ đặt ra cho nhà nước, chính phủ và mọi cơng dân Việt Nam. Chỉ có cách đó
mới khiến chúng ta có thể hồn thành được cơng cuộc đổi mới đất nước, đưa nước ta
thoát khỏi ngèo nàn và lạc hậu, đưa nước ta đến một tầm cao hơn, ngang tầm với
những nước phát triển trên thế giới.


Tài liệu tham khảo:


Giáo trình Những ngun lí cơ bản của chủ nghĩa Mac Lenin – Nhà xuất bản
Chính trị Quốc Gia



Vấn đề con người trong Cơng nghiệp hóa- Hiện đại hóa:
/>


/>


Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa ở nước ta : />%C3%B4ng%20nghi%E1%BB%87p%20h%C3%B3a%20-%20hi%E1%BB
%87n%20%C4%91%E1%BA%A1i%20h%C3%B3a%20%C4%91%E1%BA
%A5t%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc.html




×