1
§¹I häC quèC gia hµ néI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐINH THỊ HẰNG
QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ TRÍ THỨC VÀ VẤN ĐỀ
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội – 2011
§¹I häC quèC gia hµ néI
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐINH THỊ HẰNG
QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ TRÍ THỨC VÀ VẤN ĐỀ
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Ngô Thị Phượng
Hà Nội – 2011
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 7
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ TRÍ THỨC 7
1.1. Quan điểm của V.I. Lênin về khái niệm và đặc trưng của trí thức 7
1.2. Quan điểm của V.I. Lênin về vai trò của trí thức đối với sự phát
triển của xã hội 14
1.3. Quan điểm của V.I. Lênin về xây dựng đội ngũ trí thức 22
CHƯƠNG 2. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM HIỆN
NAY THEO QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN 44
2.1. Thực trạng xây dựng đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay 44
2.2. Thành tựu và hạn ch trong xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam
hiệ n nay 67
2.3. Nhữ ng giả i pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt hơn việc xây dựng
đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay 77
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trí thức có vai trò to lớn đối với sự hưng vong của mỗi quốc gia , dân
tộc nhất là đối với những nước có điểm xuất phát kinh tế - xã hội thấp như
nước Nga Xôviế t những năm đầu sau cách mạng tháng Mười . Nhận thức
rõ tình hình nước Nga trong những ngày đầu thành lập chính quyền
Xôviế t, V.I. Lênin đã đặc biệt đề cao vai trò của trí thức. Đồng thời, ông
cũng là người đã giải quyết thành công vấn đề xây dựng trí thức ở Nga.
Nghiên cứu và vận dụng quan điểm của V.I. Lênin về trí thức, Đảng
và Nhà nước ta đã không ngừng chú trọng chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng,
xây dựng đội ngũ trí thức về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng trong điều kiện mới.
Kết quả đạt được là đội ngũ trí thức Việt Nam đã có sự phát triển cả
về số lượng và không ngừng nâng cao về chất lượng do được Đảng và Nhà
nước quan tâm và đề cao. Tuy nhiên, công tác xây dựng đội ngũ trí thức ở
Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Vì vậy, cần phải đề xuất các giải pháp để
khắc phục tình trạng trên.
Với lý do như trên tôi chọn vấn đề: “Quan điểm của V.I. Lênin về trí
thức và vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam đã có nhiều bài
viết, công trình nghiên cứu về trí thức nói chung, trí thức Việt Nam nói
riêng. Có thể phân chia các công trình này thành ba nhóm vấn đề:
Nhóm vấn đề liên quan trực tiếp tới quan điểm, chủ trương, chính
sách của V.I. Lênin về xây dựng và phát huy vai trò, tiềm năng trí tuệ của
trí thức, có các công trình tiêu biểu sau:
2
- Trịnh Quốc Tuấn (1995): “Quan điểm và chính sách của V.I. Lênin
đối với trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Nghiên cứu lý
luận, (4).
- Trần Hồng Lưu (1995): “Tìm hiểu quan điểm của V.I. Lênin về học
tập và sử dụng trí thức tư sản trong thời kì quá độ”, Tạp chí Triết học, (3).
- Đinh Ngọc Quang (2008): “Thu hút và sử dụng trí thức phục vụ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (7).
Nhóm vấn đề mang tính định hướng cho việc nghiên cứu trí thức và
công tác xây dựng đội ngũ trí thức, có các công trình tiêu biểu sau:
- Phan Thanh Khôi (1992): Động lực của đội ngũ trí thức trong lao
động sáng tạo ở nước ta hiện nay, Luận án PTS Triết học, Hà Nội.
- Đỗ Mười (1995): Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới và xây
dựng đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Tuấn (1998): Một số vấn đề về trí thức Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Phan Viết Dũng (1998): Vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án PTS Triết học, Hà Nội.
- Phạm Tất Dong (2001): Định hướng phát triển đội ngũ trí thức
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Đắc Hưng (2005): Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát
triển đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Ngô Huy Tiếp (2008): Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với trí thức nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nhóm vấn đề đi sâu nghiên cứu những bộ phận trí thức cụ thể, có các
công trình tiêu biểu sau:
- Phạm Tất Dong (1997): Khoa học xã hội và nhân văn mười năm
đổi mới và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn An Ninh (1999): Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học
xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước ta, Luận án TS triết học, Hà Nội.
3
- Nguyễn Văn Sơn (2000): Cơ cấu và chất lượng trí thức giáo dục đại
học ở nước ta hiện nay”, Luận án TS Triết học, Học viện Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
- Ngô Thị Phượng (2007): Vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội
và nhân văn trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, …
Dưới các góc độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau, những công
trình trên đã giải quyết được một số vấn đề lí luận và thực tiễn về trí
thức. Tuy nhiên, những công trình đó chưa đề cập và nghiên cứu một
cách hệ thống, trực tiếp quan điểm của V.I. Lênin về trí thức, công tác
xây dựng đội ngũ trí thức và sự vận dụng quan điểm đó vào xây dựng
đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Luận văn làm rõ quan điểm của V.I. Lênin về trí thức, xây
dựng đội ngũ trí thức. Vận dụng quan điểm đó, luận văn đề xuất một số
giải pháp để thực hiện tốt hơn nữa việc xây dựng đội ngũ trí thức Việt
Nam đáp ứng yêu cầu của thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Trình bày quan điểm của V.I. Lênin về khái niệm trí thức, đặc trưng
và vai trò của trí thức.
- Trình bày quan điểm của V.I. Lênin về xây dựng đội ngũ trí thức.
- Đánh giá công tác xây dựng đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn việc xây dựng đội
ngũ trí thức Việt Nam trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước theo quan điểm của V.I. Lênin.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu quan điểm của V.I. Lênin về trí thức và sự vận dụng
quan điểm đó trong xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
4
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về tầng lớp
trí thức.
Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng, tham khảo kết quả nghiên cứu của
một số đề tài nghiên cứu, luận án, bài viết về vấn đề trí thức và công cuộc
xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là phân tích, tổng
hợp, logic và lịch sử, phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể.
6. Đóng góp của luận văn
Làm rõ quan điểm của V.I. Lênin về vấn đề trí thức và công tác xây
dựng đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay.
Đưa ra một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn việc xây dựng đội
ngũ trí thức Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Góp phần vào việc nghiên cứu trí thức nói chung và công tác xây
dựng đội ngũ trí thức nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên quan đến trí thức.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
5
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ TRÍ THỨC
1.1. Quan điểm của V.I. Lênin về khái niệm và đặc trƣng của trí thức
1.1.1. Quan điểm của V.I. Lênin về khái niệm trí thức
Thuật ngữ “trí thức” ở nhiều nước có nguồn gốc từ tiếng Latinh
“intelligentia – intellegentia” chỉ trí lực, trí thức hoặc sự thông minh, hiểu
biết, biết suy nghĩ. Nội dung khái niệm “trí thức” được xác định tùy theo
từng giai đoạn lịch sử cụ thể và ở mỗi nước lại có quan điểm khác nhau.
Có xu hướng mở rộng khái niệm “trí thức” cho rằng trí thức là người lao
động trí óc nói chung. Có xu hướng lại thu hẹp như quan niệm ở châu Âu
trước đây, coi trí thức là những nhà tư tưởng (trước tác) hoặc một số học
giả quan niệm chỉ có một nhóm nhỏ những nhà bác học, sáng chế, phát
minh mới là trí thức. Nhìn chung, các định nghĩa xác định nội dung khái
niệm “trí thức” đều dựa trên đặc trưng lao động trí óc và trình độ học vấn
cao của những người trí thức. Điều đó hoàn toàn đúng nhưng không đầy
đủ vì chưa hiểu khái niệm trí thức bao hàm cả ý nghĩa chính trị - xã hội.
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trước sự thỏa hiệp giữa giai
cấp tư sản với địa chủ phong kiến Nga hoàng để đàn áp phong trào đấu
tranh của nhân dân lao động, V.I. Lênin thấy rõ tính cấp thiết của sự đoàn
kết, liên minh giữa giai cấp công nhân với các tầng lớp lao động khác, đặc
biệt là tầng lớp trí thức. Mặt khác, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới ở nước Nga sau cách mạng tháng Mười (1917), đòi hỏi phải có
sự tập trung sức lực, trí tuệ của đông đảo nhân dân lao động, đặc biệt là
tầng lớp trí thức. Vì vậy, việc nghiên cứu tầng lớp trí thức trong cơ cấu xã
hội – giai cấp đã được V.I. Lênin quan tâm và luận giải khá rõ. Trong tác
phẩm “Một bước tiến, hai bước lùi”, V.I. Lênin đã viết:
6
“Tôi dùng tiếng phần tử trí thức, để dịch những danh từ Đức Literat,
Literatentum là những danh từ có ý nghĩa bao hàm không chỉ những nhà
trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại
biểu của lao động trí óc. (Tức là những người mà người Anh gọi là Brain
Worker), khác với những đại biểu của lao động chân tay” [74, 372]. Để
làm rõ và hiểu hơn khái niệm của V.I. Lênin về trí thức cần làm rõ: sự
khác biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc
Lao động chân tay là quá trình con người sử dụng những công cụ lao
động tác động trực tiếp đến tự nhiên chủ yếu bằng sức cơ bắp. Lao động trí
óc là quá trình người trí thức sử dụng trí tuệ của mình làm phương thức,
công cụ, điều kiện để phản ánh thế giới, hoàn thiện, hình thành sản phẩm
lao động của mình. Do vậy, mức hao phí năng lượng thần kinh trung ương
nhiều hơn so với lao động chân tay.
Tuy nhiên, ngoài trí thức, còn một bộ phận khá lớn của lao động trí
óc là viên chức và sinh viên. Vì vậy, cần phân biệt giữa trí thức với viên
chức và sinh viên. Sự khác biệt giữa người lao động trí óc như trí thức và
viên chức là ở chỗ viên chức hoạt động trong lĩnh vực hành chính, pháp lý.
Mục đích lao động của đội ngũ viên chức là phục vụ sự vận hành thông
suốt của bộ máy hành chính. Và do lao động của họ không phải là lao
động trí óc phức tạp nên không bắt buộc họ phải có trình độ học vấn cao,
mặc dù xu hướng nâng cao trình độ học vấn của họ là không tránh khỏi.
Còn sinh viên, có thể nói là một bộ phận của trí thức. Nhưng nhìn tổng thể
và chính xác hơn thì đó là một nhóm xã hội quá độ mà xu hướng chính là
bổ sung vào bộ phận lao động trí óc.
Nếu không có sự phân định như trên thì dẫn đến việc đào tạo, sử
dụng trí thức không thỏa đáng hạn chế khả năng sáng tạo của đội ngũ này.
Tổng hợp quan điểm của V.I. Lênin về trí thức, chúng ta có định nghĩa:
trí thức được xác định là một tầng lớp xã hội, là những người lao động trí óc
có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, hay nói cách khác
7
là người có trình độ chuyên môn sâu, đại diện cho đỉnh cao trí tuệ đương
thời, là người có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri
thức về khoa học – kĩ thuật, từ đó thúc đẩy nhanh sự tiến bộ xã hội.
1.1.2. Quan điểm của V.I. Lênin về đặc trưng của người trí thức
Trước hết, trí thức là những người lao động trí óc phức tạp
Lao động trí óc phức tạp cần sự hao phí năng lượng thần kinh trung
ương cao hơn để thực hiện những hoạt động phức tạp của tư duy như phân
tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch… về những sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội thành lý luận, tri thức khoa học mới. Còn lao động trí óc giản
đơn chỉ là hoạt động lặp đi, lặp lại nhiều lần và dần dần thành thói quen,
phản xạ.
Thứ hai, trí thức là một tầng lớp xã hội đặc thù, có tính độc lập
tương đối cao
Tính đặc thù của trí thức được thể hiện trong lao động và nghề nghiệp
của họ. Lao động của người trí thức là lao động “chất xám” tạo ra những
sản phẩm trí tuệ. Mặc dù sáng tạo là thuộc tính của lao động nhưng sáng
tạo ở mức độ cao về khoa học, phức tạp về nội dung là thuộc về lao động
trí óc. Cho nên, khái niệm “lao động sáng tạo” thường dùng để chỉ kiểu lao
động đặc trưng của trí thức. Sản phẩm của kiểu lao động này là: tạo ra tri
thức mới, tiến bộ, hữu ích; sản phẩm đa dạng, không lặp lại, mang dấu ấn
tác giả và có sự kế thừa rõ rệt. Sự kế thừa trong sáng tạo làm cho sản phẩm
trí tuệ như một dòng chảy liên tục và nhận thức của nhân loại phát triển từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Một nét đặc trưng nữa của trí thức là tính đa dạng nghề nghiệp do sự
phân công và hiệp tác trong lao động sản xuất tinh thần cùng với sự tồn tại
của các thành phần kinh tế quyết định. Sự đa dạng trong nghề nghiệp của
trí thức không chỉ biểu hiện ở sự có mặt tại các thành phần kinh tế mà còn
biểu hiện trong quá trình lao động sáng tạo, từ các công đoạn và lĩnh vực
sáng tạo cho đến tính đặc thù của những thiên hướng cá nhân.
8
1.2. Quan điểm của V.I. Lênin về vai trò của trí thức đối với sự
phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Vai trò của trí thức trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, xây dựng hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, những người trí
thức tiến bộ đã sáng tạo ra các học thuyết lý luận (triết học, chính trị - xã
hội…) tạo tiền đề tư tưởng cho các cuộc cách mạng xã hội. Đối với cuộc
cách mạng của giai cấp công nhân, chính trí thức đã góp phần quan trọng
trong xây dựng hệ tư tưởng chính trị cho giai cấp công nhân, tiếp thu,
truyền bá nó vào phong trào công nhân dẫn đến sự ra đời của chính Đảng
cộng sản, đưa phong trào công nhân từ tự phát lên tự giác.
Ngoài ra, trí thức là những người đóng vai trò quan trọng trong việc tạo
lập cơ sở lý luận cho cương lĩnh cách mạng, đường lối chính trị của giai cấp
công nhân và cho việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội, văn hóa –
tinh thần, … để giai cấp công nhân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
1.2.2. Vai trò của trí thức trong lãnh đạo và quản lý đất nuớc
V.I. Lênin đã đặt ra yêu cầu đối với chủ thể quản lý là phải có lòng
trung thành với sự nghiệp, chính quyền, có trình độ, tri thức khoa học, có
uy tín, chuyên môn và năng lực thực tiễn. Trí thức là những người tiến bộ
và với những ưu thế về trình độ học vấn, chuyên môn, khả năng sáng
tạo… có thể đáp ứng được những yêu cầu đối với chủ thể lãnh đạo, quản
lý mà V.I. Lênin đã đưa ra.
Do sự xích lại gần nhau giữa các loại hình lao động mà nhiều trí thức
đã tham gia vào công tác quản lý, lãnh đạo hoặc là người cố vấn chính trị
cho giai cấp công nhân. Nhiều trí thức đã tham mưu cho Đảng của giai cấp
công nhân vạch ra đường lối lãnh đạo đúng đắn.
1.2.3. Vai trò của trí thức trong việc nâng cao dân trí, phát triển
khoa học
Dân trí là vấn đề hết sức cơ bản trong bài toán tăng trưởng kinh tế.
Dân trí không đơn thuần là vấn đề “được đi học”, mà là sự hiểu biết về
9
khoa học, công nghệ, sản xuất, quản lý, đạo đức và pháp luật để ứng dụng
vào lao động sản xuất, dịch vụ xã hội và vào mọi công việc liên quan đến
sự phát triển văn hóa, văn minh.
Trí thức đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao dân trí cho
quần chúng nhân dân thông qua hoạt động giáo dục và việc sáng tạo ra các
giá trị tinh thần.
Sở dĩ, V.I. Lênin đã khẳng định vai trò to lớn của trí thức như vậy là
do ông đã nhận thấy ở tất cả các chế độ bóc lột, bao giờ giai cấp thống trị
cũng tìm mọi cách giam hãm quần chúng lao động trong vòng ngục tối và
dốt nát. Chúng bao giờ cũng lạm dụng những thành tựu của khoa học và kĩ
thuật vào việc đầu độc tư tưởng quần chúng như truyền bá lối sống suy đồi,
trụy lạc, kích thích những ham muốn thấp hèn. Nhưng những người trí thức
tiến bộ lại sử dụng những thành tựu của khoa học – kĩ thuật để đẩy mạnh sự
giao lưu văn hoá giữa các dân tộc, tạo điều kiện cho con người có thể hấp
thụ được những tinh hoa của nền văn minh thế giới.
1.3. Quan điểm của V.I. Lênin về xây dựng đội ngũ trí thức
1.3.1. Quan điểm của V.I. Lênin về việc cải tạo trí thức cũ, chuyên
gia tư sản
V.I. Lênin đặt vấn đề cải tạo trí thức cũ, bởi vì bản thân họ còn có
những thói quen xấu. Họ còn mang những quan điểm tiêu cực của xã hội
cũ, mắc bệnh tự cao, tự đại, luôn luôn tự cho mình là hơn hết, khinh rẻ lao
động, coi thường nhân dân lao động, không muốn hợp tác với công nông,
đi ngược lại yêu cầu đoàn kết giữa công nông và trí thức. Để có phương
pháp cải tạo trí thức tốt nhất theo V.I. Lênin phải chỉ ra được sự phân hóa
trong tầng lớp này và phải quan tâm đến đặc trưng, đặc điểm của họ để có
chủ trương, biện pháp và sách lược đúng.
Mục đích của việc cải tạo trí thức cũ là giúp họ chuyển từ thái độ thù
địch sang trung lập rồi sang thái độ ủng hộ Bônsêvích. Đó là quá trình từ
tự phát đến tự giác.
10
Nội dung chủ yếu của việc cải tạo trí thức cũ, chuyên gia tư sản là
việc giành lấy trí thức, thu hút, cải tạo và sử dụng họ chứ không phải là
biện pháp trấn áp và cưỡng bức như đối với trí thức tư sản bất trị. Đây là
đặc trưng của cuộc đấu tranh không phải chống lại trí thức mà vì trí thức.
Phương pháp cải tạo trí thức cũ , chuyên gia tư sản là “phương pháp
Xôviế t”.
Ý nghĩa của việc cải tạo trí thức cũ, chuyên gia tư sản là giải phóng
trí thức khỏi sự phục tùng giai cấp tư sản, khỏi ách tư bản, trả lại cho trí
thức ý nghĩa chân chính, cao cả của trí thức là dùng tri thức khoa học phục
vụ cho quần chúng nhân dân lao động, chứ không phải để phục vụ cho sự
thống trị, bóc lột của giai cấp tư sản.
1.3.2. Quan điểm của V.I. Lênin về việc sử dụng trí thức, chuyên
gia tư sản
V.I. Lênin đã chỉ ra cho những người cộng sản thấy sự cần thiết phải
sử dựng trí thức, chuyên gia tư sản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì ngay
từ những ngày đầu, khi cách mạng tháng Mười thành công, V.I. Lênin đã
sớm ý thức được rằng nếu chỉ bằng nhiệt tình cách mạng mà thiếu tri thức
sẽ dẫn đến sự phá hoại công cuộc xây dựng đất nước. Vì vậy, V.I. Lênin
cũng đã nghiêm khắc phê phán một số quan điểm sai lầm ở Nga lúc bấy
giờ, như quan điểm của cái gọi là trường phái “văn hoá vô sản” cho rằng:
giai cấp vô sản hoàn toàn có khả năng làm được những cái gì mà chủ nghĩa
tư bản đã làm. Rằng: cần phải có bàn tay cộng sản “sạch sẽ” để xây dựng
chủ nghĩa cộng sản mà không cần đến những người cộng tác tư sản phản
cách mạng đáng khinh bỉ.
Khi sử dụng trí thức, V.I. Lênin đã chú ý đến đặc trưng lao động trí
óc, nhu cầu cuộc sống và điều kiện làm việc của họ. Vì vậy, V.I. Lênin đã
chủ trương trả lương cao cho trí thức nhất là các chuyên gia giỏi “muốn
mang khoa học lại cho nhân dân (chứ không phải là phục vụ bọn tư bản)”.
11
V.I. Lênin đã kêu gọi những người cộng sản phải có thái độ cầu thị,
khiêm tốn học hỏi, thận trọng, khéo léo, mềm dẻo đối với các chuyên gia tư
sản mà phần lớn đã bị tiêm nhiễm thế giới quan tư sản.
V.I. Lênin cũng đã chỉ ra những biện pháp cụ thể, thiết thực để lôi
kéo và sử dụng chuyên gia tư sản như: phải thu nhận họ làm việc trong
guồng máy của chúng ta, giao cho họ những nhiệm vụ cụ thể, rõ rệt, theo
dõi, kiểm tra việc thực hiện của họ. Bên cạnh việc giúp đỡ, tạo điều kiện
cho họ làm việc phải giáo dục họ làm tốt hơn, tự giác hơn chứ không phải
là thái độ thù địch, thiếu tin tưởng.
1.3.3. Quan điểm của V.I. Lênin về việc đào tạo trí thức mới từ
công nhân và nông dân
Mục đích đào tạo tầng lớp trí thức mới dưới chủ nghĩa xã hội là
trang bị cho người trí thức tư tưởng, tình cảm, đạo đức cách mạng, tri thức
khoa học, kĩ thuật, nghiệp vụ chuyên môn để người trí thức có thể biến
kiến thức thành niềm tin, thành thế giới quan và phương pháp tư duy khoa
học và luôn đứng vững trên lập trường chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện mục đích trên, V.I. Lênin đã chủ trương giáo dục chủ
nghĩa Mác cho trí thức để họ xây dựng thế giới quan khoa học và nhân
sinh quan cách mạng cũng như phương pháp tư duy biện chứng.
Ngoài ra, để đào tạo trí thức mới từ công – nông, Đảng và Nhà nước
Xôviế t rất chú trọng đến việc nâng cao trình độ học vấn và văn hóa của
nhân dân thông qua hoạt động giáo dục. Theo chủ trương này, nhiều biện
pháp cải tiến trong hệ thống giáo dục được thực hiện để đáp ứng yêu cầu
đào tạo trí thức mới. Đó là, mở rộng hệ thống trường học , lớp học, tăng
cường đội ngũ giáo viên, cải tiến nội dung chương trình , phương pháp đào
tạo, tăng tỷ lệ con em công nông trong các trường đại học , trung học
chuyên nghiệp… Kết quả là , sau một thời gian ngắn , nhà nước Xôviế t đã
đào tạo được một đội ngũ trí thức mới khá đông đảo.
Những tư tưởng trên của V.I. Lênin có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc đối với nước ta trong quá trình xây dựng đội ngũ trí thức của mình.
12
CHƢƠNG 2
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM HIỆN NAY
THEO QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN
2.1. Thực trạng xây dựng đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Công tác đào tạ o, bồi dưõng đội ngũ trí thức
Mục tiêu giáo dục – đào tạo đội ngũ trí thức là giáo dục tư tưởng đạo
đức truyền thống, kiến thức hiện đại, năng lực thích nghi cuộc sống, khắc
phục tình trạng học nhiều nhưng thiếu thực tế.
Phương hướng là quan tâm đào tạo và bồi dưỡng về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, ý chí với những hình thức và nội dung thích hợp.
Chủ trương phá vỡ thế khép kín trong giáo dục – đào tạo, thực hiện
mở cửa, xã hội hóa mạnh mẽ giáo dục.
Nội dung của công tác giáo dục - đào tạo trí thức bao gồm:
Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bao gồm: đào tạo chính quy, đào
tạo tại chức, đào tạo ngắn hạn không chính quy, đào tạo mở rộng, đào tạo
từ xa.
Chủ trương thực hiện trẻ hóa đội ngũ trí thức như tuyển chọn các sinh
viên tốt nghiệp xuất sắc, đào tạo tiếp để họ nhanh chóng hoàn thiện các
chương trình cao học và nghiên cứu sinh, đạt được học vị khi tuổi còn trẻ.
Tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo, coi đó là đầu tư cơ bản,
đầu tư để phát triển.
Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo ở trong nước với
việc gửi lưu học sinh và cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài.
Công tác quản lý đào tạo ở nước ngoài cũng được đổi mới. Các cơ
quan quản lý, đào tạo trí thức đã tăng cường công tác chính trị, tư tưởng
đối với lưu học sinh.
Nhiều biện pháp tích cực để đảm bảo công bằng trong công tác giáo
dục cũng được thực hiện như chính sách miễn giảm học phí, cấp học bổng,
13
tài trợ cho sinh viên nghèo học giỏi, mở quỹ tín dụng cho sinh viên vay
tiền… đã được tổ chức thực hiện. Đây là chính sách quan trọng góp phần
thực hiện mục tiêu đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đầu tư phát triển
nguồn nhân lực của đất nước.
Đồng thời với việc mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn lực trí thức là chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, nâng cao
trình độ hiện có. Công tác này được thực hiện dưới những hình thức chủ
yếu: ngắn hạn (từ một tuần đến một năm) và dài hạn (từ một năm trở lên),
thực hành thí nghiệm, học tập, bồi dưỡng ở các cơ sở trong nước và nước
ngoài. Nội dung đào tạo đa dạng từ tin học, quản trị kinh doanh, kế toán,
ngoại ngữ. Chương trình đào tạo linh hoạt phù hợp với các đối tượng.
Nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ tạo điều kiện cho con em các
dân tộc ít người cũng được đi học đã được ban hành và tổ chức thực hiện.
Trong công tác đào tạo trí thức, để khắc phục tình trạng giáo dục –
đào tạo xa rời thực tế, nhiều trường đã phối hợp với các cơ sở sản xuất
nhằm nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu và chất lượng giáo dục.
2.1.2. Công tác sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức
Đối với công tác sử dụng trí thức
Đảng và Nhà nước mà đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn cứ
vào khả năng của người trí thức mà bố trí, sắp xếp công việc cho phù hợp,
đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện cho năng lực được sử dụng đúng.
Đối với công tác đãi ngộ trí thức
Đảng và Nhà nước cùng với các ban, ngành đã đề ra một số chính
sách cải cách chế độ nhuận bút, thù lao khoa học, trợ cấp giảng dạy, khen
thưởng… đánh giá đúng mức giá trị của lao động sáng tạo.
Cùng với đổi mới chế độ tiền lương, phụ cấp nhằm đảm bảo đời sống
cán bộ công chức, Nhà nước thực hiện cơ chế mới trong các hoạt động
dịch vụ theo hướng xã hội hóa, như thu một số khoản viện phí, cho phép
khám ngoài giờ, vừa để đáp ứng nhu cầu của nhân dân vừa cải thiện đời
14
sống cán bộ nhân viên y tế, thực hiện một số biện pháp giảm bớt khó khăn
trong đời sống của giáo viên.
Ngoài ra, công tác đãi ngộ về vật chất còn thể hiện ở việc tạo điều
kiện và phương tiện làm việc tốt nhất cho trí thức để họ phát huy tiềm
năng sáng tạo của mình.
Đối với công tác động viên về tinh thần
Việc động viên về tinh thần bao gồm những hoạt động nhằm thỏa mãn
các nhu cầu được nâng cao trình độ để có bằng cấp cao hơn, việc công nhận
các chức danh, việc xét thưởng thi đua (giấy khen, bằng khen, huân chương,
… ) cho trí thức.
Ví dụ: Giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước, giải thưởng
VIFOTEC…
Hàng năm, Nhà nước cùng với chính quyền địa phương, lãnh đạo các
ngành tổ chức bình xét và trao giải thưởng cho các tập thể, cá nhân có cống
hiến to lớn trong sự phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học và giáo dục…,
nhiều trí thức được tôn vinh và tặng danh hiệu cao quý như Nhà giáo nhân
dân, Nghệ sĩ nhân dân, Nhà giáo ưu tú, nghệ sĩ ưu tú… Đồng thời, tiến hành
phong học hàm giáo sư, phó giáo sư theo định kì và các phần thưởng cao
quý khác, đặc biệt là giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước
cho trí thức có thành tựu xuất sắc. Ở cấp Bộ, ngành và cơ sở cũng thực hiện
nhiều hình thức khen thưởng khác nhau như: lao động tiên tiến, chiến sĩ thi
đua, giấy khen, bằng khen…
Gần đây, Bộ Chính trị đã ban hành: pháp lệnh về bảo hộ quyền sở
hữu công nghệ và chuyển giao công nghệ, pháp lệnh về quyền tác giả, điều
lệ về sáng kiến, cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất và sáng chế… Đó là
những đảm bảo quan trọng về mặt pháp lý, tạo nên động lực bền vững cho
sự sáng tạo, động viên, khuyến khích sự phát triển tiềm năng, đảm bảo đời
sống cho trí thức và có khả năng đầu tư trở lại cho sáng tạo.
15
2.1.3. Công tác tập hợp, vận động và thu hút trí thức Việt Nam
trong và ngoài nước
Bước vào thời kì đổi mới, Đảng ta nhận rõ tình trạng phân tán, thiếu
đồng bộ của đội ngũ trí thức và đặt ra yêu cầu phải tăng cường công tác
vận động, tập hợp trí thức vào công tác chính trị - xã hội để đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của thời kì đổi mới.
Đối với trí thức trong nước
Do trí thức có mặt ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà mỗi ngành, lĩnh
vực có những đặc thù riêng, hơn nữa trí thức là đối tượng có đặc trưng
lao động trí óc phức tạp, sáng tạo nên Đảng và Nhà nước đã tập hợp trí
thức dưới nhiều hình thức đa dạng phù hợp với những đặc thù đó và trong
khuôn khổ pháp luật để có thể phát huy tốt năng lực khoa học của đội ngũ
trí thức. Trí thức có thể tập hợp trong các nghiệp đoàn, hội, câu lạc bộ, tổ,
nhóm nhằm giúp họ cống hiến được nhiều nhất thế mạnh của mình.
Phương châm chỉ đạo của công tác vận động trí thức là lấy mục tiêu đưa
đất nước nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu xây dựng một nước Việt
Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đối với trí thức Việt Nam ở nước ngoài
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm thu hút, phát
huy nguồn lực trí tuệ của trí thức Việt kiều, kêu gọi lòng yêu nước, hướng về
quê hương, khuyến khích vật chất và tinh thần đối với bộ phận trí thức, nhà
khoa học là người Việt Nam đang làm việc và nghiên cứu ở nước ngoài.
Đảng và Nhà nước đã ban hành những chính sách và tổ chức các hoạt
động nhằm thu hút trí thức Việt Kiều như:
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 29-11-1993 của Bộ Chính trị về
khuyến khích và tạo điều kiện dễ dàng cho người Việt Nam ở nước
ngoài chuyển giao tri thức, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến,
mời giáo sư và chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài về giảng dạy
16
trong nước, ưu tiên mời chuyên gia là người Việt Nam trong các chương
trình, dự án hợp tác với nước ngoài.
Luật Cư trú, Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Quốc tịch sửa đổi (28-
11-2008) cũng đã đưa ra những điều khoản ưu đãi nhằm thu hút trí thức,
nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài.
Triển khai các chương trình như: gặp gỡ Việt kiều đầu xuân mới;
mời các đoàn Việt kiều tiêu biểu về thăm đất nước trong các dịp lễ lớn,
như ngày giỗ tổ Hùng Vương, ngày giải phóng miền Nam, ngày Quốc
khánh; tổ chức trại hè cho thanh thiếu niên Việt kiều…
2.2. Thành tựu và hạn chế trong xây dựng đội ngũ trí thức Việt
Nam hiệ n nay
2.2.1. Thành tựu trong xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay
Một là, quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước và các cơ quan
quản lý trí thức về xây dựng đội ngũ trí thức có bước tiến mới
Đảng đã nhận thức sâu sắc vai trò đội ngũ trí thức đối với sự hưng
vong của đất nước. Quan điểm đó thể hiện rõ tinh thần tôn trọng, tôn vinh
trí thức, trọng dụng nhân tài, coi nhân tài là vốn quý của quốc gia.
Hệ thống chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và tạo môi trường
phát huy trí tuệ của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
về cơ bản có những bước tiến quan trọng, khắc phục tình trạng yếu kém,
trì trệ của cơ chế bao cấp.
Đảng, Nhà nước và các cơ quan quản lý trí thức đã nhận thức sâu
sắc, đầu tư phát triển nguồn nhân lực nói chung, tiềm lực trí tuệ nói riêng
là đầu tư phát triển, có tầm quan trọng hàng đầu và cấp thiết, tạo được
nguồn lực cho sự phát triển bền vững.
Đảng, Nhà nước và các tổ chức lãnh đạo trí thức đã đề ra nhiều chủ
trương và ban hành những chính sách nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ, mở
rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài, khuyến khích trí
thức phát minh, sáng tạo.
17
Đảng và Nhà nước đã chủ trương xây dựng, đổi mới mô hình tổ chức,
phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các cấp ủy chính quyền, chuyên
môn. Tăng cường công tác phổ biến các chỉ thị, nghị quyết, mở rộng thông
tin hướng trí thức đóng góp vào xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng
và Nhà nước, tham gia xây dựng đất nước giàu mạnh và văn minh.
Hai là, quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng
đội ngũ trí thức từng bước được thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn
Chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức được cụ thể hóa,
pháp chế hóa tại các điều luật và nhiều văn bản dưới luật, được các cấp,
ngành nghiêm túc thực hiện. Luật Khoa học – Công nghệ, Luật Sở hữu trí
tuệ, Luật Giáo dục… được bổ sung, sửa đổi phù hợp với thực tế tình hình
Việt Nam đang hội nhập quốc tế.
Vấn đề sử dụng đội ngũ trí thức bước đầu đã được quán triệt quan
điểm trọng dụng theo tiêu chuẩn đức – tài: sử dụng, bố trí đúng người,
đúng việc, đúng lúc, tin dùng trí thức đã khắc phục được tình trạng cục bộ,
đề cao sản xuất vật chất, coi nhẹ lao động trí óc, coi lao động trí óc là lao
động gián tiếp.
Môi trường cho các hoạt động sáng tạo của trí thức cũng được mở
rộng theo hướng phát huy dân chủ.
Kết quả đạt được:
Nhờ những hoạt động trên của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương, lãnh đạo các ngành mà đội ngũ trí thức đã có bước trưởng thành,
đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Đảng ta đã xây dựng
được một đội ngũ trí thức đông đảo, có trình độ cao, phong phú, đa dạng
về ngành nghề trong đó có nhiều trí thức nữ, trí thức là con em của đồng
bào dân tộc thiểu số.
Đội ngũ trí thức đã thể hiện rõ phẩm chất chính trị , trung thành tuyệt
đối với Đảng và Nhà nước , gắn bó máu thịt với Tổ quốc và nhân dân , thể
hiện rõ lò ng yêu nước, ý thức trách nhiệm xã hội, trăn trở, suy tư trước vận
18
mệnh, tiền đồ của đất nước, của dân tộc, đem hết tài năng, trí tuệ cống hiến
cho sự thịnh vượng của đất nước.
2.2.2. Một số yếu kém, hạn chế trong xây dựng đội ngũ trí thức
Trước hết, là hạn chế trong nhận thức về vai trò, chức năng, nhiệm
vụ của trí thức ở các cấp ủy Đảng, các ngành, địa phương.
Nhiều cấp ủy Đảng, ngành, chính quyền địa phương chưa nhận thức
được vị trí, vai trò của trí thức trong các lĩnh vực hoạt động sáng tạo, chưa
thực sự coi khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo là nguồn động lực
phát triển văn hóa, là nền tảng tinh thần giải quyết thỏa đáng nhu cầu,
nguyện vọng của trí thức.
Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhận thức lệch lạc về các chức
danh khoa học và có tâm lý đề cao bằng cấp, chưa có biện pháp đánh giá
và sử dụng đúng thực tài, dẫn đến tình trạng chạy theo bằng cấp.
Hai là, những hạn chế trong việc đãi ngộ và tôn vinh trí thức.
Chế độ khen thưởng, đãi ngộ đối với các tập thể và cá nhân có các
công trình, sản phẩm khoa học có hiệu quả vẫn còn chưa phù hợp với thực
tế, chưa tương xứng với trí lực bỏ ra, do vậy khó tạo ra được động lực để
đội ngũ trí thức nhất là những chuyên gia, trí thức tài năng chuyên tâm
cống hiến hết mình.
Vấn đề cải thiện thu nhập của trí thức đã được các cơ quan, đơn vị thực
hiện theo những cách thức khác nhau. Nhưng công việc này nhìn chung còn
tùy tiện, nhiều khi thiếu minh bạch. Trí thức phải thường xuyên “vận dụng”
chính sách, chế độ dẫn đến nguy cơ tiêu cực, làm tha hóa trí thức.
Ba là, việc sử dụng và thu hút trí thức còn nhiều bất cập.
Còn thiếu cơ chế, chính sách khắc phục có hiệu quả sự hẫng hụt đội
ngũ khoa học, chuyên gia đầu ngành.
Nhiều chính sách và cơ chế chưa đủ mạnh để trọng dụng người có
tài, có đức và sa thải người không có tài, có biểu hiện suy thoái về đạo
đức, thoái hóa biến chất.
19
Thiếu chính sách phù hợp để thu hút, tập hợp trí thức tham gia tư
vấn, hoạch định và giải quyết những vấn đề trọng yếu của quốc gia.
Chính sách, chế độ đối với cán bộ là người dân tộc thiểu số tuy đã có
nhiều bổ sung nhưng chưa đủ sức thu hút vì chế độ lương và phụ cấp khu
vực vẫn chưa thỏa đáng.
Chưa có chính sách đủ mạnh để thu hút có hiệu quả trí thức Việt kiều
về tham gia xây dựng đất nước, thiếu chính sách lôi cuốn trí thức người
nước ngoài làm việc cho Việt Nam.
Bốn là, những hạn chế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng và công
tác vận động trí thức.
Công tác đào tạo , bồi dưỡng trí thức có chiến lược chưa gắn với
quy hoạch đào tạo , chưa sát với nhu cầu xã hội , gây nên lãng phí và
thiếu hiệu quả , vẫ n để xả y ra tình trạ ng bằ ng cấ p chưa phả n á nh đú ng
trình độ học thuật .
Đầu tư, quản lý đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng trí thức còn nhiều yếu
kém, kinh phí đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức tăng qua các
năm nhưng do thiếu cơ chế đầu tư thích hợp nên hiệu quả còn chưa tương
xứng, việc sử dụng kinh phí còn lãng phí.
Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng trí thức còn thấp, nội dung chương
trình, phương pháp đào tạo ở các bậc học đại học và sau đại học chưa đáp
ứng được đòi hỏi của thời kì đẩy mạnh hội nhập…
Công tác vận động trí thức vẫn chưa đi đúng bản chất, mang nặng
tính học thức, thiếu thực tế, chưa có sức thuyết phục, nên chưa tạo nên một
phong trào cách mạng trong các lĩnh vực hoạt động sáng tạo.
Sự nhận thức về vai trò của trí thức và công tác vận động trí thức của
nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý còn chưa đầy đủ và thiếu thống nhất.
20
2.3. Nhƣ̃ ng giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt hơn việc xây
dựng đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay
2.3.1. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí thức
Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của Đảng theo hướng thực sự
dân chủ, kỷ cương, thiết thực, sâu sát cơ sở, sâu sát quần chúng, làm việc
có chương trình, kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, nói đi đôi với làm.
Đổi mới cách ra nghị quyết, văn kiện và báo cáo phải ngắn gọn, thiết
thực, cụ thể; đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả của hội nghị. Tăng
cường tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, tổng kết việc thực hiện nghị quyết; xây
dựng và thực hiện chế độ báo cáo định kỳ.
2.3.2. Nâng cao chất lượng quản lý giáo dục – đào tạo đội ngũ trí thức
Đổi mới công tác giáo dục – đào tạo đội ngũ trí thức
Đổi mới việc đầu tư cho các cơ sở được Nhà nước giao nhiệm vụ đào
tạo, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước theo hướng có trọng điểm và phải
được kế hoạch hóa chặt chẽ, cụ thể hàng năm, tùy theo tính chất và trình
độ của từng bậc học.
Tuyển chọn những người có học rộng, tài cao, đức độ, rất mực trung
thành với chủ nghĩa xã hội, thuộc các lĩnh vực, tập trung đào tạo, bồi
dưỡng cho họ những tri thức còn thiếu và yếu. Từ đó, bố trí họ vào cơ
quan tham mưu, hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước với những quy định cụ thể về chế độ trách nhiệm, quyền hạn
và lợi ích.
Đào tạo, bồi dưỡng và sát hạch lại đội ngũ giáo viên cả về năng lực và
phẩm chất để sàng lọc khỏi đội ngũ giáo viên những người không phù hợp.
Trong những năm tới, cần sắp xếp các cơ quan đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, công chức chủ chốt của hệ thống chính trị từ Trung ương
đến địa phương vào một hệ thống nhằm kịp thời khắc phục sự chồng chéo,
phân tán, gây lãng phí và để nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, hiệu
quả đầu tư.
21
Sắp xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học – công nghệ và giáo dục –
đào tạo thành một hệ thống có mối liên hệ gắn kết với nhau theo các liên
ngành, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho hợp tác nghiên cứu và ứng dụng
kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.
Kế hoạch hóa công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức.
Để làm tốt công tác đào tạo đội ngũ trí thức, mỗi địa phương, ban
ngành Trung ương phải điều tra, rà soát đội ngũ trí thức hiện có của mình.
Nhờ có sự phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương và địa phương và việc bám
sát công tác quy hoạch cán bộ, đặc điểm, điều kiện, yêu cầu và nhiệm vụ
cách mạng đặt ra, Đảng và Nhà nước cùng các cơ sở đào tạo trí thức đã
đưa công tác đào tạo trí thức phát triển đúng hướng, đáp ứng được những
yêu cầu của thực tiễn cách mạng trước mắt cũng như lâu dài. Thông qua
đó, khắc phục những hạn chế như đào tạo chung chung, đại trà, không
phân biệt rõ nhu cầu, trình độ và điều kiện của các loại đối tượng đào tạo
Tổ chức thực hiện tốt các khâu của quy trình đào tạo, bồi dưỡng kết
hợp với tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng
2.3.3. Tiếp tục đổi mới việc sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh đối với trí thức
Cần phải thực hiện một cách nhất quán quy chế dân chủ và công khai
trong việc đánh giá, nhận xét, sử dụng trí thức.
Cần phải rà soát các chính sách hiện có và ban hành các cơ chế,
chính sách mới bảo đảm để trí thức được hưởng đầy đủ lợi ích vật chất,
tinh thần tương xứng với giá trị từ kết quả lao động sáng tạo của mình.
Việc phong tặng những danh hiệu đối với các nhà khoa học có nhiều
đóng góp, cống hiến cần được đánh giá thật nghiêm túc, đồng thời cần tổ
chức lễ trao giải thật sự long trọng, thiết thực mà tiết kiệm.
22
2.3.4. Tiếp tục đổi mới chính sách thu hút trí thức Việt Nam ở
nước ngoài để đóng góp cho sự nghiệp phát triển của đất nước
Tăng cường công tác thông tin ra nước ngoài, tạo điều kiện để người
Việt nam ở nước ngoài hiểu đất nước, hiểu người trong nước.
Cần nhanh chóng xây dựng một website để trí thức Việt kiều đã hồi
hương nói riêng và trí thức đang sinh sống ở Việt Nam nói chung trao đổi
thông tin, kinh nghiệm với trí thức Việt kiều ở các quốc gia trên thế giới.
Sửa đổi, bổ sung những chính sách có liên quan đến trí thức Việt
kiều một cách rõ ràng, thể hiện chủ trương nhất quán, tôn trọng của Đảng
và Nhà nước.
Tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức Việt kiều về nước với gia đình trong
việc giải quyết thủ tục mua nhà ở, vấn đề visa