3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 7
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ TRÍ THỨC 7
1.1. Quan điểm của V.I. Lênin về khái niệm và đặc trưng của trí thức 7
1.2. Quan điểm của V.I. Lênin về vai trò của trí thức đối với sự phát
triển của xã hội 14
1.3. Quan điểm của V.I. Lênin về xây dựng đội ngũ trí thức 22
CHƯƠNG 2. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM HIỆN
NAY THEO QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN 44
2.1. Thực trạng xây dựng đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay 44
2.2. Thành tựu và hạn ch trong xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam
hiệ n nay 67
2.3. Nhữ ng giả i pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt hơn việc xây dựng
đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay 77
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình xây dựng và phát triển học thuyết của mình, các nhà
kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin rất chú ý đến tầng lớp trí thức, coi trí thức là
lực lượng không thể thiếu trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân.
Xã hội ngày càng phát triển tầng lớp trí thức càng có vai trò to lớn, nhất là
trong các lĩnh vực khoa học – kĩ thuật và văn hóa tư tưởng. Như nhiều nhà
cách mạng chân chính, V.I. Lênin hiểu rõ tầm quan trọng của trí thức. Người
cho rằng trí thức là “niềm tự hào vĩ đại của nhân loại”, là tinh hoa trí tuệ của
mỗi dân tộc, thời đại, là bộ phận cấu thành nguồn nhân lực chất lượng cao, có
vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của mỗi quốc gia dân tộc.
Thực tiễn cách mạng thế giới và ở Việt Nam đã chứng minh những
quan niệm của V.I. Lênin về trí thức là đúng đắn. Ở nước ta, không phải chỉ
đến những năm đầu của thế kỉ XX, vai trò của trí thức mới được đề cao mà
ngay từ thế kỷ thứ XV ông cha ta đã coi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia,
nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước
yếu rồi xuống thấp. Vì thế mà các vị thánh đế và minh vương chẳng ai không
lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sỹ, vun trồng nguyên khí làm việc
đầu tiên” [160, 6].
Trên cơ sở kế thừa di sản tư tưởng của V.I. Lênin về trí thức và tiếp nối
truyền thống của cha ông, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn khẳng định vị trí
quan trọng và vai trò ngày càng lớn của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, tác
động sâu sắc đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, vai trò của đội
ngũ trí thức trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Do vậy, tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã khẳng định: “Trong cách mạng dân tộc, dân
chủ, vai trò của giới trí thức đã rất quan trọng, trong xây dựng chủ nghĩa xã
2
hội, vai trò của giới trí thức ngày càng quan trọng. Giai cấp công nhân nếu
không có đội ngũ trí thức của mình và bản thân giai cấp công nhân không dần
dần được trí thức hóa thì không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội” [35, 116].
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi mới,
trong đó, điều đặc biệt quan trọng là phát triển nguồn lực con người – yếu tố
vừa giữ vai trò như động lực, phương tiện để đạt được mục đích, vừa là mục
đích hướng tới của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và phát triển
đội ngũ trí thức là một phần quan trọng, không thể thiếu của yếu tố nguồn lực
con người. Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng chú
trọng chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ trí thức về mọi mặt, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong điều kiện mới. Đảng ta đã xác định:
“Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ, sức mạnh
của đất nước, của Đảng và của hệ thống chính trị” [44, 81].
Kết quả đạt được là đội ngũ trí thức Việt Nam đã có sự phát triển cả về
số lượng và chất lượng do được Đảng và Nhà nước quan tâm và đề cao. Tuy
nhiên, công tác xây dựng đội ngũ trí thức ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập,
chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng thời kì đổi mới. Đường lối, quan
điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc xây dựng đội ngũ trí thức
còn thiếu đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống. Tổ chức, thực hiện xây dựng đội
ngũ trí thức còn yếu. Thiếu một chiến lược cơ bản và lâu dài trong quy hoạch
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức.
Với lý do như trên tôi chọn vấn đề: “Quan điểm của V.I. Lênin về trí
thức và vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam đã có nhiều bài
viết, công trình nghiên cứu về trí thức nói chung, trí thức Việt Nam nói riêng.
Đặc biệt, từ khi bắt đầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
3
vấn đề trí thức đã được quan tâm nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống
qua một số công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, luận án, luận văn
và các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Có thể phân chia các công
trình này thành các nhóm vấn đề sau:
Nhóm vấn đề liên quan trực tiếp tới quan điểm, chủ trương, chính sách
của V.I. Lênin về xây dựng và phát huy vai trò, tiềm năng trí tuệ của trí thức,
có các công trình tiêu biểu sau:
- Trịnh Quốc Tuấn (1995): “Quan điểm và chính sách của V.I. Lênin đối
với trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (4).
- Trần Hồng Lưu (1995): “Tìm hiểu quan điểm của V.I. Lênin về học
tập và sử dụng trí thức tư sản trong thời kì quá độ”, Tạp chí Triết học, (3).
- Đinh Ngọc Quang (2008): “Thu hút và sử dụng trí thức phục vụ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (7).
- Trần Văn Phòng (2008): “Tư tưởng của V.I. Lênin về kế thừa chủ
nghĩa tư bản trong xây dựng chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Lý luận chính trị, (4).
Ở những công trình trên, các tác giả đã trình bày quan điểm của V.I.
Lênin về việc sử dụng trí thức cũng như chính sách mà Người đưa ra đối với
trí thức trong quá trình lãnh đạo nước Nga xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên
cơ sở đó, tác giả có liên hệ với thực tế ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, các
công trình này mới chỉ dưới dạng bài viết trên tạp chí, nên các tác giả chưa
thể phân tích một cách sâu sắc và trình bày có hệ thống tư tưởng của V.I.
Lênin về trí thức cũng như vị trí, vai trò của họ trong sự phát triển của xã hội.
Nhóm vấn đề mang tính định hướng cho việc nghiên cứu trí thức và
công tác xây dựng đội ngũ trí thức, có các công trình tiêu biểu sau:
- Phan Thanh Khôi (1992): Động lực của đội ngũ trí thức trong lao
động sáng tạo ở nước ta hiện nay, Luận án PTS Triết học, Hà Nội.
- Đỗ Mười (1995): Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới và xây
dựng đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4
- Nguyễn Thanh Tuấn (1998): Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Phan Viết Dũng (1998): Vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án PTS Triết học, Hà Nội.
- Nguyễn Xuân Phương (1999): “Vai trò của trí thức trong công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Thông tin lý luận, (2).
- Phạm Tất Dong (2001): Định hướng phát triển đội ngũ trí thức trong
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Đắc Hưng (2005): Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển
đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Ngô Huy Tiếp (2008): Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với trí thức nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Thông qua những công trình này, người đọc hiểu được một cách cơ bản
về khái niệm, vị trí, vai trò của trí thức; thực trạng đội ngũ trí thức và phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với trí thức. Đồng thời, các tác giả cũng đã gợi
mở một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả lãnh đạo công tác xây
dựng đội ngũ trí thức của Đảng, phát huy cao độ vai trò của trí thức trong thời
kì đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Nhóm vấn đề đi sâu nghiên cứu những bộ phận trí thức cụ thể, có các
công trình tiêu biểu sau:
- Phạm Tất Dong (1997): Khoa học xã hội và nhân văn mười năm đổi
mới và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn An Ninh (1999): Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã
hội trong công cuộc đổi mới đất nước ta, Luận án TS triết học, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Sơn (2000): Cơ cấu và chất lượng trí thức giáo dục đại học
ở nước ta hiện nay”, Luận án TS Triết học, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Ngô Thị Phượng (2007): Vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội
và nhân văn trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, …
5
Qua các công trình trên, các tác giả đã khái quát thực trạng đội ngũ trí
thức trong những lĩnh vực cụ thể. Trên cơ sở đó, họ đề ra một số phương
hướng, giải pháp nhằm khơi dậy động lực sáng tạo cho trí thức trong quá trình
xây dựng đất nước.
Dưới các góc độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau, những công trình
trên đã giải quyết được một số vấn đề lí luận và thực tiễn về trí thức. Tuy
nhiên, những công trình đó chưa đề cập và nghiên cứu một cách hệ thống,
trực tiếp quan điểm của V.I. Lênin về trí thức, công tác xây dựng đội ngũ
trí thức và sự vận dụng quan điểm đó vào xây dựng đội ngũ trí thức Việt
Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Luận văn làm rõ quan điểm của V.I. Lênin về trí thức, xây
dựng đội ngũ trí thức. Vận dụng quan điểm đó, luận văn đề xuất một số giải
pháp để thực hiện tốt hơn nữa việc xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam đáp
ứng yêu cầu của thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm
vụ cơ bản sau:
- Trình bày quan điểm của V.I. Lênin về khái niệm trí thức và đặc trưng
của trí thức.
- Trình bày quan điểm của V.I. Lênin về xây dựng đội ngũ trí thức.
- Đánh giá công tác xây dựng đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn việc xây dựng đội
ngũ trí thức Việt Nam trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước theo quan điểm của V.I. Lênin.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu quan điểm của V.I. Lênin về trí thức và sự vận dụng quan
điểm đó trong xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay.
6
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về tầng lớp trí thức.
Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng, tham khảo kết quả nghiên cứu của
một số đề tài nghiên cứu, luận án, bài viết về vấn đề trí thức và công cuộc xây
dựng đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là phân tích, tổng hợp,
logic và lịch sử, phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể.
6. Đóng góp của luận văn
Làm rõ quan điểm của V.I. Lênin về vấn đề trí thức và công tác xây
dựng đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay.
Đưa ra một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn việc xây dựng đội ngũ
trí thức Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Góp phần vào việc nghiên cứu trí thức nói chung và công tác xây dựng
đội ngũ trí thức nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên quan đến trí thức.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
7
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ TRÍ THỨC
1.1. Quan điểm của V.I. Lênin về khái niệm và đặc trƣng của trí thức
1.1.1. Quan điểm của V.I. Lênin về khái niệm trí thức
Thuật ngữ “trí thức” ở nhiều nước có nguồn gốc từ tiếng Latinh
“intelligentia – intellegentia” chỉ trí lực, trí thức hoặc sự thông minh, hiểu
biết, biết suy nghĩ. Nội dung khái niệm “trí thức” được xác định tùy theo từng
giai đoạn lịch sử cụ thể và ở mỗi nước lại có quan điểm khác nhau. Có xu
hướng mở rộng khái niệm “trí thức” cho rằng trí thức là người lao động trí óc
nói chung. Có xu hướng lại thu hẹp như quan niệm ở châu Âu trước đây, coi
trí thức là những nhà tư tưởng (trước tác) hoặc một số học giả quan niệm chỉ
có một nhóm nhỏ những nhà bác học, sáng chế, phát minh mới là trí thức.
Nhìn chung, các định nghĩa xác định nội dung khái niệm “trí thức” đều dựa
trên đặc trưng lao động trí óc và trình độ học vấn cao của những người trí
thức. Điều đó hoàn toàn đúng nhưng không đầy đủ vì chưa hiểu khái niệm trí
thức bao hàm cả ý nghĩa chính trị - xã hội.
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trước sự thỏa hiệp giữa giai cấp
tư sản với địa chủ phong kiến Nga hoàng để đàn áp phong trào đấu tranh của
nhân dân lao động, V.I. Lênin thấy rõ tính cấp thiết của sự đoàn kết, liên minh
giữa giai cấp công nhân với các tầng lớp lao động khác, đặc biệt là tầng lớp trí
thức. Mặt khác, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới ở nước Nga
sau cách mạng tháng Mười (1917), đòi hỏi phải có sự tập trung sức lực, trí tuệ
của đông đảo nhân dân lao động, đặc biệt là tầng lớp trí thức. Vì vậy, việc
nghiên cứu tầng lớp trí thức trong cơ cấu xã hội – giai cấp đã được V.I. Lênin
quan tâm và luận giải khá rõ. Trong tác phẩm “Một bước tiến, hai bước lùi”,
V.I. Lênin đã viết:
8
“Tôi dùng tiếng phần tử trí thức, để dịch những danh từ Đức Literat,
Literatentum là những danh từ có ý nghĩa bao hàm không chỉ những nhà trước
tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của
lao động trí óc. (Tức là những người mà người Anh gọi là Brain Worker),
khác với những đại biểu của lao động chân tay” [74, 372]. Ở đây, V.I. Lênin
gọi trí thức là đại biểu của lao động trí óc, chứ không phải toàn bộ lao động trí
óc. Các đại biểu này là những người có học thức, tức là có trình độ nhận thức
và chuyên môn nhất định. V.I. Lênin đã lấy tính chất và nội dung lao động
của giới trí thức, trình độ học vấn của họ để làm cơ sở quan niệm trí thức là
một tầng lớp xã hội khác với lao động chân tay. Trong quan niệm của mình về
giới trí thức, V.I. Lênin đã chỉ ra trí thức là “các đại biểu của lao động trí óc”
trong sự phân biệt với “các đại biểu của lao động chân tay”. Vậy, để hiểu trí
thức phải hiểu “lao động trí óc” và muốn hiểu lao động trí óc là gì, phải đặt nó
trong mối quan hệ với lao động chân tay.
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động của mình tác
động vào tự nhiên nhằm khai thác và cải tạo tự nhiên theo những phương thức
nhất định phục vụ cho nhu cầu của mình. Lao động chân tay là quá trình con
người sử dụng những công cụ lao động tác động trực tiếp đến tự nhiên chủ
yếu bằng sức cơ bắp. Lao động trí óc là một trong những cách thức mà một bộ
phận trong xã hội sử dụng để tác động đến tự nhiên một cách gián tiếp. Lao
động trí óc là quá trình người trí thức sử dụng trí tuệ của mình làm phương
thức, công cụ, điều kiện để phản ánh thế giới, hoàn thiện, hình thành sản
phẩm lao động của mình. Sản phẩm của quá trình lao động trí tuệ chính là sự
sáng tạo ra tri thức mới, duy trì, phổ biến và phát triển những giá trị cơ bản
của xã hội loài người.
Sự khác biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay được quy định
bởi sự hao phí năng lượng thần kinh trung ương nhiều hay ít của người lao
động. Trong lao động chân tay, người lao động chủ yếu huy động năng lực cơ
9
bắp, mức hao phí thần kinh trung ương ít hơn. Còn lao động trí óc, mức hao
phí thần kinh trung ương là chủ yếu, do lao động của họ chủ yếu là những
hoạt động thao tác của tư duy. Như vậy, sự khác biệt giữa lao động chân tay
và lao động trí óc là sự khác biệt của hàm lượng trí tuệ bên trong chứ không
phải là biểu hiện bên ngoài của kiểu lao động ấy.
Khi đưa ra quan niệm về giới trí thức, V.I. Lênin đã dùng “danh từ trí
thức để chỉ một người trí thức thông thường, đứng trên miếng đất của xã hội
tư sản, và là một đại diện tiêu biểu cho giai cấp của những người trí thức. Giai
cấp này đang có sự đối kháng nào đó đối với giai cấp vô sản” [74, 372].
Nhưng đây không phải là sự đối kháng về kinh tế mà là sự đối kháng về
phương diện tâm trạng và tư tưởng do hoàn cảnh sống và điều kiện lao động
của họ chi phối. Đó chính là căn cứ để V.I. Lênin đưa ra khái niệm giới trí
thức. Tuy nhiên, ngoài trí thức, còn một bộ phận khá lớn của lao động trí óc là
viên chức. Vì thế, để làm sáng rõ khái niệm giới trí thức theo quan điểm của
V.I. Lênin chúng ta cần phải phân biệt giữa trí thức và viên chức. Sự khác biệt
giữa người lao động trí óc như trí thức và viên chức là ở chỗ viên chức hoạt
động trong lĩnh vực hành chính, pháp lý. Mục đích lao động của đội ngũ viên
chức là phục vụ sự vận hành thông suốt của bộ máy hành chính. Và do lao
động của họ không phải là lao động trí óc phức tạp nên không bắt buộc họ
phải có trình độ học vấn cao, mặc dù xu hướng nâng cao trình độ học vấn của
họ là không tránh khỏi. Cho nên, trong thực tế nhiều trí thức đã sang đảm
nhận công việc của viên chức, hoặc nhiều viên chức đã được đào tạo để có
những tri thức và bằng cấp, học vấn cao đẳng, đại học,… Học vấn cao đặc
biệt cần đối với các viên chức là cán bộ quản lý hành chính, lãnh đạo cơ quan
nhà nước.
Không những thế, V.I. Lênin coi kiến thức cao về khoa học là tiêu
chuẩn cơ bản bên cạnh và cần phải kết hợp với các điều kiện cơ bản khác là
tri thức quản lý hành chính của cán bộ trong xã hội mới. Người viết: “Người
10
lãnh đạo cơ quan nhà nước cần phải có ở mức độ cao khả năng lôi cuốn mọi
người và có đủ trình độ khoa học kĩ thuật vững vàng để kiểm tra công tác của
họ. Đó là điều cơ bản. Không như thế thì công tác không thể tiến hành đúng
đắn được. Mặt khác, một điều rất quan trọng là người lãnh đạo ấy phải biết quản
lý về mặt hành chính và có được người giúp việc hoặc những người giúp việc
xứng đáng trong công việc đó. Sự kết hợp hai phẩm chất ấy trong một con người
vị tất sẽ có được và vị tất là cần thiết” [104, 402 – 403]. Cũng có không ít những
viên chức ngoài công việc của mình ra còn kiêm nhiệm, tham gia lao động sáng
tạo của người trí thức như: giảng dạy, nghiên cứu khoa học, … Những người
này là một ví dụ của xu hướng “trí thức hoá” và sự xích lại gần nhau giữa các
bộ phận lao động trong xã hội. Nếu không phân định rõ ràng trí thức và viên
chức thì dễ dẫn đến việc đào tạo, sử dụng trí thức không thoả đáng, hạn chế
khả năng sáng tạo của đội ngũ này.
Liên quan đến đội ngũ trí thức còn một nhóm xã hội nữa là sinh viên.
Nhiều nhà nghiên cứu coi sinh viên là một bộ phận trong cơ cấu trí thức. Khi
quan sát phong trào đấu tranh của sinh viên Nga, V.I. Lênin đã nhận xét: “Về
mặt chính trị sinh viên là bộ phận nhạy cảm nhất trong giới trí thức, mà sở dĩ
giới trí thức được coi là trí thức vì nó phản ánh và thể hiện sự phát triển của
lợi ích giai cấp và của các nhóm chính trị trong toàn bộ xã hội một cách có ý
thức hơn cả” [73, 416]. Trong xã hội cũ, do có cùng địa vị về cơ cấu giai cấp
– xã hội (tầng lớp trung gian) nên sinh viên, trí thức đều có cùng đặc điểm
chính trị là bếp bênh, mâu thuẫn… Nhưng sinh viên đôi khi có sức mạnh và
sự nhạy cảm chính trị hơn trí thức, do chỗ tập trung lực lượng tuổi trẻ, lòng
hăng hái… Trường đại học là nơi chủ yếu đào tạo trí thức. Ngay khi còn đang
học tập trong các trường đại học, sinh viên đã có những hoạt động khoa học
độc lập hoặc có sự kết hợp, hướng dẫn của giảng viên trong phạm vi đề tài
nghiên cứu chung của trường. Vị trí, trách nhiệm khoa học của một trường đại
học không thể thiếu được sự đóng góp của đông đảo sinh viên. Cho nên, có
11
thể nói sinh viên là một bộ phận của trí thức. Nhưng nhìn tổng thể và chính
xác hơn thì đó là một nhóm xã hội quá độ mà xu hướng chính là bổ sung vào
bộ phận lao động trí óc. Và như vậy, có nghĩa là không phải tất cả sinh viên
đều hoàn thành nhiệm vụ của khóa học và khi ra trường đều đứng vào hàng
ngũ trí thức.
Như vậy, trong quan niệm của V.I. Lênin, trí thức được xác định là một
tầng lớp xã hội, là những người lao động trí óc có trình độ học vấn cao về
lĩnh vực chuyên môn nhất định, hay nói cách khác là người có trình độ
chuyên môn sâu, đại diện cho đỉnh cao trí tuệ đương thời, là người có năng
lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức về khoa học – kĩ
thuật, từ đó thúc đẩy nhanh sự tiến bộ xã hội.
1.1.2. Quan điểm của V.I. Lênin về đặc trưng của người trí thức
Trước hết, trí thức là những người lao động trí óc phức tạp
Trí thức là người lao động trí óc, tuy nhiên lao động trí óc là một khái
niệm rộng, bao hàm những người lao động trí tuệ ở mức giản đơn đến phức
tạp. Một trong những dấu hiệu đặc trưng để nhận biết về trí thức là khả năng
lao động trí óc phức tạp. Lao động trí óc giản đơn và phức tạp phân biệt với
nhau ở mức hao phí năng lượng thần kinh trung ương trong quá trình làm
việc. Lao động trí óc phức tạp cần sự hao phí năng lượng thần kinh trung
ương cao hơn để thực hiện những hoạt động phức tạp của tư duy như phân
tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch… về những sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội thành lý luận, tri thức khoa học mới. Còn lao động trí óc giản
đơn chỉ là hoạt động lặp đi, lặp lại nhiều lần và dần dần thành thói quen, phản
xạ. Lao động trí óc giản đơn gắn liền với lao động chân tay, là dạng cao hơn
của lao động chân tay. Lao động trí óc giản đơn thường tạo ra những tri thức
kinh nghiệm thông thường. Lao động trí óc phức tạp là đặc trưng cơ bản của
người trí thức thực hiện trong quá trình lao động của mình. Lao động trí óc
phức tạp của người trí thức còn là lao động trí tuệ mang tính độc lập cá nhân.
12
Sản phẩm của lao động trí tuệ cá nhân là các giá trị tinh thần. Do vậy, cần
phải khẳng định lại một lần nữa, lao động trí óc phức tạp, sáng tạo là một dấu
hiệu bản chất của người trí thức.
Phân biệt lao động trí óc phức tạp và giản đơn là công cụ, phương tiện
để hiểu tại sao V.I. Lênin lại quan niệm trí thức là đại biểu của lao động trí óc.
Nói trí thức là “đại biểu của lao động trí óc” không phải là đặt dấu bằng giữa
lao động trí óc và trí thức. Như thế khái niệm trí thức là quá rộng và nặng về
số lượng, không chỉ ra được đặc thù của tầng lớp trí thức. Vì vậy, không phải
toàn bộ lao động trí óc là trí thức. Chỉ có những đại biểu nào có trình độ học
vấn cao nhất định mới có khả năng trở thành trí thức và hoàn thành những
nhiệm vụ tương xứng của mình.
Thứ hai, trí thức là một tầng lớp xã hội đặc thù, có tính độc lập tương
đối cao
Theo quan điểm của V.I. Lênin, giai cấp là “những tập đoàn to lớn gồm
những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất nhất
định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những
quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất,
về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về
cách thức hưởng thụ về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
Giai cấp là những tập đoàn, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động
của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ
kinh tế nhất định” [88, 18]. Căn cứ vào định nghĩa này, V.I. Lênin cho rằng trí
thức không phải là một giai cấp bởi: “Khi xã hội phân chia thành giai cấp, cái
quyết định tính chất của các lực lượng xã hội là quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất. Trong xã hội đó, trí thức không có quan hệ riêng và trực tiếp đối với sở
hữu tư liệu sản xuất, trí thức “không hợp thành giai cấp độc lập về kinh tế”
[69, 247]. Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc thù.
13
Tính đặc thù của trí thức thể hiện trong lao động và nghề nghiệp của
họ. Lao động của người trí thức là lao động “chất xám” tạo ra những sản
phẩm trí tuệ. Quá trình thực hiện mặt vật chất của “lao động chất xám” là
thuộc về lao động chân tay. Trong các dạng thức lao động khác nhau, lao
động trí óc phức tạp của người trí thức mang tính sáng tạo rõ nét. Mặc dù
sáng tạo là thuộc tính của lao động nhưng sáng tạo ở mức độ cao về khoa học,
phức tạp về nội dung là thuộc về lao động trí óc. Cho nên, khái niệm “lao
động sáng tạo” thường dùng để chỉ kiểu lao động đặc trưng của trí thức. Sản
phẩm của kiểu lao động này là: tạo ra tri thức mới, tiến bộ, hữu ích; sản phẩm
đa dạng, không lặp lại, mang dấu ấn tác giả và có sự kế thừa rõ rệt. Sự kế thừa
trong sáng tạo làm cho sản phẩm trí tuệ như một dòng chảy liên tục và nhận
thức của nhân loại phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Ngoài ra, để xác định xem một cá nhân cụ thể có phải là trí thức hay
không phải dựa vào đặc thù hoạt động nghề nghiệp của người đó. Tính đặc
thù ấy được thể hiện ở chỗ ngành nghề mà trí thức lao động đòi hỏi cao về
khả năng tư duy độc lập và tính sáng tạo để có thể tạo ra các giá trị vật chất và
tinh thần cho xã hội. Do vậy, trí thức cần phải có trình độ chuyên môn cao.
Một nét đặc trưng nữa của trí thức là tính đa dạng nghề nghiệp do sự phân
công và hiệp tác trong lao động sản xuất tinh thần cùng với sự tồn tại của các
thành phần kinh tế quyết định. Trên cơ sở xác định kết cấu của nền kinh tế
nước Nga khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, V.I. Lênin đã chỉ
ra sự tồn tại của năm thành phần kinh tế mà trí thức hầu hết đều có mặt. Các
thành phần kinh tế đó là: kinh tế nông dân “có tính chất tự nhiên”, sản xuất
hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân, chủ nghĩa tư bản nhà nước, chủ
nghĩa xã hội. Sự đa dạng trong nghề nghiệp của trí thức không chỉ biểu hiện ở
sự có mặt tại các thành phần kinh tế mà còn biểu hiện trong quá trình lao
động sáng tạo, từ các công đoạn và lĩnh vực sáng tạo cho đến tính đặc thù của
những thiên hướng cá nhân. Tính chất phức tạp nói trên khiến cho sự phủ
14
định về mặt lao động sáng tạo trong nhiều trường hợp không rõ ràng. Trong
thực tế, một số trí thức hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, song
do thiên hướng cá nhân nên vẫn có thể sáng tác văn chương nghệ thuật. Hoặc
một số trí thức thuộc biên chế nhà nước vẫn có thể hợp tác, liên kết với các
thành phần kinh tế khác trong hoạt động khoa học, chuyển giao công nghệ.
Do đó, trong đội ngũ trí thức có không ít nhóm trí thức ở “vùng giáp ranh”
hoặc mang tính đa năng nghề nghiệp.
1.2. Quan điểm của V.I. Lênin về vai trò của trí thức đối với sự
phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa
Trong cơ cấu xã hội, trí thức “Không hợp thành một giai cấp độc lập về
kinh tế” [69, 247]. Không có hệ tư tưởng riêng và địa vị kinh tế - xã hội độc
lập, song ở bất kỳ chế độ xã hội nào, trí thức cũng có vai trò quan trọng đối
với việc thúc đẩy xã hội phát triển.
1.2.1. Vai trò của trí thức trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, xây dựng hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân
Trí thức là người có hiểu biết và trình độ văn hóa cao hơn so với tầng
lớp xã hội khác. Hơn nữa, trí thức rất “nhạy bén” trong việc tiếp nhận các trào
lưu tư tưởng và quan điểm chính trị mới. Cho nên, trí thức thường đóng vai
trò trong việc nghiên cứu lý luận, xây dựng và truyền bá hệ tư tưởng, nâng
cao ý thức tự giác trong các phong trào cách mạng. Nói về lực lượng trí thức
trong xã hội tư bản, V.I. Lênin nhấn mạnh “Sẽ là sai lầm nếu quên rằng, tầng
lớp trí thức này có khả năng đại diện đầy đủ hơn những lợi ích cơ bản của
toàn bộ giai cấp tư sản cũng như nông dân. Và trí thức cũng sẽ trở thành một
lực lượng to lớn trong cuộc đấu tranh chống chế độ quân chủ, khi được gần
gũi với nông dân” [76, 109]. Họ thường đóng vai trò lực lượng “châm ngòi”,
“ngòi nổ” của nhiều biến cố chính trị và các phong trào xã hội. Khi mà trình
độ dân trí còn thấp, trí thức thường là người phát ngôn cho các nguyện vọng
dân chủ vào thời kỳ đầu của phong trào.
15
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, những người trí thức
tiến bộ đã sáng tạo ra các học thuyết lý luận (triết học, chính trị - xã hội…)
tạo tiền đề tư tưởng cho các cuộc cách mạng xã hội. Bản thân những tư tưởng
tiên tiến không thể đánh bại sự thống trị vật chất của giai cấp thống trị nhưng
nó trở thành “vũ khí tư tưởng” không thể thiếu được của giai cấp vô sản trong
quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Đối với cuộc cách mạng của
giai cấp công nhân, chính trí thức đã góp phần quan trọng trong xây dựng hệ
tư tưởng chính trị cho giai cấp công nhân, tiếp thu, truyền bá nó vào phong
trào công nhân dẫn đến sự ra đời của chính Đảng cộng sản, đưa phong trào
công nhân từ tự phát lên tự giác. Điều này đã được V.I. Lênin chỉ rõ trong tác
phẩm “Làm gì” khi ông đồng ý với nhận định của Cauxky rằng: “ý thức xã
hội chủ nghĩa ngày nay chỉ có thể nảy sinh được trên cơ sở một sự hiểu biết
khoa học sâu sắc… vậy mà người nắm được khoa học lại không phải là giai
cấp vô sản mà là người trí thức tư sản. Chính chủ nghĩa xã hội đã nảy sinh ra
trong đầu óc một vài người thuộc lớp đó và chính nhờ họ mà chủ nghĩa xã hội
đã truyền đến những người vô sản tiên tiến nhất về mặt trí thức, những người
này sau đó lại đem chủ nghĩa xã hội đưa vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản” [71, 49]. Những tư tưởng tiến bộ ấy không phải là kết quả của tư duy tư
biện của các nhà khoa học mà là sự phản ánh hiện thực bởi các nhà trí thức
tiên tiến. Họ đã nhìn thấy những mặt trái của xã hội đương thời, lên án và đòi
hỏi phải thay thế nó bằng một xã hội tốt đẹp hơn. Mác và Ăngghen là những
ví dụ điển hình.
Một trong các tư tưởng mà những người trí thức tiến bộ đã truyền bá
vào phong trào công nhân chính là lý luận về cách mạng vô sản. Theo quan
điểm của V.I. Lênin, muốn có cách mạng vô sản phải có lý luận cách mạng
soi đường. Lý luận về cách mạng vô sản của C. Mác và Ph. Ăngghen chính là
đỉnh cao của tri thức nhân loại. Nó là tổng hợp những tri thức khoa học về
triết học, lịch sử, kinh tế của nhiều thời đại. Đó chính là sản phẩm trí tuệ của
16
các đại biểu trí thức tiên tiến đương thời mà tiêu biểu là C. Mác và Ph.
Ăngghen – những người đã sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học hiện đại.
Trong học thuyết về cách mạng vô sản, các ông đã khẳng định một chân lý:
đối với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản chỉ có thể liên
minh với giai cấp công nhân và trí thức tiến bộ thì mới hoàn thành được sứ
mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Điều đó đã được Ph. Ăngghen khẳng định:
“Sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân cần những kỹ sư, bác sĩ, nhà nông
học và các chuyên gia khác, bởi vì vấn đề là ở chỗ giành quyền lãnh đạo
không phải chỉ bộ máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa,
và ở đây cần đến những kiến thức vững chắc chứ không phải là những luận
điệu huyênh hoang rỗng tuyếch” [7, 31].
Trên cơ sở kế thừa di sản lý luận của C. Mác và Ph. Ăngghen, tổng kết
thực tiễn lịch sử nhiều nước trên thế giới, V.I. Lênin đã vận dụng sáng tạo và
phát triển quan điểm đó vào hoàn cảnh cụ thể của nước Nga Xôviế t để lãnh
đạo phong trào cách mạng đi đến thắng lợi.
Ngoài ra, trí thức là những người đóng vai trò quan trọng trong việc tạo
lập cơ sở lý luận cho cương lĩnh cách mạng, đường lối chính trị của giai cấp
công nhân và cho việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội, văn hóa –
tinh thần, … để giai cấp công nhân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Nhờ vậy, đã góp phần giải phóng sức sản xuất, phát huy nhân tố con người,
chuyển giao công nghệ, đẩy mạnh sản xuất, tạo bước chuyển biến trên nhiều
lĩnh vực khoa học – kĩ thuật, khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo. Nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa đã được trí thức tham gia tổng kết, từng bước làm sáng tỏ góp phần giữ
vững ổn định chính trị, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Khi cuộc đấu tranh gay gắt giữa tư bản và lao động trong các nước tư
bản chủ nghĩa diễn ra, một số nhà trí thức đã ngày càng nhận rõ bộ mặt thật
của chủ nghĩa đế quốc và những chính sách phản động của nó. Qua đó, họ
17
ngày càng nhận rõ trách nhiệm của mình đối với tiến bộ xã hội. Mặt trận đấu
tranh chống độc quyền ở các nước tư bản phát triển, phong trào đấu tranh
cho hoà bình, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới ngày càng thu hút
đông đảo các nhà trí thức tiến bộ, chân chính đã gần gũi với những người
cộng sản và chủ nghĩa cộng sản. Họ đấu tranh cho lí tưởng của một xã hội
cao đẹp với tất cả tiềm năng, trí tuệ của mình. Giới trí thức trong xã hội tư
bản chủ nghĩa, từ chỗ là người bạn đồng minh tiềm tàng ngày nay đang trở
thành người bạn đồng minh thực tế của giai cấp công nhân trong cuộc đấu
tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nói tóm lại,
trong tất cả các xã hội có đối kháng giai cấp, nếu không kể một số phần tử
trí thức trong giai cấp thống trị hoặc gắn bó mật thiết với nó thì nhìn chung
sự hoạt động của tầng lớp trí thức, thông qua những thành tựu sáng tạo trong
nhiều lĩnh vực khác nhau, luôn góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp.
1.2.2. Vai trò của trí thức trong lãnh đạo và quản lý đất nuớc
Theo quan niệm của V.I. Lênin, lãnh đạo là hướng dẫn hoặc chỉ đạo
một quá trình hoạt động. Lãnh đạo là gây ảnh hưởng đến hành vi hoặc quan
điểm của người khác. Sự am hiểu về mặt lý luận và thực tiễn sẽ giúp cho chủ
thể lãnh đạo có được sự nhạy cảm về chính trị. V.I. Lênin cho rằng khi mà
chính trị đòi hỏi một sự chuyển biến kiên quyết, một sự mềm dẻo và một
bước quá độ khéo léo thì những người lãnh đạo phải hiểu được điều ấy. Để có
định hướng đúng, đề ra đúng lúc một hành động tích cực, người lãnh đạo cần
phải phát huy và tận dụng được trí tuệ của mọi người, chú ý đến kinh nghiệm
thực tiễn, chắt lọc những giá trị và điều cơ bản là phải có “lý luận dẫn đường”
[71, 32]. V.I. Lênin cũng đặt ra yêu cầu đối với chủ thể lãnh đạo trong đó có
trí thức là phải “áp đặt” được ý chí của mình cho khách thể lãnh đạo. Những
chủ trương, đường lối chiến lược, sách lược dù có đúng đắn nhưng không có
sự ủng hộ, hưởng ứng và thực hiện thì những văn kiện, nghị quyết thể hiện
18
chúng chỉ là mớ giấy lộn mà thôi. Theo V.I. Lênin, phải quán triệt thực hiện
tinh thần “đa số công nhân giác ngộ đoàn kết lại, nhất trí với những nghị
quyết ấy một cách trung thực” [68, 103]. Theo quan điểm của V.I. Lênin thì
trí thức - với tư cách là chủ thể quản lý phải có lòng trung thành với sự
nghiệp, chính quyền, có trình độ, tri thức khoa học, có uy tín, chuyên môn và
năng lực thực tiễn. V.I. Lênin viết: “Muốn quản lý và tổ chức nhà nước, thì
chúng ta phải có những người biết kỹ thuật quản lý, có kinh nghiệm trong
việc quản lý kinh tế và quản lý nhà nước” [95, 294]. Người cũng yêu cầu
những người trí thức khi tham gia công tác quản lý phải thực hiện đúng chức
năng thẩm quyền của mình, không được lạm quyền, nhất là đối với những
người tập trung trong tay mình quyền hạn lớn. Để thực hiện việc quản lý được
tốt, theo quan điểm của V.I. Lênin, cần phải đánh giá lại cán bộ lãnh đạo khi
họ không thể thích ứng được với nhiệm vụ mới. Việc đánh giá lại cán bộ cần
tiến hành theo định kỳ, đảm bảo sự khách quan và công tâm.
Trí thức là những người tiến bộ và với những ưu thế về trình độ học
vấn, chuyên môn, khả năng sáng tạo… có thể đáp ứng được những yêu cầu
đối với chủ thể lãnh đạo mà V.I. Lênin đã đưa ra. Khi coi trí thức là tầng lớp
trung gian, lệ thuộc về tư tưởng đối với các giai cấp khác, V.I. Lênin vẫn đánh
giá rất cao khả năng, sức mạnh và tính độc lập của trí thức trong xã hội. Hơn
nữa, do sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ, vai trò của trí thức
ngày càng trở nên quan trọng hơn. Trí thức được xem là lực lượng hạt nhân
trên mọi lĩnh vực của đời sống và có vị trí đặc biệt trong quản lý đất nước. Do
sự xích lại gần nhau giữa các loại hình lao động mà nhiều trí thức đã tham gia
vào công tác quản lý, lãnh đạo hoặc là người cố vấn chính trị cho giai cấp
công nhân. Nhiều trí thức đã tham mưu cho Đảng của giai cấp công nhân
vạch ra đường lối lãnh đạo đúng đắn. Mà theo V.I. Lênin, những người cộng
sản “Chỉ có thể lãnh đạo nhân dân đi theo con đường của mình với điều kiện
là họ vạch ra được con đường đó cho đúng, không những chỉ đúng theo
19
hướng đi của lịch sử thế giới mà thôi” [68, 117]. Đường lối đúng là kết quả
của quá trình hoạch định của những người lãnh đạo trong đó có sự đóng góp
đáng kể của người trí thức. Đường lối của một Đảng lãnh đạo được biểu hiện
ở các văn kiện, nghị quyết. Do đó, có thể căn cứ vào những văn bản ấy để
đánh giá sự sáng suốt, đúng đắn hay sự thiển cận và sai lầm của chủ thể lãnh
đạo trong việc đề ra các chủ trương, đường lối.
V.I. Lênin đã dựa vào thực tiễn lịch sử nước Nga để khẳng định và
đánh giá cao tính tích cực cách mạng của trí thức. Ông cho rằng, trí thức
thường đóng vai trò là các chính luận gia, diễn giả và lãnh tụ chính trị ở khắp
nơi. Nói về lực lượng trí thức trong xã hội tư bản, V.I. Lênin nhấn mạnh “Sẽ
là sai lầm nếu quên rằng tầng lớp trí thức này có khả năng đại diện đầy đủ hơn
những lợi ích cơ bản của toàn bộ giai cấp tư sản cũng như nông dân và trí
thức cũng sẽ trở thành một lực lượng to lớn trong cuộc đấu tranh chống chế
độ quân chủ, khi được gần gũi với nông dân” [76, 109].
1.2.3. Vai trò của trí thức trong việc nâng cao dân trí, phát triển
khoa học
Năm 1917, cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi, song song với việc
xây dựng chính quyền, nhà nước Xôviết đã thực hiện chính sách cộng sản thời
chiến. Tuy có những thành công nhất định, nhưng chính sách cộng sản thời
chiến đã để lại không ít khó khăn, ảnh hưởng đến nền kinh tế, nhất là nông
nghiệp. Cuối năm 1920, đầu năm 1921, nội chiến kết thúc, chính quyền
Xôviết bước sang xây dựng nền kinh tế trong điều kiện hết sức khó khăn. Một
trong những khó khăn lớn nhất là đa số quần chúng nhân dân lao động và tầng
lớp thanh thiếu niên bị mù chữ và nghèo đói. Với lực lượng lao động như vậy
thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội được. Trước tình hình
cấp bách đó, V.I. Lênin yêu cầu những người cộng sản phải đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ nâng cao dân trí cho quần chúng nhân dân lao động và tầng lớp
20
thanh thiếu niên song song với những mặt trận hàng đầu khác, kết hợp giữa
học tập và lao động sản xuất.
Dân trí là vấn đề hết sức cơ bản trong bài toán tăng trưởng kinh tế. Dân
trí không đơn thuần là vấn đề “được đi học”, mà là sự hiểu biết về khoa học,
công nghệ, sản xuất, quản lý, đạo đức và pháp luật để ứng dụng vào lao động
sản xuất, dịch vụ xã hội và vào mọi công việc liên quan đến sự phát triển văn
hóa, văn minh.
Nói đến dân trí là đề cập tới vấn đề tri thức và thông tin với tư cách là
một yếu tố quan trọng trong nguồn nhân lực. Bất kỳ một quốc gia đang phát
triển nào, nếu biết đề cao yếu tố “tri thức” và “thông tin”, bỏ qua chiến lược
phát triển tuần tự, chuyển sang áp dụng chiến lược nhảy vọt, tập trung vào các
ngành công nghệ cao và dựa vào chúng để tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đều đạt được những thành công to lớn.
Nói đến tăng trưởng kinh tế là phải nói đến dân trí, đến tri thức của con
người và nguồn tài nguyên trí tuệ của quốc gia. Do đó, theo quan điểm của
V.I. Lênin, giáo dục là một lĩnh vực phải có sự đầu tư thích đáng. Như vậy,
một trong những nội dung quan trọng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội là giáo dục con người, giáo dục quần chúng nhân dân lao động nói chung
và tầng lớp thanh, thiếu niên nói riêng, để họ tin và đi theo chủ nghĩa xã hội.
Từ đó, họ tự giác tham gia xây dựng đất nước, đưa nước Nga từ lạc hậu trở
thành hùng cường. V.I. Lênin cho rằng: “nhà giáo cũng giống như một đội
quân trên mặt trận, đội quân này phải tự mình đề ra những chương trình,
những nhiệm vụ nhằm nâng cao dân trí. Muốn làm được điều đó, bản thân các
nhà sư phạm phải tự mình “vô sản hoá” trong sự nghiệp giáo dục, tức là phải
tự mình hoà mình vào quần chúng, phải giải thoát cuộc sống và tri thức khỏi
sự phục tùng vào tư bản, khỏi ách tư sản… Nhiệm vụ của nền sư phạm mới là
gắn liền với hoạt động của các nhà giáo với nhiệm vụ tổ chức xã hội theo chủ
nghĩa xã hội” [81, 253].
21
Ngoài ra, trí thức còn có vai trò quan trọng trong việc sáng tạo ra các
giá trị tinh thần nhằm nâng cao trình độ văn hóa cho quần chúng nhân dân. V.I.
Lênin qua các tác phẩm của mình đã chỉ cho những người cộng sản thấy, ở tất
cả các chế độ bóc lột, bao giờ giai cấp thống trị cũng tìm mọi cách giam hãm
quần chúng lao động trong vòng ngục tối và dốt nát. Chúng bao giờ cũng lạm
dụng những thành tựu của khoa học và kĩ thuật vào việc đầu độc tư tưởng quần
chúng. Với việc sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hiện đại, giai cấp
thống trị đã truyền bá lối sống suy đồi, trụy lạc, kích thích những ham muốn
thấp hèn. Những phương tiện thông tin đại chúng như vô tuyến truyền thanh,
truyền hình đã được những người trí thức tiến bộ sử dụng để đẩy mạnh sự giao
lưu văn hoá giữa các dân tộc, tạo điều kiện cho con người có thể hấp thụ được
những tinh hoa của nền văn minh thế giới. Mặt khác, trong các xã hội ấy, các
văn hào, nghệ sỹ tiên tiến - những người sáng tạo ra các tác phẩm văn học, hội
họa, âm nhạc… mang nội dung tư tưởng tiến bộ, tình cảm cao đẹp, đã góp phần
làm cho đời sống tinh thần của quần chúng ngày thêm phong phú, trong sáng…
Tất cả những cái đó, một lần nữa, khẳng định vai trò to lớn của trí thức, các đại
biểu sáng tạo của loài người đối với sự tiến bộ xã hội.
Bên cạnh việc nâng cao trình độ văn hóa, trí thức còn đóng vai trò
quan trọng trong việc phát triển khoa học. Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa xã
hội rất cần trí thức và sự phát triển khoa học, đồng thời tạo mọi điều kiện để
đội ngũ trí thức phát huy vai trò của mình. Tư tưởng coi trọng khoa học, tri
thức nhân loại đã được V.I. Lênin nhấn mạnh khi nói chuyện với thế hệ trẻ.
Trong diễn văn tại đại hội III của Đoàn thanh niên cộng sản Nga tháng mười
năm 1920, V.I. Lênin đã chỉ rõ “thật là sai lầm khi nghĩ rằng chỉ cần thấm
nhuần tổng số những kiến thức mà chính bản thân chủ nghĩa cộng sản cũng là
kết quả… Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí
óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”
[98, 362]. Đội ngũ trí thức đã có công lao to lớn trong việc khám phá bí mật
22
của thiên nhiên, đóng góp nhiều phát minh quan trọng có ý nghĩa lâu dài đối
với nền văn minh loài người. Đồng thời, nó cũng ý nghĩa trực tiếp đối với
việc phát triển nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, đặc biệt đối với việc phát triển
lực lượng sản xuất của xã hội.
1.3. Quan điểm của V.I. Lênin về xây dựng đội ngũ trí thức
1.3.1. Quan điểm của V.I. Lênin về việc cải tạo trí thức cũ, chuyên
gia tư sản
Sau khi tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế
giới, nhân dân Xôviết, dưới sự lãnh đạo của V.I. Lênin và Đảng Bônsêvích
Nga đã bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng một xã hội mới – xã hội xã hội
chủ nghĩa. Đối với nhân dân Xôviết đây là một sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ,
được bắt đầu trong những điều kiện hết sức khó khăn của một đất nước bị tàn
phá sau chiến tranh. Vì vậy, để vượt qua được khó khăn, thách thức này đòi
hỏi phải có sự tham gia của tầng lớp trí thức. Nhận thức đúng vai trò của tầng
lớp trí thức trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngay từ năm 1902, khi
cách mạng vô sản chưa thắng lợi, V.I. Lênin đã chỉ ra rằng: “Cũng như bất cứ
giai cấp nào khác của xã hội hiện đại, giai cấp vô sản không những tạo ra tầng
lớp trí thức riêng của mình mà còn thu nạp cả những người ủng hộ mình trong
tất cả mọi người có học thức” [72, 480]. Đó chính là con đường của quá trình
hình thành đội ngũ trí thức mới, nhất là trong giai đoạn đầu khi giai cấp công
nhân mới giành được chính quyền. Một mặt, khôn khéo sử dụng và cải tạo trí
thức cũ, mặt khác, tích cực đào tạo trí thức mới từ công nhân và nông dân.
Thực tế, trong quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân lao động ở
Nga, giới trí thức có sự phân hóa. Một bộ phận ủng hộ giai cấp bóc lột, thống
trị, đấu tranh chống lại chính quyền Xôviế t và phá hoại sự nghiệp cách mạng
của nhân dân. Bộ phận khác (phần đông) những nhà trí thức bị bóc lột, áp bức
dưới chế độ Nga hoàng đón chào cách mạng tháng Mười như là một cứu tinh,
đưa lại ánh sáng cho nhân loại. Họ đứng về phía nhân dân và theo chính
23
quyền Xôviết. Những nhà khoa học thiên tài bậc nhất thế giới như Pavơlốp,
Timiriadiep, những nhà văn và những thi hào xuất chúng như Macxim
Goorki, những nhà khoa học thực nghiệm như Misurin từ những ngày đầu
cách mạng thành công, đã đứng hẳn về phía cách mạng và hết sức trung thành
với chế độ mới. Còn một bộ phận nữa đứng trung gian giữa lực lượng cách
mạng và phản cách mạng.
Với sự phân hóa như vậy, V.I. Lênin cho rằng, cách mạng phải cải tạo
cả người lạc hậu và trung gian, phải hết sức tranh thủ giáo dục để họ thoát
khỏi trạng thái trung gian, trở thành người tiến bộ. Đối với người tiến bộ, phải
giúp họ tiến lên, giúp họ học tập tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin, tẩy sạch
ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản, cá nhân chủ nghĩa và duy tâm trong tư tưởng
của họ. Cần phải bồi dưỡng nhiều chuyên gia đỏ và rất nhiều người có nguyện
vọng đó. Phải có nhiệt tình giúp họ tự cải tạo và thực hiện nguyện vọng này,
mọi thái độ bài xích và khinh thường họ đều là sai lầm.
V.I. Lênin đặt vấn đề cải tạo trí thức cũ, bởi vì bản thân họ còn có
những thói quen xấu. Họ còn mang những quan điểm tiêu cực của xã hội cũ,
mắc bệnh tự cao, tự đại, luôn luôn tự cho mình là hơn hết, khinh rẻ lao động,
coi thường nhân dân lao động, không muốn hợp tác với công nông, đi ngược
lại yêu cầu đoàn kết giữa công nông và trí thức. Trong quá trình cải tạo trí
thức cũ, theo V.I. Lênin, phải quan tâm đến đặc trưng, đặc điểm của tầng lớp
trí thức cũ để có chủ trương, biện pháp, sách lược đúng. Những người trí thức
cũ hầu hết đều xuất thân từ giai cấp hữu sản, được đào tạo trong môi trường
xã hội tư sản, do đó “họ tiêm nhiễm hơn ai hết thiên kiến dân chủ tiểu tư sản
và những thành kiến ái quốc chủ nghĩa”, “họ quen sống cuộc đời tư sản với
tiện nghi nhất định” nên trước những chuyển biến cách mạng có khó khăn
không thể tránh khỏi hoang mang, dao động. Những người trí thức cũ có bản
chất nhu nhược, sợ hãi trước sự sụp đổ của chế độ Nga hoàng, của giai cấp tư
sản mặc dù đối với chế độ cũ có lúc họ đã đòi và đấu tranh để xóa bỏ. Sự chấp
24
nhận chế độ mới đối với trí thức cũ lúc đầu không phải dễ dàng, nhất là quá
trình hình thành chế độ đó diễn ra trong cuộc đấu tranh gay gắt bằng bạo lực
của chuyên chính vô sản.
Quá trình cải tạo trí thức cũ là sự chuyển biến từ thái độ thù địch sang
trung lập rồi sang thái độ ủng hộ Bônsêvích. Đó là quá trình từ tự phát đến tự
giác. Ngày càng nhiều trí thức ủng hộ chính quyền Xôviết, đứng về phía nhân
dân, đấu tranh cho sự nghiệp của giai cấp công nhân, trở thành một trí thức
của công nhân và nông dân. Phương châm cơ bản trong những quan điểm, tư
tưởng của V.I. Lênin đối với tầng lớp trí thức cũ là cải tạo để sử dụng và sử
dụng để cải tạo tốt hơn.
Trong “Bản đề cương tóm tắt bàn về chuyên chính vô sản”, V.I. Lênin
cho rằng việc cải tạo, sử dụng các chuyên gia tư sản là một trong những hình
thức đấu tranh giai cấp của thời kì quá độ. Tất nhiên, trong cuộc đấu tranh
đó, không loại trừ sự trấn áp cần thiết những âm mưu phản cách mạng của
một số trí thức tư sản và cô lập “những trí thức tư sản bất trị” ra khỏi giai
cấp tư sản. Song, những biện pháp cưỡng bức đối với một số trí thức tư sản
chống lại chính quyền nhân dân không phải là nội dung chủ yếu của việc cải
tạo trí thức. Chính việc giành lấy trí thức, thu hút, cải tạo và sử dụng họ
trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới của giai cấp vô sản mới là nội dung
chủ yếu. Đây là đặc trưng của cuộc đấu tranh không phải chống lại trí thức
mà vì trí thức. V.I. Lênin viết: “Người ta không thể loại trừ, tiêu diệt những
người trí thức tư sản mà phải chiến thắng họ, cải tạo họ, rèn luyện lại họ và
giáo dục lại họ” [96, 125].
Việc cải tạo bộ phận trí thức cũ theo V.I. Lênin không phải là một công
việc đơn giản mà vô cùng phức tạp . Do vậy , phải sử dụng “phương pháp
Xôviế t”. Cải tạo trí thức theo “phương pháp Xôviết” tức là phải chiến thắng
họ bằng sức mạnh tinh thần của giai cấp vô sản, bằng tổ chức và kỷ luật chặt
chẽ. Ở đây, V.I. Lênin không “thay bạo lực bằng ảnh hưởng tư tưởng”. Người