Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TIỂU LUẬN (TRIẾT học MAC LÊNIN 1) mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, vận dụng phân tích mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.88 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
MƠN : NGUYÊN LÝ MÁC – LÊNIN 1

Đề tài :

Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn .
Vận dụng phân tích mối liên hệ giữa đổi
mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta

Sinh viên thực hiện
:
Lớp
:
MSSV
:
Giáo viên hướng dẫn
:

Hà Nội

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
MƠN : NGUYÊN LÝ MÁC – LÊNIN 1


Đề tài :

Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn . Vận dụng
phân tích mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi
mới kinh tế ở nước ta

Sinh viên thực hiện
Lớp
MSSV

Hà Nội

2

:
:
:


LỜI MỞ ĐẦU

Vấn đề quan hệ giữa lý luận và thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt
trong triết học xã hội của chủ nghĩa Mác. Tầm quan trọng đó không chỉ ở
chỗ: "Quan điểm về đời sống về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ
bản của lý luận về nhận thức". Kinh nghiệm đấu tranh, bảo vệ và xây dựng
tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã đem lại cho chúng ta bài học vô giá là: "Đảng
phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh
đạo đúng đắn của đảng". Chính vì vậy việc tìm hiểu mối quan hệ biện chứng
giữa lý luận và thực tiễn là cần thiết.

Trong quá trình thực hiện tiểu luận này , dù đã cố gắng hết sức nhưng
không thể tránh khỏi sai sót .Mong được các thầy cơ chỉ dạy .
Em xin chân thành cảm ơn !

3


1. MỐI LIÊN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG LÝ L UẬN VÀ HOẠT
ĐỘNG THỰC TIỄN
1.1. Thực tiễn là gì ?
Để giải quyết vấn đề nêu trên, theo em trước hết cần phải xác định rõ
khái niệm thực tiễn phân biệt nó với khái niệm hoạt động, sau đó là với khái
niệm hoạt động lý luận. Trong các tài liệu khoa học, có rất nhiều định nghĩa
khác nhau về thực tiễn, nhưng có thể nói, chưa có một ý kiến thống nhất về
vấn đề này. Tính đến các quan điểm khác nhau, em xin trình bày vắn tắt
quan điểm của em về khái niệm thực tiễn như sau.
Thứ nhất, thực tiễn là hình thức hoạt động đặc thù người. Khái niệm
thực tiễn đặc trưng cho hoạt động sống của xã hội loài người.
Thứ hai, thực tiễn là hoạt động người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Đây là điểm khác biệt của thực tiễn so với hoạt động nhận thức.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động được chủ thể tiến hành để đạt tới mục
đích được đặt ra từ trước.
Thứ tư, thực tiễn mang tính chất lịch sử xã hội. Đó là những đặc điểm
chung của thực tiễn mà nhiều tác giả đã nhất trí.
Vậy thực tiễn là gì? Theo em, có thể xác định thực tiễn là hoạt động
của một chủ thể lịch sử cụ thể, trong quá trình hoạt động ấy nó tiến hành cải
tạo vật chất đối với hiện thực một cách phù họp với các mục đích của bản
thân, với mơ hình lý tưởng và với trí thức của nó về hiện thực và nhờ mối
liên hệ giữa đối tượng hóa và giải đối tượng hố trong q trình này mà nó
tự cải tạo chính bản thân mình. Định nghĩa này có thể hơi dài, song nó cho

phép thâu tóm được mọi hình thức đa dạng của thực tiễn xã hội và phân biệt
nó với các hoạt động không phải là hoạt động thực tiễn. Điều cơ bản trong
định nghĩa này là ở chỗ khẳng định rằng bằng hoạt động của mình, chủ thể
chuyển cái tinh thần, ý niệm thành cái vật chất và qua đó, thể hiện ra là lực
lượng tích cực của sự cải tạo.

4


1.2. Phân biệt thực tiễn và hoạt động
Vậy thực tiễn và hoạt động khác nhau ở điểm nào? Phải lưu ý rằng có
nhiều tác giả đã đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Theo em, hoạt động
hiểu theo nghĩa chung nhất là phương thức tồn tại và phát triển hiện thực
lịch sử. Một số tác giả đã dựa vào câu nói của C.Mác - "Đời sống xã hội, về
thực chất, là có tính chất thực tiễn" - để đồng nhất hai khái niệm "thực tiễn"
và "hoạt động". Theo em, khơng có cơ sở để đồng nhất hai khái niệm đó.
Câu nói mang tính ngun tắc đó của C .Mác cần phải được hiểu là: Thực
tiễn là phương thức mà con người tác động qua lại với thế giới và cải tạo thế
giới đó. Mác đem quan điểm đó đối lập lại với quan điểm của chủ nghĩa duy
vật trực quan của Phoiơbắc. Khơng phải lý luận, mà chính thực tiễn là cái
tạo thành bản chất của các mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên ở trong lòng
xã hội. Bản thân quan hệ lý luận cần được tách biệt và lý giải dưới dạng một
thành tố không thể tách rời được của thực tiễn. Song, không nên đồng nhất
bản chất của quá trình với bản thân quá trình. Có quan điểm cho rằng, bất kỳ
hình thức hoạt động nào (lý luận chẳng hạn) cũng đều có liên quan đến thực
tiễn xã hội, phục tùng nó, phát triển trên cơ sở của nó. Quan điểm khác lại
coi bản thân hoạt động lý luận là thực tiễn. Thực tiễn bao giờ cũng là sự vật
chất hóa các ý niệm, là phương thức chuyển cái ý niệm thành cái vật chất,
còn hoạt động lý luận là quá trình ngược lại, mặc dù nó bắt nguồn từ thực
tiễn.Qua đó có thể kết luận rằng phạm trù "hoạt động", xét về ngoại diên, là

rộng hơn phạm trù "thực tiễn".
1.3. Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn
Vậy thì vấn đề quan hệ giữa hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn
với tư cách là hai lĩnh vực cơ bản nhất của hoạt động xã hội phải được hiểu
như thế nào?
Đây là hai phương thức quan hệ khác nhau với thế giới. Kết quả của
quan hệ lý luận là tái hiện lại đối tượng trong ý thức, là mơ hình lý luận của
đối tượng. Còn kết quả của hoạt động thực tiễn là sự cải tạo vật chất đối với
5


đối tượng. Thực tiễn chỉ có mặt ớ nơi có các hình thức hoạt động có đối
tượng cảm tính, có sự cải tạo đối tượng trên chực tế, chứ không phải là trong
suy nghĩ. Do vậy theo em, hoạt động lý luận khoa học, giáo dục, tuyên
truyền không phải là thực tiễn. Bản thân khoa học chỉ có khả năng đem lại
bức tranh lý tưởng về thế giới trong nhưng đặc trưng, bản chất của nó. Vấn
đề cũng khơng thay đổi cả khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất vật
chất trực tiếp. Bởi khi đó, bản thân lực lượng sản xuất tồn tại với tư cách là
hình thức được đối tượng hố của khoa học, cịn khoa học vân tiếp tục là
hình chức hoạt động tinh thần của con người, là sự phản ánh lý tưởng hiện
thực.
Vậy phải chăng thực tiễn chỉ đơn giản là sử dụng đối tượng mà khơng
có tính chủ quan, tính hướng đích? Theo em, đây là vấn đề quan trọng để
phân biệt hoạt động /ý luận với thực tiễn. Đúng là thực tiễn khơng thể thiếu
ý thức. Song luận điểm đó khơng chứng tỏ sự đồng nhất của hai hình thức
hoạt động khác nhau là thực tiễn và lý luận. Thứ nhất cần lưu ý rằng tham
gia vào thực tiễn chỉ gồm có các kết quả đã đạt được trong quá trình nhận
thức trước đó. Các kết quả đó đối với hoạt động lý luận có một giá trí độc
lập, cịn đối với hoạt động thực tiễn thì chỉ là cơ sở lý luận, có giá trị như là
một mơ hình của tương lai. Ý thức và sản phẩm của nó ( mục đích, mơ hình,

lý tưởng), trong trường hợp này, khơng có một giá trị độc lập, nó khơng có
nhiệm vụ cải biến đối tượng cảm tính của tự nhiên hay xã hội. Thứ hai,
đương nhiên là có một cơ chế (cho dù nó chưa được nghiên cứu đấy đủ) để
đưa các kết quả hoạt động lý luận vào thực tiên. Chính cơ chế này đã chế
định một khuynh hướng nghiên cứu mới - nghiên cứu triển khai. Đây là một
lĩnh vực mới mẻ, địi hỏi chúng ta phải có những nỗ lực to lớn. Song một
điều hiển nhiên là thực tiễn cải tạo xã hội do quần chúng tiến hành đòi hỏi
phải hoạch định mục đích, chương trình, phải nhận thức các nhiệm vụ chiến
lược và sách lược. Chính vì vậy mà nó khơng thể thiếu lý luận, lý luận được

6


tiếp biến vào các mục đích và các chương trình, phục tùng nhiệm vụ cơ bản
của thực tiễn cải tạo xã hội.
Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn bao giờ cũng tồn tại một mối liên
hệ không thể tách rời. Song cho dù thực tiễn có hàm lượng lý luận nhiều đến
đâu đi chăng nữa, thì thực tiễn và lý luận vẫn tồn tại với tư cách là hai lĩnh
vực tương đối độc lập của hoạt động xã hội và bao giờ hình ảnh lý tưởng
(kết quả của hoạt động lý luận) cũng đi trước hoạt động thực tiên. Nói cách
khác, hoạt động bao giờ cũng bao hàm hai khâu cơ bản và mối liên hệ giữa
chúng luôn mang tính lịch sử - cụ thể - đó là khâu nhận thức lý luận (sản
xuất ra tri thức) và khâu thực tiễn (cải tạo hiện thực ).
Mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, theo em, còn được làm sáng tỏ
hơn và cụ thể hơn khi chúng ta xét nó từ quan hệ chủ thề - khách thể. Thực
tiễn là khâu trung gian cơ bản giữa chủ thể và khách thề. Chủ thể ở đây
không đơn giản là con người có tư duy lý luận, con người bằng xương thịt.
Chủ thể được thể hiện qua tồng thể các đặc trưng xã hội của nó, cịn thực
tiễn là phương thức cơ bản để nó tác động đến khách thể. Thực tiễn có thề
nói, là hình thức liên hệ thực tại khách quan, nhờ đó mà chủ thể tự đối tượng

hố bản thân, các ý định và mục đích của mình trong khách thề, phát triển
các năng lực của mình. Như vậy, ngồi thực tiễn, chủ thể khơng có một
phương thức nào để chuyển từ bức tranh lý tưởng về thế giới sang việc thực
hiện nó trong thế giới.
Nếu ở phần trên chúng ta đã nói rằng thực tiễn là quá trình cải tạo vật
chất hiện thực, thì thơng qua quan hệ chủ thể - khách thể, thực tiễn thể hiện
là phương thức chủ thể chuyển hoá cái ý mệnh mục đích, động cơ...) thành
cái vật chất (khách thể được cải tạo phù hợp với mục đích). Trọng tâm ở đây
được đặt vào hai mặt của một quá trình thống nhất: Từ cái ý niệm đến cái
vật chất. Nếu chúng ta nhấn mạnh, tuyệt đối hoá sự cải tạo vật chất, thì sự
định hướng thực tiễn bởi ý thức sẽ bị biến mất, và do vậy, thực tiễn bị biến
thành một hành vi máy móc, vơ thức. Cịn nếu tuyệt đối hoá sự sự chuyển
7


biến cái ý niệm thành cái vật chất, thì chúng ta khơng thể quan niệm thực
tiễn là một q trình khách quan, và như vậy sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Từ đó suy ra rằng thực tiễn và lý luận khơng thể là tuyệt đối đối lập với
nhau. Tính tương đối của sự đối lập ấy trước hết được quy định bởi điều là:
Quan hệ lý luận của con người với thế giới khơng bao giờ có thề là quan hệ
tuyệt đối biệt lập với thực tiễn. Hơn nữa, quan hệ lý luận luôn phục tùng
thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát triển trên cơ sở cải tạo thực tiễn xã hội.
Nó, rốt cuộc, phải dựa trên cơ sở quan hệ thực tiễn với hiện thực. Đến lượt
mình vốn là hoạt động của chủ thể có ý thức và ý chí, thực tiễn ln bao
hàm quan hệ lý luận của chủ thể với khách thể với tư cách là vịng khâu đặt
mục đích của hoạt động thực tiễn.
Song, sự đối lập tuyệt đối đó khơng có nghĩa là khơng có sự đối lập
tuyệt đối giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận do thực tiên chế định và phục vụ
thực tiễn, song chúng có tính độc lập tương đối, mang những đặc trưng riêng
của hoạt động. Cả khi tạo thành một thể thống nhất trong khuôn khổ của

hoạt động xã hội, chúng vẫn là những mặt khác nhau của hoạt động đó. Chỉ
khi được đưa vào thực tiễn, ý niệm, tư tưởng, lý luận mới có thể "cải tạo"
thế giới. Nếu dừng lại trong lĩnh vực ý thức, chúng khơng có khả năng cải
biến một cái gì ngồi khả năng ý thức. Các tư tướng, tự chúng, không phải là
thực tiễn, mơ hình lý tướng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo vật chất chỉ
là mô. hình lý luận. Theo em, cần phái nhấn mạnh tính đặc thù, tính độc lập
của lý luận để khơng rơi vào chủ nghĩa thực dụng thiển cận, để phát hiện ra
các quy luật phát triển của riêng lý luận, tính kế thừa lẫn nhau giữa các hình
thái ý thức xã hội khác nhau.
Song, cũng cần nhấn mạnh một điều khác là: Tính độc lập tương đối
của lý luận là có tính chất tương đối. Thí dụ, lý luận cách mạng hồn tồn
khơng phải là thực tiễn cách mạng. Tuy nhiên vốn được sinh ra bởi các nhu
cầu của thực tiễn xã hội, lý luận cách mạng trở thành một bộ phận cấu thành
tất yếu của thực tiễn xã hội. Khi tiên đoán tương lai, bản thân lý luận bắt
8


nguồn từ thực tiễn quá khứ và hiện tại. Lý luận hồn thành một chức năng
nào đó trong xã hội khơng phải là ở ngồi khn khổ của thực tiễn, mà là ở
bên trong bản thân thực tiễn xã hội.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, theo em cần được vạch rõ cả
trên các bình điện bản thể luận lẫn nhận thức luận. Trước hết cần phải phân
biệt tính chất của mối liên hệ này với tính chất của mối liên hệ giữa ý thức
và vật chất. Vật chất có thể tồn tại thiếu ý thức, song thực tiễn không thể tồn
tại thiếu ý thức, đương nhiên là hình thức vả trình độ của ý thức có thể rất
khác nhau ( cho tới tư duy lý luận). Nếu các đặc tính "thử nhất" và "thứ hai"
áp dụng được vào quan hệ giữa vật chất và ý thức, thì chúng lại không áp
dụng được vào quan hệ giữa thực tiễn và ý thức. Theo em, ở đây chỉ có thể
nói tới phương diện chủ đạo của một chủ thể thống nhất. Nói cách khác, xét
về phương diện bản thể luận, lý luận và thực tiễn tạo thành một thể thống

nhất trong hoạt động xã hội tổng hợp. Sự đối lập của chúng trong khuôn khổ
của sự thống nhất này là tương đối. Mặc dù vật chất và ý thức là các mặt đối
lập tương đối về mặt bản thể luận, song vật chất là tiên đề, là nguyên nhân
phát sinh của ý thức, trong khi đó thực tiễn khơng thể thiếu ý thức.
Xét về phương diện nhận thức luận, nếu vật chất và ý thức là tuyệt đối
đối lập , thì thực tiễn và lý luận lại khơng tuyệt đối đối lập nhau. Mọi ý kiến
khác đều có nghĩa rằng thực tiễn, về nguyên tắc, không thể là phương tiện
đối chiếu tri thức về hiện thực và bản thân hiện thực. Trong lý luận nhận
thức, tri thức về đối tượng tuyệt đối độc lập với bản thân lý luận. Các nhà
duy vật trước Mác đã nhìn thấy điều đó nhưng họ không biết đối chiếu tri
thức với đối tượng và do vậy, họ đã bất lực trước các lý lẽ của chủ nghĩa duy
tâm và bất khả lý luận. Nếu tuyệt đối đối lập thực tiễn với lý luận, thì chúng
ta cũng sẽ vấp phải vấn đề đó. Vậy, đâu là bước chuyển từ lý luận đến thực
tiễn? Trong khi đó cuộc cách mạng được C.Mác thực hiện trong nhận thức
luận chính là ở chỗ: ơng đã đưa thực tiễn vào lý luận nhận thức ở lĩnh vực
mà ý thức tuyệt đối đối lập với vật chất, Mác đã phát hiện ra khâu trung
9


gian, bước chuyển từ cái ý niệm đến cái vật chất và từ cái vật chất đến cái ý
niệm. Thực tiễn xã hội hồn thành vai trị thước đo chân lý và cơ sở của
nhận thức chính là do nó không đối lập tuyệt đối mà đối lập tương đối với ý
thức về mặt nhận thức luận và do nó luôn là hệ thống những hoạt động
nhằm đạt tới mục đích xác định. Do vậy, khơng nên tuyệt đối hố cả tính
chủ quan lẫn tính khách quan của thực tiễn.

2. PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀ ĐỔI
MỚI KINH TẾ Ở NƯỚC TA
(Toquoc)- Sau hơn hai thập kỷ đổi mới tính từ Đại hội Đảng lần thứ
VI năm 1986, Việt Nam đã có được những thành tựu căn bản trên nhiều bình

diện. Từ một quốc gia nghèo, Việt Nam đã ở vào nhóm các nước đang phát
triển có mức tăng trưởng kinh tế cao, với thu nhập GDP đầu người trên
1.000 USD.
Tuy nhiên, trong bối cảnh chịu tác động tiêu cực của khủng hoảng tài
chính tồn cầu, nền kinh tế nước ta đang đối mặt nhiều khó khăn, thách
thức.
Kinh tế nước ta khơng rơi vào suy thoái, chỉ bị suy giảm và đang phục
hồi là kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, sự lo âu vẫn cịn đó bởi lẽ khủng
hoảng tài chính và suy thối kinh tế toàn cầu với đầy đủ hệ lụy của nó, cho
dù nghiêm trọng đến đâu đi nữa rồi cũng sẽ qua đi, vấn đề còn lại cần quan
tâm là kinh tế nước ta sẽ phục hồi với nhịp độ nào, kéo dài trong bao lâu và
sẽ tiếp tục phát triển ra sao sau khủng hoảng.
2.1. Điểm yếu cơ bản .
Một câu hỏi đã được đặt ra mười năm trước, khi nổ ra khủng hoảng
kinh tế, tài chính châu Á (1997- 1998), đến nay vẫn cịn ngun ý nghĩa, đó
là giả sử khơng có khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu, kinh
tế nước ta có rơi vào tình trạng khó khăn khơng? Câu trả lời chắc chắn là có,
bởi vì ngun nhân suy giảm kinh tế khơng chỉ đến từ bên ngồi, mà cịn do

10


những nguyên nhân nội tại. Tác động từ bên ngoài chỉ làm bộc lộ ra một số
điểm yếu trong cơ cấu, cơ chế của kinh tế Việt Nam.
Em cho rằng chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả đầu tư thấp
đang là chỗ yếu cơ bản của nền kinh tế, thậm chí mới có dấu hiệu về sự xuất
hiện nguy cơ có tăng trưởng mà khơng có phát triển. Điều đó tác động xấu
tới văn hóa, xã hội, gây bất ổn kinh tế vĩ mô, từng đợt đẩy lạm phát lên
cao...
Có thể nêu ra vài biểu hiện cụ thể của điểm yếu cơ bản nêu trên.

Một là, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào vốn đầu tư, trong khi huy
động vốn cho đầu tư phát triển luôn bị những giới hạn khó vượt qua. Đầu tư
nhiều nhưng hiệu quả thấp, có khơng ít trường hợp sai từ chủ trương đầu tư,
kéo quá dài thời gian xây dựng, thi công ẩu, phải tốn nhiều công sức và tiền
của để khắc phục... tuy có tăng thêm GDP nhưng khơng tăng thêm năng lực
sử dụng; vốn đầu tư bị thất thoát vẫn được tính vào GDP nhưng khơng làm
tăng thêm giá trị mới...
Hai là, kết cấu hạ tầng lạc hậu khá xa so với yêu cầu và đang cản trở
sự lạc hậu khá xa so với yêu cầu và đang cản trở sự phát triển.
Ba là, chi phí sản xuất cao và đang có xu hướng tăng lên, tiêu hao
năng lượng, vật tư cho một đơn vị sản phẩm quá lớn.
Bốn là, năng suất lao động thấp và tăng rất chậm; và cuối cùng, cơ
cấu kinh tế, cả theo ngành, vùng, miền và thành phần đều chuyển dịch
chậm...
Hệ quả của tăng trưởng kém chất lượng không chỉ làm cho sự phát
triển kém bền vững, mà cịn kìm hãm tốc độ tăng trưởng, làm mất ổn định
kinh tế vĩ mô, làm cho sức cạnh tranh của cả nền kinh tế, của từng ngành và
từng sản phẩm đều kém. Và hệ quả tất yếu có tính chất tổng hợp là lạm phát
cao, đời sống giảm sút, nhất là các đối tượng thu nhập thấp, người về hưu,
những người hưởng các chính sách xã hội; mơi trường bị ơ nhiễm nặng...
Theo đó đời sống văn hóa, tinh thần cũng có nhiều mặt bị ảnh hưởng xấu.
11


2.2. Đổi mới tư duy kinh tế
Nguyên nhân chủ quan cũng có nhiều, ở đây tơi chỉ muốn nói đến
ngun nhân điều hành. Lạm phát của Việt Nam trong những năm 2004 2007 thuộc nhóm các nước có mức lạm phát cao trong khu vực, cịn năm
2008 thì nước ta có mức lạm phát cao nhất. Điều đó cho thấy, công tác điều
hành kinh tế vĩ mô, điều hành tiền tệ không phải lúc nào cũng hợp lý. Hoặc
với cơ cấu hàng xuất khẩu, nước ta, chủ yếu là xuất ngun liệu thơ, hàng

gia cơng, vậy nên chỉ cần có biến động nhỏ từ bên ngồi cũng đủ gây khó
khăn lớn cho ta... Hoặc chính sách phân cấp quản lý đầu tư toàn diện và triệt
để, mặc dầu cần thiết nhưng thiếu sự chuẩn bị, cụ thể là chuẩn bị về quy
hoạch, cơ chế chính sách, về bộ máy và cán bộ... vì thế đã gây nên những
mất cân đối, lãng phí.
Em cho rằng, chúng ta phải khơng ngừng đổi mới tư duy kinh tế,
chống “bệnh thành tích” và thay đổi nếp nghĩ “theo nhiệm kỳ” còn tồn tại ở
nhiều bộ, ngành, địa phương.
Với cách nghĩ này chỉ muốn đạt kết quả trước mắt, và chú trọng đến
tốc độ tăng trưởng, chứ chưa nhìn nhận đúng mối quan hệ giữa tốc độ tăng
trưởng, chứ chưa nhìn nhận đúng mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng
tăng trưởng.
Cần tiếp tục đổi mới đồng bộ và toàn diện ngay trong giai đoạn chịu
tác động xấu của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thối tồn cầu. Trước
đây nhờ đổi mới, Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, thì
nay trong q trình phát triển đang gặp những khó khăn thì càng phải đổi
mới. Theo tơi giờ đây phải triển khai luôn hai loại công việc. Thứ nhất tiếp
thu hoàn thiện, đổi mới cơ cấu kinh tế, kể cả vĩ mơ và vi mơ, từng bước
vững chắc thốt khỏi tình trạng chất lượng tăng trưởng chưa cao như hiện
nay. Thứ hai là tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, vì có nhiều chính sách
đúng ngày hơm qua nhưng hôm nay đã là lực cản.

12


KẾT LUẬN
Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là một q trình mang tính lịch sử xã hội cụ thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt được tính
chất biện chứng của q trình đó, theo em, là tiền đề quan trọng bậc nhất
giúp chúng ta ln có được một lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh được
chủ nghĩa thực dụng thiển cận, cũng như chủ nghĩa giáo điều máy móc và

bệnh lý luận sng.
Như trên đã nói, rất nhiều vấn đề có ý nghĩa cơ bản đối với sự phát
triển nhanh và bền vững nhưng chưa tác động ngay đến tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Thậm chí, có thể trước mắt những yếu tố này còn làm cho kinh tế
tăng chậm lại như việc bảo vệ môi trường, việc phát triển con người cả về trí
tuệ và thể chất...
Do đó, giai đoạn trước đã không tạo được điều kiện tiền đề cho sự
phát triển nhanh và bền vững của giai đoạn tiếp theo, thậm chí cịn để lại
gánh nặng cho giai đoạn sau.
Do q coi trọng tốc độ tăng trưởng GDP; nên việc thu hút đầu tư, kể
cả vốn đầu tư bên ngoài, nhất là ở tầm địa phương, chỉ chú trọng vốn nhiều,
bất chấp tính khả thi của dự án, bất chấp tác hại đến môi trường, chấp nhận
cả công nghệ lạc hậu...
Dư luận xã hội chưa yên tâm về việc sử dụng tài sản và vốn đầu tư, về
phân phối thu nhập của DNNN. Kinh tế hợp tác xã đến nay còn nhỏ bé, lúng
túng trong phát triển. Kinh tế dân doanh tuy có sức sống mạnh mẽ nhưng
chưa có mơi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng... Khu vực FDI cũng đã
xuất hiện vấn đề về chất lượng, hiệu quả đối với nền kinh tế.

13


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................3
1. MỐI LIÊN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG LÝ L UẬN VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN
..................................................................................................................................................4
1.2. Phân biệt thực tiễn và hoạt động..........................................................................5
1.3. Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn....................................................................5
2. PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀ ĐỔI MỚI KINH TẾ
Ở NƯỚC TA.........................................................................................................................10

2.1. Điểm yếu cơ bản ................................................................................................10
2.2. Đổi mới tư duy kinh tế........................................................................................12

KẾT LUẬN..................................................................................................13

14



×