Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bài tập học kỳ môn Tổ chức và hoạt động của TAND, VKSND (9 điểm) Đề bài: “Sự kế thừa và phát triển quy định về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong lịch sử lập pháp Việt Nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.25 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Trang:


MỞ ĐẦU
Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống cơ quan trong bộ
máy nhà nước có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân cùng với
tòa án nhân dân được hình thành gắn liền với nhiệm vụ cách
mạng của Nhà nước trong mỗi giai đoạn, góp phần đấu tranh
chống mọi hành vi phạm tội, nhằm bảo vệ lợi ích dân tộc, chế
độ xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Trong lịch
sử lập Hiến, Viện kiểm sát nhân dân không ngừng phát triển để
phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cũng như yếu tố thời đại của
từng giai đoạn khác nhau, chính vì vậy, để tìm hiểu về quá
trình hình thành cũng như sự phát triển của Viện kiểm sát nhân
dân trong từng thời kỳ, em xin chọn đề bài “Sự kế thừa và phát
triển quy định về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong
lịch sử lập pháp Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho bài tập
học kỳ môn “Tổ chức và hoạt động của toàn án nhân dân và
Viện kiểm sát nhân dân” của mình.

2


NỘI DUNG
I. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Viện
kiểm sát nhân dân
Cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám năm 1945
thành công, nước ta giành được độc lập, tự do. Trong bối cảnh
mới giành được chính quyền, hệ thống cơ quan tư pháp Cách


mạng cũng được hình thành nhằm góp phần bảo vệ Nhà nước
non trẻ, trong đó có sự hình thành cơ quan Cơng tố. Công tố
Viện cũng như chức năng công tố được quy định ở nhiều văn
bản như Sắc lệnh số 33-A ngày 14/9/1945, Sắc lệnh số 7 ngày
15/01/1946, Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946, Sắc lệnh số 42
ngày 03/4/1946, Sắc lệnh số 131 ngày 20/7/1946... do Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký ban hành.
Cơ quan Công tố ban đầu nằm trong hệ thống Tồ án,
nhưng sau đó đã tách ra thành một hệ thống cơ quan độc lập;
có vị trí, vai trị quan trọng trong tố tụng hình sự và bộ máy
Nhà nước ta.
Trong giai đoạn từ năm 1945 - 1959, hoạt động điều tra
không chỉ nằm trong một Cơ quan điều tra mà cịn ở nhiều bộ
phận khác: Kiểm sốt viên Kiểm lâm, Hoả xa, Thương chính và
tất cả các viên chức mà pháp luật giao phó nhiệm vụ cho tư
pháp cơng an đối với những việc phạm pháp riêng cho từng
ngành (Điều 3 Sắc lệnh số 131). Toàn bộ hoạt động điều tra
trong giai đoạn này đều thuộc quyền kiểm soát, điều hành của
Công tố Viện, mà trực tiếp là Biện lý, Phó Biện lý và trên hết là
Chưởng lý ở Toà thượng thẩm. Quy định này của pháp luật cho
thấy hoạt động điều tra thực chất là hoạt động công tố (nhưng
ở giai đoạn tiền công tố), giúp cơ quan công tố thay mặt Nhà
nước buộc tội người phạm tội trước Toà án. Các nhân viên và cơ
3


quan có thẩm quyền điều tra khơng theo sự chỉ đạo của cơ
quan chủ quản hành chính mà đều dưới sự chỉ đạo của Công tố
Viện; đồng thời, pháp luật cũng có quy định bảo đảm để các cơ
quan này phải tuân theo sự chi đạo đó, như Điều 13, Sắc lệnh

số 131 đã ghi nhận: “Việc bổ sung, thăng thưởng và trừng phạt
hành chính những uỷ viên Tư pháp công an không phải là
Thẩm phán viên đều làm sau khi hỏi ý kiến của Biện lý và
Chưởng lý”.
Năm 1950, Đảng và nhà nước tiến hành cuộc cải cách tư
pháp, thành lập tòa án nhân dân các cấp. Tổ chức và hoạt
động của Viện cơng tố có sự thay đổi cơ bản. Điều 15 Sắc lệnh
số 85-SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố
tụng quy định: “Cơng tố viên có quyền kháng cáo về việc hộ
cũng như về việc hình”. Biện lý chỉ chuyển hồ sơ sang phòng
dự thẩm điều tra thêm về vụ phạm pháp nếu xét thấy cần.
Ngày 7/6/1950 Thủ tướng Chính phủ ra thông tư số 21/TTg và
thông tư liên bộ số 18/BKT-TT ngày 8/6/1950 của bộ kinh tế và
Bộ tư pháp quy định quyền quản lí, chỉ đạo, điều hành của ủy
ban kháng chiến hành chính đối với Viện cơng tố địa phương:
“Ủy ban các cấp điều khiển Viện công tố trong địa hạt mình,
Ủy ban kháng cHiến hành chính có thể ra mệnh lệnh cho Viện
công tố. Đại diện Viện công tố phải tuân theo mệnh lệnh của
Ủy ban”.
Cùng với việc hồn thiện bộ máy nhà nước nói chung, Viện
cơng tố từng bước được kiện toàn và phát triển. Năm 1959,
thực hiện theo tinh thần các văn bản: Nghị quyết ngày
29/9/1958 của Quốc hội khóa I, Nghị định số 256/TTg ngày
01/07/1959 và nghị định số 321/TTg ngày 2/7/1959 của chính
phủ, các Viện công tố được tổ chức thành hệ thống gồm: Viện
4


công tố trung ương, Viện công tố địa phương (tỉnh, huyện,
qn sự) trong đó, Viện cơng tố trung ương thuộc chính phủ có

trách nhiệm, quyền hạn ngang như một bộ. Tiếp đó ngày
31/12/1959, Quốc hội khóa I thơng qua Hiến pháp 1959. Nếu
như do hoàn cảnh lịch sử, Hiến pháp năm 1946 chưa quy định
về cơ quan cơng tố thì Hiến pháp năm 1959 dành chương VIII
(từ điều 105 đến108) quy định về Viện kiểm sát nhân dân –
một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước. Ngày
26/7/1960 Lệnh của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hịa
số 20 LCT cơng bố luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, và
ngày 18/4/1962, chủ tịch nước ban hành Lệnh số 12/LCT về tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Kể từ đó đến nay, Viện kiểm sát nhân dân trở thành một hệ
thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và được quy định trong chương X Hiến
pháp năm 1980, 1992. Đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Nhà
nước trong giai đoạn mới. Quốc hội đã tiền hành sửa đổi bản
Hiến pháp năm 1992. Sau một thời gian lấy ý kiến nhân dân,
bản Hiến pháp mới đã được Quốc hội thông qua ngày
28/11/2013 và chủ tịch nước đã cơng bố ngày 8/12/2013, có
hiệu lực bắt đầu kể từ ngày 01/01/2014.
Hiến pháp mới dành chương VIII quy định về toàn án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân. So với các bản Hiến pháp trước
đó, những quy định của chương VIII có nhiều thay đổi, vừa đảm
bảo tính kế thừa, vừa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển bộ
máy nhà nước. Cùng với đó, ngày 24/11/2014, Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân cũng được ban hành.

5


II. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong lịch

sử lập pháp Việt Nam
1. Giai đoạn sau cách mạng tháng Tám năm 1945
đến trước năm 1959
Từ năm 1945 đến năm 1958, cơ quan Công tố nước ta chưa
được tổ chức thành một hệ thống cơ quan độc lập mà được đặt
trong hệ thống cơ quan Tòa án, được giao thực hiện đồng thời
hai chức năng là: Thực hành quyền công tố và giám sát các
hoạt động tư pháp (chỉ đạo điều tra, trực tiếp điều tra một số
loại tội phạm; quyết định việc truy tố; buộc tội trước tòa; kháng
cáo bản án, quyết định của tòa án và giám sát việc chấp hành
pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử, giam giữ, cải tạo và
thi hành án; tham gia trong một số loại việc dân sự quan trọng
để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích của xã hội). Chức
năng, nhiệm vụ đó của cơ quan Cơng tố nước ta có nhiều điểm
tương đồng với Viện Công tố nhiều nước theo truyền thống luật
của châu Âu, điển hình là nước Cộng hịa Pháp.
Có thể nói ở giai đoạn này, chức năng của viện công tố đã
được xác định tương đối cụ thể và rõ ràng, thẩm quyền được
mở rộng, không chỉ được giới hạn ở thực hành quyền công tố,
giám sát hoạt động điều tra, mà còn trực tiếp tiếng hành điều
tra, thực hiện giám sát đối với các hạt động tư pháp và tham
gia hoạt động tố tụng dân sư, có quyền kháng cáo cả bản án
hình sự và dân sự. Cơ quan cơng tố được tổ chức thành bộ máy
độc lập, đó là bước phát triển quan trọng trong tổ chức và hoạt
động của viện công tố, là bước phát triển quan trọng trong tổ
chức và hoạt động của viện công tố, là bước chuổn bị cho việc
chuyển cơ quan công tố thành hệ thống Viện kiểm sát nhân
dân vào năm 1960.
6



2. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến
pháp 1959 và luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1960
Từ năm 1960 đến năm 1975 là thời kỳ của quá trình hình
thành hệ thống tổ chức Viện kiểm sát nhân dân các cấp ở miền
Bắc. Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
của Đảng năm 1960, Hiến pháp năm 1959, Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1960 và các luật lệ hiện hành, kế thừa
kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của Viện Cơng tố, tồn
ngành Kiểm sát vừa tiến hành củng cố, xây dựng lực lượng, tổ
chức bộ máy, vừa thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong đấu
tranh phòng chống tội phạm và các việc làm vi phạm pháp
luật. Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, Viện kiểm sát các cấp
định hướng công tác kiểm sát gắn với việc phục vụ các nhiệm
vụ chính trị, xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh
giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Hiến pháp 1959 cùng với luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 1960 là hai cơ sở pháp lý quan trọng đầu tiên cho tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, trong đó, Điều
2, luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy định chức năng của
Viện kiểm sát như sau: “Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc
tuân theo pháp luật làm cho pháp luật được chấp hành một
cách nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế dân chủ nhân dân
được giữ vững”. Theo quy định của pháp luật các chức năng
này được thực hiện bằng cách:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các nghị quyết,
quyết định, thông tư, chỉ thị và biện pháp của các cơ quan
thuộc Hội đồng chính phủ và của các cơ quan nhà nước ở địa


7


phương, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của nhân viên Nhà
nước và của công dân.
- Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố
trước tịa án nhân dân những người phạm pháp về hình sự.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của
các trại giam.
- Khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự
quan trọng liên quan đến lợi ích của nhà nước và cơng dân.
Như vậy, ở giai đoạn này, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện
hai chức năng chính, đó là chức thực hành quyền cơng tố và
kiểm sát chung. Có thể thấy, phạm vi chức năng của giai đoạn
này rất rộng, liên quan đến việc chấp hành pháp luật của các
bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan chính quyền địa
phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân và công dân.
3. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến
pháp 1980 và luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1981
Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp
1980 và luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 so với
Hiến pháp năm 1960 và luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 1961 khơng có nhiều thay đổi. Viện kiểm sát nhân dẫn
vẫn giữ hai chắc năng chính là chức năng thực hành quyền
công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tuân theo pháp luật
hay còn gọi là chức năng kiểm sát chung. Tuy nhiên, về chức
năng thực hành quyền công tố, Hiến pháp năm 1980 ra đời đã
hoàn thiện thêm một bước hệ thống Viện kiểm sát. Điều 138,

Hiến pháp 1980 khẳng định: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân
8


theo pháp luật của các bộ và các cơ quan khác thuộc hội đồng
bộ trưởng… Thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Như vậy, chức
năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát lần đầu tiên
đã trở thành chức năng Hiến định. Theo Hiến pháp 1960 thì
việc thực hành quyền công tố được xác định như là một hoạt
động thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Đến Hiến pháp năm 1980, chức năng này được hiểu là một
chức năng độc lập. Trong quá trình kiểm sát chung, nếu phát
hiện có vi phạm pháp luật đến mức truy cứu trách nhiệm hình
sự thì Viện kiểm sát có quyền truy tố người phạm tội ra trước
tòa án để xét xử, đảm bảo không để lọt tội phạm. Cụ thể:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các văn bản
pháp quy của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác
thuộc Chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phương; kiểm
sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan Nhà nước nói
trên, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công
dân;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của
các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của
Toà án nhân dân;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân;

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ và
cải tạo;

9


- Điều tra tội phạm trong những trường hợp do pháp luật tố
tụng hình sự quy định.

4. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến
pháp 1992 và luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1992
Hiến pháp năm 1992 ra đời, tiếp tục khẳng định Viện kiểm
sát thực hiện đồng thời hai chức năng là kiểm sát việc tuân
theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Cụ thể, công tác
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân
theo Hiến pháp năm 1992 và luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 1992 vẫn được trải rộng ra hầu hết các lĩnh vực đời
sống xã hội, đó là kiểm sát việc tuân teo pháp luật của các bộ,
các cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa
phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và
công dân. Cụ thể, Điều 3, luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 1992 quy định việc thực hiện hai chức năng này qua các
công tác như sau:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các văn bản
pháp quy của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác
thuộc Chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phương; kiểm
sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan Nhà nước nói
trên, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công
dân;

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của
các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của
Toà án nhân dân;
10


- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ và
cải tạo;
- Điều tra tội phạm trong những trường hợp do pháp luật tố
tụng hình sự quy định.
Như vậy, về cơ bản, chức năng của Viện kiểm sát ở giai
đoạn này khơng có nhiều thay đổi.
5. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến
pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 và luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002
Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 và luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã giảm bớt gánh nặng
cho Viện kiểm sát nhân dân bằng cách thu hẹp thẩm quyền
của Viện kiểm sát nhân dân, thu hẹp chức năng kiểm sát chung
của Viện kiểm sát nhân dân, cụ thể, Điều 137, Hiến pháp 1992,
sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân
tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa
phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm

do luật định”. Như vậy, qua bản Hiến pháp này, chức năng của
Viện Viện kiểm sát đã bị thu hẹp lại, theo đó, Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát lĩnh vực hoạt động tư pháp. Thực hiện chức năng kiểm
sát các lĩnh vực hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
thực chất là hoạt động thực hành nhánh quyền lực tư pháp do
Quốc hội giao trên cơ sở luật định. Tính chất của hoạt động
11


kiểm sát các hoạt động tư pháp xuất phát từ bản chất giai cấp
của nhà nước ta cũng như phù hợp với nguyên tắc tập quyền
xã hội chủ nghĩa. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp
của Viện kiểm sát nhân dân chính là sự tiếp tục kế thừa và
phát triển quyền giám sát mà trước đây Nhà nước giao cho cơ
quan cơng tố thực hiện.
Sở dĩ có sự điều chỉnh như vậy la do chính bản chất của
hoạt động kiểm sát chung gây nên sự quá tải về khối lượng
công việc đối với Viện kiểm sát nhân dân. Thực tế trong nhiều
năm cho thấy hoạt động của Viện kiểm sát các cấp tỏ ra kém
hiệu quả do không thể đảm đương hết cơng việc được giao,
dẫn đến tình trạng làm việc chưa sâu sát, qua loa đại khái, để
xảy ra nhiều trường hợp oan sai trong xét xử, cịn bỏ lọt tội
phạm. Mặt khác, cịn có những hiện tượng tiêu cực trong xã hội
như lạm quyền trong kiểm sát việc tuân theo pháp luật và có
sự chồng chéo với các hoạt động của cơ quan nhà nước.
Sự điều chỉnh về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân ở
giai đoạn này đem lại nhiều mặt tích cực, góp phần đảm bảo
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Viện kiểm sát nhân dân khơng cịn chức năng kiểm sát việc

tuân theo pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc chính phủ, các tổ chức xã hội và công dân nữa. Đây là sự
điều chỉnh quan trọng, chỉ có như vậy mới có khả năng khắc
phục những hạn chế trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân trước đó, để Viện kiểm sát nhân dân các cấp tập trung thời
gian, nhân lực, trí lực phục vụ tốt chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, bảo đảm hạn chế
tối đa tình trạng xét xử oan sai, giam giữ, cải tạo không đúng
quy định của pháp luật.
12


6. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến
pháp 2013 sửa đổi bổ sung năm 2001 và luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
Chức năng của Viện kiểm sát theo Hiến pháp 2013 và luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 về cơ bản là sự kế thừa
quy định của Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001
và luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, theo đó,
khoản 1, Điều 107, Hiến pháp 2013 quy định: “Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp”
Chức năng thực hành quyền công tố được Hiến pháp 2013
tiếp tục khẳng định bắt nguồn từ quy định của Sắc lệnh 33 –
A/1945, các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992,… cũng như thực
tiễn hơn 50 năm thành lập Viện kiểm sát nhân dân. Thực tiễn
đó thể hiện học thuyết của Lênin về nhà nước và pháp luật
trong việc tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được trình bày trong
tác phẩm nổi tiếng “Bàn về song trùn trực thuộc và pháp chế”
là hoàn toàn phù hợp với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

Qua đó bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và
thống nhất, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được pháp
luật bảo vệ.
Về chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện
kiểm ở Hiến pháp năm 2013 là sự kế thừa của Hiến pháp năm
1992, sửa đối, bổ sung, năm 2001. Tuy nhiên so với các bản
Hiến pháp trước đó thì đây là sự thay đổi theo hướng thu hẹp
phạm vi chức năng. Tuy nhiên, cuộc cải cách bộ máy nhà nước
năm 2001 xóa bỏ đi chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm
sát nhân dân lại đem lại nhiều điểm hợp lý và tích cự trong
hoạt động thực tiễn, giúp cho cơ quan Viện kiểm sát nhân dân
13


phát huy tốt vai trị của mình. Chính vì vậy, quan điểm chỉ đạo
việc sửa đổi Hiến pháp lần này là vẫn tiếp tục kế thừa những
điểm hợp lí, có hiểu quả được kiểm chứng qua thực tiễn hoạt
động của các cơ quan nhà nước trong thời gian qua.

KẾT LUẬN
Trong lịch sử lập pháp Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân
khơng ngừng phát triển để phù hợp với hồn cảnh lịch sử cũng
như yếu tố thời đại của từng giai đoạn khác nhau, góp phần
cùng với Tịa án nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng của
Nhà nước trong mỗi giai đoạn, góp phần đấu tranh chống mọi
hành vi phạm tội, nhằm bảo vệ lợi ích dân tộc, chế độ xã hội,
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân

14



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt
Nam 2014, Nxb. Cơng an nhân dân
2. Hiến pháp nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1946
3. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1959
4. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1980
5. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992
6. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992, sửa đổi bổ sung năm 2001
7. Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1960
8. Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1981
9. Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1992
10. Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2002
11. Trường đại học luật Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp, Lô Thị
Thu, Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp của viện kiểm sát nhân dân 2010
12. Trường đại học luật Hà Nội, Luận văn thạc sỹ luật học, Ngô
thị thơm, Tổ chức và hoạt động của cơ quan thự hiện chức
năng công tố ở Việt Nam 2006
13.

/>
language=vi&nv=news&op=55-nam-



thanh-lap-nganh-KSND/Vien-kiem-sat-nhan-dan-qua-cac-banHien-phap-Viet-Nam-tu-1959-den-nay-4581
14. />


×