Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân - qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên - Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.44 KB, 101 trang )


4


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN 7
1.1 Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Viện kiểm sát
nhân dân ở nước ta 7
1.2 Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động của viện
kiểm sát nhân dân 11
1.2.1 Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân 11
1.2.2 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 14
1.2.3 Những công tác của Viện kiểm sát nhân dân 17
1.3 Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân 29
1.3.1 Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao 29
1.3.2 Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương 32
1.3.3 Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh 34
1.3.4 Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát quân sự các cấp 35
1.4 Kiểm sát viên và Điều tra viên 36
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 40
2.1 Tóm tắt điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế
40
2.2 Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế 42


2.3 Kết quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên
Huế từ năm 2007 đến năm 2011 (từ 01/01/2007 đến 31/12/2011) 46

5
2.3.1 Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự 46
2.3.2 Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình
sự 50
2.3.3 Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia
đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của
pháp luật 53
2.3.4 Công tác kiểm sát việc thi hành án 57
2.3.5 Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục
người chấp hành án phạt tù 61
2.4 Đánh giá chung về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Thừa Thiên Huế 63
2.4.2 Những hạn chế trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Thừa Thiên Huế 66
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN - QUA THỰC TIỄN TỈNH THỪA
THIÊN HUẾ 71
3.1 Một số giải pháp chung 71
3.2 Một số giải pháp cụ thể: 78
3.2.1 Về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự 78
3.2.2 Về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự 81
3.2.3 Về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và
gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định
của pháp luật 85

3.2.4 Về công tác kiểm sát việc thi hành án 87
3.2.5 Về công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục
người chấp hành án phạt tù 89
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95

6


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân, đánh dấu sự ra đời của một hệ thống cơ quan
Nhà nước với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đảm bảo cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Sự ra đời của ngành kiểm sát nhân dân nhằm góp phần
bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng chống các hành vi vi
phạm pháp luật và tội phạm. Trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân đã góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, tổ chức và công dân. Hiện nay, trong cơ cấu tổ chức bộ máy
của Nhà nước ta, Viện kiểm sát nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan
được quy định trong Hiến pháp. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân được
thể hiện như là một trong những hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước. Vì
vậy, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cần phải được quan
tâm nghiên cứu đầy đủ, nhằm đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của công cuộc cải
cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong quá trình nghiên cứu để
hoàn thiện tổ chức bộ máy Nhà nước, phục vụ cho việc sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp năm 1992.

Một trong những mục tiêu hướng tới trong công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước ta là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định:
“Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thật sự là của nhân dân, do nhân dân, và vì
nhân dân, do Đảng lãnh đạo”. [6] “Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế

2
và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [7]. Trên cơ sở đó, Văn kiện Đại hội
XI khẳng định: "Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý,
tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. [8]
Về Viện kiểm sát nhân dân, trên cơ sở những nguyên tắc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và chủ trương đẩy mạnh cải cách tư
pháp. Văn kiện Đại hội XI tiếp tục khẳng định: “Viện kiểm sát được tổ chức
phù hợp với hệ thống tổ chức tòa án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để viện
kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” [9]. Mặt khác, nhằm tăng
cường trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác kiểm sát các
hoạt động tư pháp. Vừa qua, Quốc hội Khóa XII đã ban hành Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự (có hiệu lực từ ngày 01/01/2012);
Luật tố tụng hành chính; Luật thi hành án hình sự (cùng có hiệu lực kể từ
ngày 01/07/2011). Có thể nói, những chủ trương và các đạo luật nêu trên đã
có những thay đổi hết sức cơ bản và quan trọng về vai trò, trách nhiệm của
Viện kiểm sát nhân dân, đòi hỏi phải có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vai
trò, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tình hình mới.

Những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng khẳng định, đã đặt ra những yêu cầu mới đối với tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng. Là
một bộ phận cấu thành của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát

3
nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế trong quá trình hình thành và phát triển của
mình đã có nhiều đóng góp vào thành tựu chung của ngành, đồng thời có vai
trò, vị trí hết sức quan trọng trong việc góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nhân dân ở địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu đã đạt được, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng cũng phát
sinh những hạn chế, tồn tại cần phải có giải pháp để tháo gỡ, khắc phục kịp
thời, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác kiểm sát.
Với những phân tích nêu trên, tôi xin chọn đề tài: "Hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân - Qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế" làm đề tài Luận
văn Thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm của Đảng và Nhà nước, các quy
định của pháp luật hiện hành về Viện kiểm sát nhân dân. Quá trình hình thành
và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa
Thiên Huế. Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói
chung và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng. Đồng thời
kiến nghị, đề xuất sửa đổi bổ sung một số quy định của pháp luật có liên quan
đến hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
3. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân và thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên
Huế.

4
4. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở pháp lý về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001); Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn từ năm 2007 đến 2011 (01/01/2007 đến
31/12/2011).
5. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Sau khi có các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là
từ năm 2006 đến nay, đã có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành
(chủ yếu là tạp chí Kiểm sát) nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân như: “Một số nội dung cần nghiên cứu để triển khai thực
hiện Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị và Pháp lệnh
sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002” của tác giả Hoàng Nghĩa Mai đăng trên Tạp chí Kiểm
sát số 13 (tháng 7/2011); “Viện kiểm sát nhân dân đổi mới toàn diện và
đồng bộ để triển khai thực hiện tốt các quy định của pháp luật về chức
năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự và tố tụng hành
chính” của tác giả Nguyễn Thị Thủy Khiêm đăng trên Tạp chí kiểm sát số
13 (tháng 7/2011); “Một số vấn đề về tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm
vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp” của tác giả Lê Hữu
Thể đăng trên Tạp chí kiểm sát số 04 (2008) v.v. Chuyên đề về tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp của tập thể tác
giả đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 14-16 (tháng 7,8 /2008); Chuyên đề những

vấn đề đặt ra sau 5 năm thi hành Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân

5
dân năm 2002 của tập thể tác giả đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 24 (tháng
12/2008) …
Về các công trình khoa học có liên quan đến đề tài có Luận văn Thạc
sĩ: “Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng hình
sự - Một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam” của tác
giả Trần Mạnh Đông (Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009) …
Ngoài ra còn có các sách chuyên khảo như: “Thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” do TS Lê Hữu
Thể chủ biên (Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội - 2008); “Vị trí, vai trò Viện
kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” do TS Khuất
Văn Nga chủ biên (Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội - 2008) … Ngoài ra, vấn
đề hoạt động của Viện kiểm sát cũng được đề cập trong các sách chuyên khảo
khác như: “Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực
trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do GS.TS
Trần Ngọc Đường chủ biên (Nhà xuất bản chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội
- 2011); “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới” do Nguyễn Văn Yểu - GS.TS Lê Hữu Nghĩa đồng chủ biên
(Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội - 2006); “Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân lý luận và thực tiễn” do
GS.VS Nguyễn Duy Quý - PGS.TS Nguyễn Tất Viễn đồng chủ biên (Nhà
xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội - 2008) v.v.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của phép
biện chứng duy vật, chủ nghĩa Mác - Lê Nin; các quan điểm của Đảng và Nhà
nước và các quy định của pháp luật về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.

6

Trên cơ sở phương pháp luận đã nêu, các phương pháp nghiên cứu cụ
thể được sử dụng trong Luận văn bao gốm: Phương pháp phân tích; Phương
pháp tổng hợp; Phương pháp thống kê và Phương pháp so sánh.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đóng góp của đề tài về mặt khoa học pháp lý (lý luận chung về Nhà
nước và pháp luật) là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm
vụ, vai trò, công tác của Viện kiểm sát nhân dân. Kiến nghị, đề xuất sửa đổi,
bổ sung một số quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân.
Đóng góp của đề tài về mặt thực tiễn là đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân nói chung và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế nói
riêng.
8. Bố cục của Luận văn
Luận văn được chia làm 3 phần, bao gồm:
Phần 1: Phần mở đầu.
Phần 2: Phần nội dung, gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Thừa Thiên Huế.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân - Qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế.
Phần 3: Phần kết luận.


7
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1 Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Viện kiểm
sát nhân dân ở nước ta

Viện kiểm sát (tiền thân là Viện công tố) ra đời và phát triển cùng với
quá trình thành lập Nhà nước ta. Trải qua nhiều thời kỳ, ở nước ta đã từng tồn
tại cả hai mô hình: Viện kiểm sát và Viện công tố.
Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập năm 1945, Đảng ta đã đề
ra nhiều chủ trương, Chính phủ ban hành nhiều văn bản định hướng và đặt cơ
sở pháp lý cho hoạt động tư pháp, trong đó có vai trò, vị trí của công tác công
tố. Ngày 13-9-1945, Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 33c-SL về
thành lập Tòa án quân sự ở ba miền Bắc, Trung, Nam. Tòa án quân sự có
thẩm quyền xét xử tất cả các người nào có hành vi làm phương hại đến nền
độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo Sắc lệnh này, Tòa án
quân sự của Chính phủ lâm thời có chức năng công tố và có sự phân định về
chức năng, nhiệm vụ của các chức danh pháp lý trong các cơ quan tòa án.
Điều 5 Sắc lệnh này quy định đứng buộc tội (công tố) là một ủy viên quân sự
hay một ủy viên của ban trinh sát. Sắc lệnh số 33c-SL là văn bản đầu tiên quy
định về tổ chức tư pháp của chính quyền dân chủ nhân dân, trong đó có thành
phần công tố.
Cuộc cải cách tư pháp năm 1950 đã mang lại một số thay đổi đối với
mô hình hoạt động của cơ quan công tố. Theo đó, cơ quan công tố ở cấp tỉnh
chịu sự lãnh đạo của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh, đồng thời vai trò
của cơ quan công tố trong quá trình giải quyết việc dân sự của Tòa án được
tăng cường. Về mặt tổ chức, cho đến năm 1957, cơ quan công tố vẫn nằm

8
trong hệ thống Tòa án, thực hiện nhiệm vụ buộc tội bị cáo trong các phiên tòa
hình sự.
Đến năm 1958, tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa I diễn ra từ ngày 16
đến 29-4, Quốc hội đã nghe và thảo luận đề án của Chính phủ về bộ máy nhà
nước, trong đó có quyết nghị về việc thành lập hệ thống cơ quan Tòa án và hệ
thống cơ quan Viện công tố, cả hai hệ thống cơ quan này đều có nhiệm vụ,
quyền hạn ngang bộ và trực thuộc Hội đồng chính phủ. Như vậy, hệ thống cơ

quan công tố đã được tách khỏi Tòa án, hình thành hệ thống cơ quan công tố
độc lập, bao gồm: Viện công tố trung ương; Viện công tố phúc thẩm khu vực;
Viện công tố tỉnh; Viện công tố huyện. Bên cạnh chức năng công tố, Viện
công tố còn được giao thực hiện chức năng giám sát các hoạt động tư pháp
(giám sát hoạt động điều tra, giám sát xét xử và giám sát giam giữ, cải tạo).
Từ năm 1959 - 1960, cách mạng nước ta bước vào giai đoạn phát
triển mới, giai đoạn vừa tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam, vừa tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đòi
hỏi pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Đảng và Nhà
nước ta đã vận dụng đúng đắn quan điểm của Lê-nin trong tác phẩm “Bàn về
song trùng trực thuộc và pháp chế” để thành lập cơ quan Viện kiểm sát nhân
dân - một trong những cơ quan mới của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ
sở những nguyên tắc cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước là tập trung dân chủ,
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, trong đó Quốc hội là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất và căn cứ vào những quy định của Hiến pháp năm 1959,
lần đầu tiên trong lịch sử nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam, Viện kiểm
sát nhân dân được quy định là một cơ quan nhà nước độc lập và chịu trách
nhiệm trước Quốc hội. Căn cứ vào Hiến pháp năm 1959, ngày 15-7-1960,
Quốc hội khóa II nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong kỳ họp thứ I đã

9
thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (được Chủ tịch Hồ Chí Minh
công bố bằng Lệnh số 20/LCT ngày 26-7-1960) bao gồm 6 chương, 25 điều,
quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Viện kiểm
sát nhân dân. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng, nhiệm vụ là
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các nghị quyết, quyết định, thông tư,
chỉ thị của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ và cơ quan nhà nước địa
phương; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của nhân viên cơ quan nhà nước
và của công dân; Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố

trước tòa án nhân dân những người phạm pháp về hình sự; Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan công an và của các cơ
quan điều tra khác; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của
tòa án nhân dân và trong việc chấp hành các bản án; Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc giam giữ của các trại giam; Khởi tố hoặc tham gia
tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà
nước và của nhân dân. Mục đích của việc kiểm sát là bảo vệ chế độ dân chủ
nhân dân, trật tự xã hội, tài sản công cộng và những quyền lợi hợp pháp
của công dân, góp phần bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà
được tiến hành thắng lợi.
Kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 1960 cho đến nay, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
và tiếp nối là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp tục ban
hành các đạo luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Cụ thể
là: Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội khóa VIII thông qua
tại Kỳ họp thứ nhất; do Lệnh của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trường Chinh công bố ngày 13-7-1981; Luật
sửa đổi và bổ sung Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội khóa

10
VIII thông qua tại Kỳ họp thứ 4 do Lệnh số 11/HĐNN của Chủ tịch nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Võ Chí Công công bố ngày 04-01-1989;
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội khóa IX thông qua tại Kỳ
họp thứ nhất do Lệnh số 03/LCT của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam Lê Đức Anh công bố ngày 10-10-1992. Các đạo luật này về cơ bản
vẫn giữ nguyên mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm
sát nhân dân như Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960.
Trên cơ sở của Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm
2001), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002 (được Quốc hội khóa

X thông qua tại Kỳ họp thứ 11 do Lệnh số 07/2002/LCNT của Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đức Lương công bố
ngày 12-4-2002) đã thu hẹp phạm vi hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân. Theo đó, Viện kiểm sát thôi không thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội
nữa mà tập trung thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp. Lý do của việc điều chỉnh này là để Viện
kiểm sát tập trung thực hiện chức năng công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp - là những nhiệm vụ không thể giao cho cơ quan khác thực
hiện và là hai lĩnh vực rất bức xúc. Không giao chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật cho Viện kiểm sát cũng là để khắc phục những trùng
lặp về chức năng, nhiệm vụ trong tổ chức bộ máy của Nhà nước ta. Như
vậy, kể từ năm 2002 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hai chức
năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Về
mặt tổ chức hệ thống viện kiểm sát nhân dân gồm có: Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương; Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và Viện kiểm sát quân sự các cấp.

11
1.2 Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động của
viện kiểm sát nhân dân
1.2.1 Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định tại Điều 137 - Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số
51/2001/QH10 của Quốc hội khóa X, thì chức năng của Viện kiểm sát nhân
dân được quy định như sau:
“Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất.

Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi
trách nhiệm do luật định.” [15]
Như vậy, theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng là thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Thực hành quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc
về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ
quan Viện kiểm sát) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan có chức năng thực
hành quyền công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu,
chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định
truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. Quyền
công tố được thực hiện từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc
khi có bản án, quyết định của cơ quan Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

12
Các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp như Nghị quyết 08-
NQ/TW; Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định và yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân
phải nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thực hành quyền công tố. Khi thực
hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm lớn trong công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm cho mọi hành vi phạm tội và người
phạm tội phải được phát hiện kịp thời, đầy đủ, xử lý nghiêm minh, có căn cứ và
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội nhưng cũng không làm
oan người vô tội. Ngoài ra, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong công
tác thực hành quyền công tố còn được thể hiện rõ nét trong Luật về trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước. Theo Luật này, Viện kiểm sát nhân dân có trách
nhiệm đối với phần lớn các trường hợp để xảy ra oan trong tố tụng hình sự. Vì

vậy, chống để lọt tội phạm và người phạm tội, đồng thời không làm oan người
vô tội là hai mặt của một vấn đề trong công tác công tố, do đó Viện kiểm sát
nhân dân phải quán triệt và thực hiện tốt cả hai yêu cầu này.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một hình thức của hoạt động giám
sát của Nhà nước nhằm theo dõi, kiểm tra việc tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật của các chủ thể được giao thực hiện thẩm quyền tư pháp. Đây chính là cơ
chế sử dụng tổ chức Nhà nước để hạn chế sự lạm dụng quyền lực của chính
các cơ quan Nhà nước.
Mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp là nhằm bảo đảm cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án. Trong quá trình kiểm sát các hoạt động tư pháp,
Viện kiểm sát có quyền áp dụng những biện pháp do pháp luật quy định để
phát hiện, loại trừ những hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp
và cán bộ cơ quan tư pháp.

13
Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân
dân là một vấn đề có tính chất đặc thù, xuất phát từ nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước và đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta:
Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng kiểm sát các hoạt động
tư pháp là góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư
pháp dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, tổ chức và công dân.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là hai
chức năng của Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, không phải chúng tách rời
nhau, độc lập với nhau mà ngược lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ
sung, hỗ trợ cho nhau. Thực hành quyền công tố là cơ sở cho việc kiểm sát
các hoạt động tư pháp có hiệu quả và ngược lại kiểm sát các hoạt động tư

pháp bảo đảm thực hiện mục đích của hoạt động thực hành quyền công tố.
Thực hiện tốt chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp cũng chính là nhằm
phát huy hiệu lực, hiệu quả của chức năng thực hành quyền công tố.
Về nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, theo quy định tại Điều 2
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 thì Viện kiểm sát nhân dân có
nhiệm vụ:
“Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm
vụ góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ
tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo
đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật”. [16]

14
Ngoài các chức năng và nhiệm vụ nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân
còn có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan Tòa án, Công an, Thanh tra, Tư
pháp, các cơ quan khác của Nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức thành viên của Mặt trận, các đơn vị vũ trang nhân dân để phòng ngừa và
chống tội phạm có hiệu quả, xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm và
vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; tuyên truyền, giáo dục pháp luật;
xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nghiên cứu tội phạm và vi
phạm pháp luật.
1.2.2 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Khái quát lý luận của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, có thể rút ra những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Đảng ta luôn khẳng định bản chất của Nhà nước ta là Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực Nhà nước đều
thuộc về nhân dân.
Thứ hai, Đảng ta xác định rõ nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống

nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ ba, Đảng ta khẳng định rõ vai trò của pháp luật trong quản lý Nhà
nước, khẳng định tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội.
Thứ tư, Đảng ta khẳng định nguyên tắc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, khẳng định và thực hiện trách nhiệm qua lại giữa các cơ
quan Nhà nước và công dân, tăng cường thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa
đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật và chủ trương dân chủ hóa mọi mặt của
đời sống xã hội.

15
Thứ năm, xác định trách nhiệm đầy đủ của Nhà nước trong việc thực
hiện các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh
thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và cùng nhau phát triển.
Thứ sáu, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa …
Như vậy, theo quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì bộ máy Nhà nước ta được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất. Chủ thể duy
nhất của quyền lực Nhà nước là nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực của
mình chủ yếu thông qua Quốc hội. Quốc hội được khẳng định là cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đều phải được sinh ra từ Quốc hội và chịu sự giám sát
của Quốc hội. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước. Đối với các hoạt động tư pháp cụ thể (điều tra, xét xử,
giam giữ, thi hành án) Quốc hội giao cho Viện kiểm sát tiến hành kiểm sát
việc tuân theo pháp luật. Như vậy, trên cơ sở khẳng định và quán triệt nguyên
tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, không tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc phân quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, Đảng là lực lượng

duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội thì vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp có
một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xuất phát từ bản chất, đặc điểm của hoạt động tư pháp là hoạt động
thực hiện quyền lực Nhà nước (quyền tư pháp). Do vậy, hoạt động tư pháp
phải chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát của nhiều cơ chế khác nhau, bao

16
gồm cả cơ chế giám sát từ bên trong hệ thống và cơ chế giám sát từ bên ngoài
hệ thống. Chính vì vậy, quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp
quyền là phải bảo đảm sự kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, tăng cường các cơ chế giám sát, bảo đảm
sự tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Đặc biệt, xuất
phát từ tính chất rất đặc thù của hoạt động tư pháp là hoạt động giải quyết các
vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại và những việc khác
theo quy định của pháp luật. Quá trình đó, các cơ quan tư pháp được pháp luật
trao thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng: bắt, tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm giữ đồ vật, tài liệu, kê biên tài sản, phong
tỏa tài sản, cấm chuyển dịch quyền về tài sản v.v. và kết thúc quá trình giải
quyết, Tòa án có quyền ra các phán quyết ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền
quan trọng nhất của con người như quyền sống, quyền tự do, quyền sỡ hữu
v.v. là các quyền được đặc biệt tôn trọng và bảo đảm thực hiện trong Nhà
nước pháp quyền. Do vậy, hoạt động tư pháp cần và phải chịu sự kiểm tra,
giám sát, kiểm soát chặt chẽ của nhiều cơ chế khác nhau, đặc biệt là phải thiết
lập cho được cơ chế giám sát trực tiếp, thường xuyên, có tính chuyên nghiệp
cao. Trong điều kiện cụ thể của Nhà nước ta, cơ chế đó chính là Viện kiểm sát
nhân dân, vì Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức theo nguyên tắc đặc thù là
tập trung thống nhất trong ngành, dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do

Quốc hội bầu và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Nguyên tắc này bảo đảm
cho Viện kiểm sát nhân dân không phụ thuộc và không chịu áp lực của các cơ
quan chính quyền, tạo cho Viện kiểm sát nhân dân có lợi thế hơn hẳn các cơ
quan Nhà nước khác trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời, Viện
kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất tham gia vào tất cả
các lĩnh vực tư pháp (hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế …) và có trách

17
nhiệm tham gia vào tất cả các giai đoạn tố tụng (từ khi khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án) do vậy có điều kiện để thực hiện kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tư pháp một cách trực tiếp và thường xuyên nhất.
Thông qua chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân
đã phát hiện nhiều vi phạm trong việc điều tra, bắt, tạm giữ, tạm giam, quản lý
và giáo dục người chấp hành án phạt tù, thi hành án … Trên cơ sở đó, Viện kiểm
sát các cấp đã xem xét kiến nghị, kháng nghị nhiều bản án, quyết định của cơ
quan điều tra, xét xử, thi hành án … góp phần quan trọng trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các quyền dân chủ của công dân.
Thực tiễn đã chứng minh rằng, qua hơn 50 năm tổ chức và hoạt động,
bằng các công tác cụ thể Viện kiểm sát nhân dân đã khẳng định vai trò quan
trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
góp phần bảo đảm pháp chế, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền
và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân.
1.2.3 Những công tác của Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định tại Điều 3, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ bằng những
công tác sau đây:
“1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc điều tra các vụ án hình sự của các Cơ quan điều tra và các cơ quan
khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
2. Điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người

phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp;
3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc xét xử các vụ án hình sự;

18
4. Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,
hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật;
5. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân;
6. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam,
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù.” [17]
1.2.3.1 Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc điều tra các vụ án hình sự
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các Cơ quan điều
tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra nhằm bảo đảm cho mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra
và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội. Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị
hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật; Bảo đảm cho việc điều tra
phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật. Bảo đảm
những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện, khắc
phục kịp thời, xử lý nghiêm minh và bảo đảm cho việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát
nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
- Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can.
- Yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố
vụ án hình sự, khởi tố bị can.


19
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều
tra; Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật.
- Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo
quy định của pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì
khởi tố về hình sự.
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam và các biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết
định của Cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật.
- Hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của Cơ quan điều tra.
- Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình
chỉ điều tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Cùng với việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, trong
giai đoạn điều tra Viện kiểm sát nhân dân còn thực hiện chức năng kiểm sát
điều tra. Khi thực hiện chức năng này, Viện kiểm sát nhân dân có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Kiểm sát việc khởi tố; kiểm sát các hoạt động điều tra và lập hồ sơ
vụ án của Cơ quan điều tra.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng.
- Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra theo quy định của
pháp luật.
- Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong
hoạt động điều tra; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh
Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra.
- Kiến nghị với các cơ quan, tổ chức và đơn vị hữu quan áp dụng các
biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

20
Phạm vi của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân

theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự được bắt đầu từ khi phát
hiện có dấu vết tội phạm xảy ra đến khi kết thúc việc điều tra, Viện kiểm sát
ra bản Cáo trạng hoặc đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật.
1.2.3.2 Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự
Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có
trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, nhằm đảm bảo
việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình
sự, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến
việc giải quyết vụ án tại phiên tòa.
- Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm; tranh luận
với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ
thẩm, phúc thẩm.
- Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết
vụ án tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm.
Cùng với việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, trong
giai đoạn xét xử, Viện kiểm sát nhân dân còn thực hiện chức năng kiểm sát
xét xử. Khi thực hiện chức năng này, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm
vụ và quyền hạn sau:

21
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
- Kiểm sát các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân theo quy
định của pháp luật.

Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự,
Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định
của pháp luật; kiến nghị với Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới khắc phục
vi phạm trong việc xét xử; kiến nghị với cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan áp
dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật; nếu có dấu
hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự.
Phạm vi của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các
vụ án hình sự được bắt đầu từ khi chuyển bản Cáo trạng cùng hồ sơ vụ án
sang Tòa án để xét xử và kết thúc khi bản án và quyết định của Tòa án có hiệu
lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị.
1.2.3.3 Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia
đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của
pháp luật
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn
nhân gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định
của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng pháp luật, kịp thời.
Khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,
hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:

22
- Kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ vụ án; yêu cầu Tòa án nhân dân hoặc tự
mình xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án.
- Khởi tố vụ án theo quy định của pháp luật.
- Tham gia các phiên tòa và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát
nhân dân về việc giải quyết vụ án.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
- Kiểm sát các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân; Yêu cầu

Tòa án nhân dân áp dụng những biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định
của pháp luật.
Khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,
hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật,
Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định
của pháp luật; kiến nghị với Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới khắc phục
những vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án; nếu có dấu hiệu tội
phạm thì khởi tố về hình sự.
1.2.3.4 Kiểm sát việc thi hành án
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án
nhân dân, cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá
nhân có liên quan trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật và những bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định của pháp
luật nhằm bảo đảm các bản án, quyết định đó được thi hành đúng pháp luật,
đầy đủ, kịp thời.

×