Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Đặc điểm tiểu thuyết trịnh thanh long qua hai tiểu thuyết ma làng va đồng lành đom đóm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 125 trang )

..

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
==========

HOÀNG THỊ THÚY NGÀ

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRỊNH THANH LONG
(Qua hai tiểu thuyết Ma làng và Đồng làng đom đóm)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
==========

HOÀNG THỊ THÚY NGÀ

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRỊNH THANH LONG
(Qua hai tiểu thuyết Ma làng và Đồng làng đom đóm)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sỹ Nguyễn
Đức Hạnh, người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo và động viên
em trong suốt quá trình làm luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ, giảng viên Khoa
Sau Đại học và Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ em vượt qua những khó khăn, thách thức
trong thời gian học tập, nghiên cứu tại trường.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Hội đồng giáo dục trường
THPT Vũ Lễ, các anh chị, các bạn đồng nghiệp và gia đình đã khích lệ, động
viên, tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tơi hồn thành luận văn này.
Dù đã có nhiều cố gắng xong luận văn khơng tránh khỏi những thiếu
xót, hạn chế. Kính mong nhận được sự đóng góp của các thầy, cơ giáo, các
anh chị và tất cả các bạn để luận văn được hồn thiện và có giá trị thực tiễn
hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 8 năm 2010

Hoàng Thị Thuý Ngà


PHẦN MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài
1. Văn xuôi Việt Nam hiện đại có nhiều tác phẩm đặc sắc viết về nông
thôn Việt Nam trong những năm tháng trước và sau thời kỳ đổi mới 1986,
phản ánh những nỗi đau do nghèo và lạc hậu, "căn bệnh” phe cánh họ mạc
cục bộ,những hủ tục kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác và cả những sai
lầm vì cơ chế quan liêu bao cấp kéo dài…bên cạnh những tác giả, tác phẩm
nổi tiếng viết về đề tài này như Nguyễn Khắc Trường với "Mảnh đất lắm
người nhiều ma", Nguyễn Mạnh Tuấn với "Cù lao Tràm", Dương Hướng với
"Bến khơng chồng", Tạ Duy Anh với "Lão khổ", Hồng Minh Tường với
"Thuỷ hoả đạo tặc"... chúng ta không thể không nhắc tới các nhà văn địa
phương đã âm thầm viết và có những thành tựu đáng ghi nhận. Trịnh Thanh
Phong, hội viên Hội nhà văn Việt Nam, là một trường hợp như thế.
2. Sau tiểu thuyết "Ma làng” được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh
và gây tiếng vang lớn trong công chúng, Trịnh Thanh Phong xuất bản tiếp tiểu
thuyết "Đồng làng đom đóm". Cả hai tiểu thuyết của ơng đều viết về đề tài
nông thôn với những xung đột thế sự đời tư vừa lâu dài vừa mang tính thời
sự. Nghiên cứu tiểu thuyết của Trịnh Thanh Phong chúng ta có thêm cơ sở
khoa học để khẳng định xu thế vận động của văn xuôi Việt Nam đương đại
trước và sau khởi điểm đổi mới 1986 ở đề tài nơng thơn.
3. Trong chương trình ngữ văn cấp Trung học cơ sở có 24 tiết dành cho
văn học địa phương, theo khảo sát của chúng tơi thì phần văn học địa phương
hiện nay vẫn còn là "khoảng trống” ở nhiều tỉnh thành trên cả nước. Trong
chương trình đào tạo ngành văn của khoa đào tạo giáo viên Trung học cơ sở Đại Học Sư Phạm - Đại Học Thái Nguyên ở hai chuyên ngành Văn học Việt
Nam hiện đại và Lí luận văn học đều có phần văn học địa phương của 6 tỉnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



1



thuộc vùng Việt Bắc. Thực hiện đề tài này chúng tơi hi vọng sẽ đóng góp
thêm một tài liệu tham khảo bổ ích cho giáo viên và sinh viên trong trường
Đại Học Sư Phạm nói chung, cho giáo viên và học sinh cấp Trung học cơ sỏ
tại tỉnh Tuyên Quang nói riêng.
II. Lịch sử vấn đề
Đề tài nơng thơn là đề tài tương đối rộng lớn trong văn học Việt Nam.
Nó tồn tại tự nhiên trong đời sống văn học cũng như đời sống thường nhật của
con người. Vì đặc thù nước ta là nền văn hóa lúa nước và văn hóa làng xã, là
mảnh đất màu mỡ cho văn học nhưng không phải là mảnh đất dễ khai thác vì
nơng thơn Việt Nam nói chung, nơng thơn mỗi vùng miền lại có một bản sắc
văn hóa đặc trưng. Xung quanh mảng văn học viết về đề tài nông thôn có
nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết. Các ý kiến nhìn chung rất phong phú.
Tiêu biểu cho những cơng trình đã nghiên cứu về văn xuôi Việt Nam
viết về đề tài nông thôn là cuốn Văn xuôi viết về nông thơn tiến trình và đổi
mới của tác giả Lã Duy Lan, Nxb Khoa Học Xã Hội, H.2001. Trong cuốn
sách tác giả đã tổng kết tồn bộ tiến trình và xu hướng phát triển của văn xuôi
viết về đề tài nông thơn đặt trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam.
Nội dung chủ yếu tác giả cuốn sách muốn đề cập đó là bộ mặt thật của nơng
thơn Việt Nam thời kì đổi mới được phản ảnh trong văn học Việt Nam như
thế nào. Cuốn sách là một cái nhìn tương đối tồn diện về mảng văn xi viết
về đề tài nơng thơn Việt Nam.
Bên cạnh đó có rất nhiều những bài tiểu luận, bài phỏng vấn của phóng
viên các báo với các cây bút chuyên viết về đề tài nơng thơn. Trong đó có thể
kể đến các bài như: bài tiểu luận Nhà q, nơng thơn: Tự nó và về nó của tác
giả Mai Anh Tuấn in trên báo Văn nghệ trẻ số ra ngày 30.5.2009. Trong đó
tác giả đã bàn về nhận thức về đề tài nông thôn của một số nhà văn, nhà thơ
tiêu biểu như Nguyễn Bính, Nam Cao, Nguyễn Huy Thiệp…


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



2


Các nhà văn chuyên viết về đề tài nông thôn cũng có nhiều ý kiến về
vấn đề này. Bài viết Nhà văn với vấn đề “tam nơng” của phóng viên Đỗ Ngọc
Thạch trên trang Phong Điệp. net cũng đề cập đến vấn đề đề tài nông thôn với
các nhà văn mới trong đó có ý kiến của nhà văn Nguyễn Khắc Trường cho
rằng: “Viết về nông thôn, viết về người nông dân là động đến cái mẫu số
chung, cái phần sâu thẳm nhất của dân tộc chúng ta… Còn nhiều vấn đề bức
xúc ở nông thôn lắm, đây là một đề tài rộng lớn tưởng là dễ hiểu nhưng hết
sức bí mật”. Như vậy đề tài nơng thơn là cịn là một mảnh đất đầy bí mật
khơng chỉ với các nhà văn trẻ mà ngay cả đối với nhà văn đã có nhiều trải
nghiệm về cuộc sống nơng thơn.
Như vậy, các cơng trình nghiên cứu xung quanh tiểu thuyết viết về
nơng thơn nói chung đã quan tâm đến nhiều khía cạnh của mảng văn học này
từ bộ mặt toàn diện trong xu hướng phát tiển đến những khía cạnh, góc nhìn
nhỏ hơn như đề tài nơng thơn trong các tiểu thuyết cụ thể của các nhà văn cụ
thể: Kim Lân, Nam Cao, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư… Trong đó
cũng có những bài viết nghiên cứu về tiểu thuyết Ma làng và Đồng làng đom
đóm của nhà văn Trịnh Thanh Phong
Tiểu thuyết Ma làng và Đồng làng đom đóm là hai tiểu thuyết tiêu biểu
của nhà văn Trịnh Thanh Phong. Đây cũng là hai tiểu thuyết thành công của
mảng văn xuôi viết về nông thôn cũng như của tác giả Trịnh Thanh Phong,
tạo được sự hấp dẫn đối với nhiều độc giả. Xung quanh hai cuốn tiểu thuyết
này cũng có nhiều ý kiến bàn luận ở nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau.
Chúng ta có thể điểm qua một vài ý kiến tiêu biểu với những cái nhìn khác

nhau về tiểu thuyết Ma làng và Đồng làng đom đóm như sau:
Bài phỏng vấn tác giả “Ma làng” do Hà Anh thực hiện trên báo
Viêtnam.net hé mở cho chúng ta nhiều vấn đề trong tác phẩm Ma làng.
Trong cuộc trò chuyện với nhà văn Trịnh Thanh Phong, tác giả Hà Anh đã có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



3


dịp đề cập đến chất liệu, cảm hứng của nhà văn khi viết tiểu thuyết Ma làng.
Về chất liệu, Tác giả Trịnh Thanh Phong đã khẳng định “chất liệu hiện thực
và những trải nghiệm thực tế để vẽ lên một bức tranh làng quê trong tiểu
thuyết ma làng phải chiếm tới 90% và có những cảnh vật, con người vẫn cịn
ngun sơ ở ngồi đời nơi tơi ở…”. Đó cũng chính là những lời nhà văn đã
nói trong lời tựa của cuốn tiểu thuyết này: “Tất cả để dựng lên khn hình,
cảnh vật con người trong cuốn sách này tơi đã tìm nhặt ở làng q lở lói,
nghèo khổ bám quanh viền chân núi Châm chạy nhoài ra phái bờ sông Lô ở
chỗ con gà gáy ba tỉnh cùng nghe thấy! Bỏ vào cái túi da, tôi về ngồi dưới
căn nhà lá cọ ở cái phố “Hủng “thị xã Tuyên Quang sắp đặt lại. Công việc
tôi làm giống như người tập đan lát thêu thùa… Kỳ cạch mãi rồi cũng
xong!...”. [30.5] Qua lời tâm sự của nhà văn chúng ta thấy rằng tác phẩm Ma
làng được dựng lên bằng chính những trải nghiệm thực tế của tác giả nơi làng
quê mình ở. Bằng chính những trải nghiệm thực tế ở một làng quê cụ thể cộng
với sự trải nghiệm cuộc sống của mình tác giả đã sáng tạo ra thế giới nhân vật
cũng như cuộc sống thôn quê trong tác phẩm. Điều này cũng được tác giả tâm
sự trong bài phỏng vấn. Ví dụ khi nói về việc xây dựng nhân vật Tòng - nhân
vật tiêu biểu cho cái ác nhà văn nói: “Khi xây dựng nhân vật này, ngồi

những mẫu hình của cái ác ngồi đời mình vẫn gặp, tôi cũng phải tổng hợp,
thống kê để chắt lọc và lựa chọn lấy những nét tiêu biểu nhất của cái ác để
thổi vào nhân vật Tịng…” Bằng chính những tổng hợp này mà nhân vật trong
Ma làng không chỉ tiêu biểu cho làng quê ở vùng núi Tuyên Quang mà còn
tiêu biểu cho nhiều làng quê khác. Trong bài phỏng vấn còn đề cập đến cảm
hứng của nhà văn Trịnh Thanh Phong khi viết tiểu thuyết Ma làng: “Từ nguồn
mạch mình ấp ủ đã tạo thành cảm hứng chân thật nên chữ nghĩa cứ chảy ra
tự nhiên như vậy thôi.”. Những ấp ủ của nhà văn chính là tình cảm và trách
nhiệm đối với người nông dân ở quê ông nói riêng và những người nơng dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



4


Việt Nam nói chung: “Hướng khai thác đề tài của tôi là nhằm vào những thân
phận, kiếp người thấp cổ bé họng bị vùi phủ, đày đọa suốt một thời có thể gọi
là xa vắng!... Người nơng dân vẫn chưa thốt ra được câu ca dao: “Con cị
lặn lội bờ ao/ Ăn sung sung chát ăn đào đào chua”! Vì người nông dân suy
cho cùng chỉ biết làm lụng nghe lời!..Vấn đề nơng thơn cịn nhiều trăn trở
lắm. Có điều nhà văn khai thác như thế nào để viết đúng cuộc sống của họ,
khát vọng của họ…”. Như vậy cảm hứng để viết Ma làng chính là những trăn
trở của nhà văn về con người nông dân và cuộc sống nơng thơn. Chính những
điều này đã ước thúc tác giả viết cuốn tiểu thuyết này. Đây là những vấn đề
mà cuộc phỏng vấn của phóng viên Hà Anh trên báo Viêtnam. net với nhà
văn Trịnh Thanh Phong đã cung cấp cho chúng ta.
Tiến sĩ Trần Lệ Thanh trong bài: “Ma làng “và sự trăn trở của một
ngòi bút với quê hương”, đã làm rõ hơn giá trị của “Ma làng”về cả phương

diện nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết của nhà văn Trịnh Thanh Phong.
Và những phát hiện trong bài viết của tác giả Trần Lệ Thanh cũng đã gợi
hướng cho chúng tôi rất nhiều khi thực hiện đề tài này. Trong bài viết tác giả
Trần Lệ Thanh cho rằng nội dung chính của tác phẩm Ma làng là: “Đằng sau
việc miêu tả những mâu thuẫn dai dẳng, sự tranh chấp, đố kị giữa làng trên
xóm dưới, tộc này họ kia chi phối đời sống nông dân, đằng sau những mánh
khóe hiểm ác những mưu mơ toan tính của những người có thế lực, có quyền
thế, lợi dụng đúng chỗ đứng của mình để thu lợi… Tác phẩm trong một chừng
mực nào đó đã phản ánh được thực trạng khá đau đớn vẫn còn diễn ra trong
đời sống tinh thần của một số làng quê nông thôn.”, tác giả bài viết cũng cho
rằng cái làm nên sức nặng của tiểu thuyết Ma làng là ở thái độ cách nhìn nhận
của tác giả: “Cái làm nên sức hấp dẫn của Ma làng là ở tấm lòng của tác giả,
ở cái nhìn xã hội vừa nghiêm khắc vừa hiền lành đơn hậu của nhà văn. Đặc
biệt cái làm nên sức nặng của ngịi bút Trịnh Thanh Phong chính là ở chỗ, tuy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



5


luôn day dứt, trăn trở trước những số phận, những cảnh đời, mảnh đời vụn
vỡ, những tác giả không bao giờ thỏa hiệp với cái xấu” chính điều này chi
phối đến giọng điệu, nghệ thuật xây dựng nhân vật… Điều này gợi mở cho
chúng tôi đi sâu khám phá quan niệm nghệ thuật của nhà văn về cuộc sống
con người đặc biệt thông qua những phương tiện nghệ thuật. Bên cạnh nội
dung tác giả bài viết cũng đề cập sơ bộ nhất vài nét nghệ thuật tự sự trong Ma
làng như lối trần thuật “Bằng nhiều chi tiết, qua lối trần thuật độc đáo giàu
sức gợi”, giọng điệu “Nghe và cách miêu tả những nhân vật này, thấy được

thái độ vừa trân trọng, cảm giọng điệu khách quan thông vừa nghiêm khắc
phán xử của nhà văn”, “giọng điệu mỉa mai bông tếu cũng trở thành một
phương thức khá quen thuộc của nhiều cây viết”, kết cấu tác phẩm của Trịnh
Thanh Phong được nhận xét “Trịnh Thanh Phong có được một phần kết luận
hợp lý”… Tuy đây là những đánh giá rất sơ lược về nghệ thuật trong Ma làng
nhưng nó cũng đã gợi ý cho chúng tơi trong khi tìm hiểu những phương diện
nghệ thuật trong tiểu thuyết của Trịnh Thanh Phong.
Triệu Đăng Khoa trong bài: Hỏi chuyện nhà văn tác giả “Ma làng”
Báo Nông nghiệp nông thôn số tháng 9 năm 2008: Khẳng định sức hấp dẫn
của tác phẩm “Ma làng” với mọi thế hệ người đọc. Sức hấp dẫn mà tác phẩm
Ma làng có được do nội dung mà nó phản ánh đó chính là những mưu mơ
toan tính, những biến thái tinh vi của bọn phú hào mới mang tư duy của người
nơng dân. Cùng với đó là cách xây dựng nhân vật cũng như tấm lòng của nhà
văn đối với người nông dân.
Trung Trung Đỉnh trong bài: Tiểu thuyết ma làng và những thói tục
mới ở làng quê trên báo văn nghệ trẻ số tháng 3.2003 đã đề cập khá rõ nét về
nội dung cũng như những mâu thuẫn được đề cập đến trong tác phẩm Ma
làng. Tác giả bài viết khẳng định nhà văn Trịnh Thanh phong đã viết về nông
thôn Việt Nam thời hiện đại với những thói tục xưa cũ được cải biến thành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



6


thói tục thời nay. Đó là “những thói tục mâm trên mâm dưới, họ hàng chú bác
anh em cơ dì giằng dịt lôi kéo nhau vào việc làng, việc nước… bọn phú hào
mới của làng xã tranh thủ đục nước béo cò, xâu xé nhau bằng những chức

vụ…” mâu thuẫn được phản ánh trong cuốn sách là : “một bên là thân phận
những người nông dân ngàn đời nay vẫn chưa ra khỏi lũy tre làng… một bên
là bọn quan chức dùng mọi thủ đoạn mưu mô chước quỷ nắm các chức quyền
trong làng ngoài xã”. Đây cũng là nội dung bài viết Tiểu thuyết “Ma làng”Bức tranh quê trước ngày đổi mới của tác giả Minh Hòa trên báo Tuyên
Quang số ra ngày 28 tháng 9 năm 2007. Đây cũng chính là những gợi ý cho
chúng tơi tìm hiểu về con người, cuộc sống nơng thơn khi phân tích sâu hơn
về tiểu thuyết Ma làng của nhà văn Trịnh Thanh Phong.
Với tác phẩm Đồng làng đom đóm, tác phẩm ra đời muộn hơn so với
tiểu thuyết Ma làng cũng có nhiều ý kiến bàn luận khác nhau. Trong đó tiêu
biểu là ý kiến bàn luận của tác giả Hà Linh (Thạc sĩ Ngô Thu Hà) trên báo
Tuyên Quang số ra ngày 27.01.2010 qua bài: Ánh sáng từ đồng làng đom đóm
(Đọc tiểu thuyết Đồng làng đom đóm của Trịnh Thanh Phong, Nhà xuất bản
Hội nhà văn, năm 2009). Bài viết đề cập đến cách xây dựng nhân vật chính
của truyện, những khía cạnh về cuộc sống thời bình, thời chiến và hậu chiến
của tác phẩm, về những dằn vặt, suy tư của con người thời chiến, những đóng
góp của ông trong việc lý giải chiến tranh rất táo bạo trong những trang viết
về chiến tranh, đặc biệt, tác giả bài viết phát hiện ra đặc sắc về cách sử dụng
chi tiết nghệ thuật “ánh sáng” của tác giả Trịnh Thanh Phong. Bài viết cho
thấy thêm một thành công nữa của nhà văn Trịnh Thanh Phong với thể loại
tiểu thuyết. Và đây cũng là cơ sở cho chúng tôi khi tìm hiểu nghệ thuật, quan
niệm nghệ thuật về cuộc sống và con người trong tiểu thuyết Đồng làng đom
đóm của nhà văn Trịnh Thanh Phong.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



7



Với một số bài báo, bài phỏng vấn có tính chất giới thiệu tiểu thuyết
"Ma làng", “Đồng làng đom đóm” và tìm hiểu xuất xứ của 02 tác phẩm này,
chúng tơi thấy các bài viết đã có những giới thuyết cơ bản về hai tác phẩm
này. Tuy nhiên nghiên cứu tiểu thuyết Trịnh Thanh Phong trong một cơng
trình chun sâu với những khía cạnh cụ thể thì chưa có một cơng trình nào
dày cơng tìm hiểu. Xuất phát từ tính cấp thiết của công tác giảng dạy phần
văn học địa phương còn nhiều “khoảng trống”, từ sự ngưỡng mộ và yêu mến
nhà văn chúng tôi lựa chọn đề tài: “Đặc điểm tiểu thuyết Trịnh thanh Phong”
qua hai tác phẩm “Đồng làng đom đóm” và “Ma làng”.
III. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đặc điểm hai tiểu thuyết viết về đề tài nông thôn của nhà văn Trịnh
Thanh Phong:
- “Ma làng “Nhà xuất bản Hội Nhà văn năm 2001
- “Đồng làng đom đóm “Nhà xuất bản Hội Nhà văn năm 2009
2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát, phân tích, đánh giá đặc điểm tiểu thuyết
Trịnh Thanh Phong ở hai phương diện:
- Đặc điểm nội dung
+ Đề tài, chủ đề
+ Cảm hứng
+ Bức tranh xã hội và hình tượng người nơng dân Việt Nam trước
và sau đổi mới 1986.
- Đặc điểm nghệ thuật tự sự
+ Cốt truyện
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




8


+ Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật
IV. Phƣơng pháp nghiên cứu
1. Phương pháp phân tích tác phẩm văn học theo thể loại
2. Phương pháp thống kê phân loại
3. Phương pháp phân tích tổng hợp
4. Phương pháp so sánh đối chiếu
V. Mục đích nghiên cứu
Qua khảo sát đánh giá 2 tiểu thuyết của Trịnh Thanh Phong chúng tôi
hướng tới 3 mục đích.
1. Đánh giá giá trị và hạn chế của tiểu thuyết Trịnh Thanh Phong, từ đó
khẳng định cá tính sáng tạo của nhà văn.
2. Từ việc nghiên cứu đặc điểm tiểu thuyết Trịnh Thanh Phong, chúng
tơi góp thêm cơ sở khoa học để khẳng định xu thế vận động, cách tân của văn
xuôi Việt Nam viết về đề tài nơng thơn trước và sau đổi mới 1986.
3. Đóng góp một tài liệu tham khảo cho công tác dạy và học phần văn
học địa phương trong nhà trường.
VI. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo,nội dung
chính của luận văn bao gồm ba chương
CHƢƠNG I
Tiểu thuyết Trịnh Thanh Phong trong bộ phận tiểu thuyết Việt
Nam về đề tài nông thôn sau đổi mới 1986.
1.1. Nhà văn Trịnh thanh phong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
1.1.1Tiểu sử nhà văn
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Trịnh Thanh Phong:
1.2. Tiểu thuyết Trịnh Thanh Phong trong bộ phận tiểu thuyết Việt

Nam về đề tài nông thôn sau đổi mới 1986
1.2.1.Diện mạo chung
1.2.2.Những điểm tương đồng
1.2.3.Những điểm khác biệt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



9


CHƢƠNG II
Bức tranh hiện thực và con ngƣời nông thôn trong tiểu thuyết Trịnh
Thanh Phong
2.1. Quan niệm nghệ thuật về cuộc sống và con ngƣời trong tiểu
thuyết Trịnh Thanh Phong
.1.1.Con người cá nhân trong cảm hứng bi kịch và cảm thương
2.1.2.Con người lí tưởng trong cảm hứng ngợi ca
2.1.3. Con người cá nhân trong cảm hứng tâm linh
2.2. Bức tranh hiện thực nông thôn Việt Nam với hai gam màu sáng - tối
2.3. Hình tƣợng ngƣời nơng dân Việt Nam trong cảm hứng thế sự - đời tƣ
2.3.1.Nhân vật người nông dân xuất hiện với tâm thế con người tự ý thức
2.3.2.Sự khám phá con người đời tư từ cái nhìn đa chiều và nhân bản.
CHƢƠNG III
Một số phƣơng diện trong nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết Trịnh
Thanh Phong
3.1.Cốt truyện đơn tuyến
3.2.Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.2.1.xây dựng nhân vật qua ngoại hình và trang phục

3.2.2.Xây dựng nhân vật qua hành động và tâm lí
3.2.3.Xây dựng nhân vật qua miêu tả hành trình số phận
3.3.Ngơn ngữ và giọng điệu nhân vật
3.3.1.Ngơn ngữ đối thoại mang tính khẩu ngữ của người nông dân
3.3.2.Ngôn ngữ độc thoại
3.3.3. Các kiểu giọng điệu trần thuật
3.3.3.1.Giọng điệu cảm thương
3.3.3.2.Giọng điệu trào phúng
3.3.3.3.Giọng điệu ngợi ca
Phần kết luận
Phần thƣ mục tài liệu tham khảo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



10


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I
TIỂU THUYẾT TRỊNH THANH PHONG TRONG BỘ PHẬN TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM VIẾT VỀ ĐỀ TÀI NÔNG THÔN SAU ĐỔI MỚI 1986.
1.1. Nhà văn Trịnh Thanh Phong - Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
1.1.1. Tiểu sử nhà văn
Nhà văn Trịnh Thanh Phong cịn có bút danh tác nghiệp là Hải Thanh.
Ông sinh năm 1950, quê gốc vốn ở làng Phủ Chính - Vĩnh Tường - Lập
Thạch - Vĩnh Phúc nhưng được sinh ra và lớn lên ở làng Thông xã Lâm
Xuyên huyện Sơn Dương - Tuyên Quang. Chính vùng đất hài hịa giữa rừng
núi với suối sơng (Lâm Xuyên) này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong cuộc đời và

sự nghiệp sáng tác của nhà văn.
Tuổi thơ Trịnh Thanh Phong lầm lũi với rừng và lấm láp với sơng ngịi,
đồng ruộng q hương. Hồn cảnh sống đó đã giúp nhà văn sớm tiếp cận và
gắn bó với người nông dân, thấu hiểu những niềm vui nỗi buồn, cảm thông
sâu sắc với những nhọc nhằn, lam lũ của họ. Có lẽ chính vì vậy mà trong mỗi
trang văn, Trịnh Thanh Phong vừa như muốn bày tỏ tấm lịng tri ân, tri kỷ với
người nơng dân chân chỉ hạt bột quê nhà vừa như muốn giải tỏa cho những
tâm sự của chính mình vậy. Chẳng thế mà ngay từ khi bắt tay vào nghề cầm
bút, Trịnh Thanh phong đã viết:
Mẹ sinh con trên quãng sông này
Mùa nước lũ phù sa ngàu đỏ
Con đâu biết tháng ngày gian khổ
Mẹ hát ru cái vạc cái cò.
Tuổi thơ con đằm trong cát đỏ
Những mùa màng mẹ lặn lội lo toan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



11


Bãi ngơ ngập dưới mùa mưa lũ
Trận đói bị ngang lưng núi Châm
Những vần thơ dung dị ấy đã đánh dấu sự nghiệp sáng tác của Trịnh
Thanh Phong suốt những tháng ngày tuổi trẻ, bởi lẽ ngay sau đó ơng khơng có
tác phẩm nào được cơng bố tiếp. Đang học phổ thông, chàng trai 18 tuổi hăm
hở lên đường nhập ngũ. Khi đó Trịnh Thanh Phong được biên chế vào sư
đoàn 304 rồi chuyển sang trung đoàn 335 chiến đấu tại chiến trường Lào. Đây

có lẽ chính là mơi trường nuôi dưỡng những tâm tư, suy nghĩ, quan sát của
nhà văn, là những tháng ngày ông thai nghén đứa con tinh thần tiếp theo của
mình. Trong điều kiện chiến trường đầy khắc nghiệt, đồng đội hầu hết đều là
những người xuất thân từ nông thôn hoặc miền núi, những con người lam lũ,
Trịnh Thanh Phong ln mở rộng tấm lịng và tầm quan sát để sau này những
trải nghiệm đó trở thành vốn quý và được thể hiện sâu sắc trong những trang
viết của ông. Là người rất nhạy cảm, hàng ngày phải chứng kiến nhiều những
mất mát, hy sinh của đồng đội, Trịnh Thanh Phong càng thêm day dứt bởi ông
hiểu hơn ai hết những con người ra đi từ đồng đất, bước vào kháng chiến từ
những rãnh cày trên mọi miền q. Điều đó đã thơi thúc ơng phải cầm bút,
nhưng lần này ông không làm thơ nữa mà bắt đầu viết những trang ghi chép
trong chiến trận, sau đó là bút ký, truyện ngắn… Tiểu thuyết Đất cánh đồng
Chum cũng được ra đời trong giai đoạn này (1972). Viết xong, nhà văn người lính chỉ lặng lẽ đưa cho đồng đội đọc rồi lặng lẽ cất vào đáy ba lơ, một
phần vì ở chiến trường khơng có điều kiện để gửi đăng, mặt khác ông cũng
nghĩ rất đơn giản và mộc mạc: “văn mình là của mình thơi…gửi để làm gì”.
Sau khi hiệp định Pari được ký kết (1973), Trịnh Thanh Phong được
điều về học tiếp chương trình cấp 3 tại trường Văn hóa qn đội (Lạng Sơn),
sau đó về học tại Học viện Hậu Cần. Cuối năm 1976, một phần vì sức khỏe

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



12


yếu, một phần do cái “nghiệp chướng giời đày” (như lời nhà văn thường nói),
ơng xin giải ngũ và về cơng tác tại Sở văn hóa thơng tin Hà Tun.
Thời gian này ông thường lui về làng Thông, gặp lại những người đồng
đội cùng sống chết trong chiến tranh giờ phải đương đầu với những khó khăn,

thiếu túng. Nhiều người muốn bứt phá nhưng cơ chế hợp tác xã lại ngột ngạt
khiến họ cũng phải lẫn vào sự đói nghèo của dân chúng. Từ đó, thực tại gần
như trở thành một nỗi ám ảnh,Trịnh Thanh Phong suy nghĩ rất nhiều về số
phận con người gắn liền với những vùng quê nghèo đói. Việc ơng trở đi trở
lại với làng q để sống với những người nơng dân chân chất có bận đã suýt
khiến nhà văn phải điêu đứng. Thật may trời đã khơng phụ lịng người, kết
quả của những chuyến đi về vùng q đó chính là những sáng tác khá thành
cơng về đề tài nơng thơn và người lính của Trịnh Thanh Phong sau này.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Nhà văn Trịnh Thanh phong có những tác phẩm in trên báo trung ương
và địa phương từ những năm 1980. Những tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến là
Bãi cuối sông - Tập truyện ngắn đầu tay xuất bản năm 1990, Gặp lại (1997),
Đôi mắt vầng trăng –thơ (1999), Lời ru ban mai (2000), Bao giờ chim vành
khuyên bay về (2001), Bức tường xanh (2002), Ma làng (2002), Dưới chân
núi Pắc Quan (2003), Vết thương thời bình (2006), Đất cánh đồng Chum
(2007), Đồng làng đom đóm (2009).
Từ khi cịn ở chiến trường đầy lửa đạn cho đến hôm nay ở cái tuổi gần
60, Trịnh Thanh Phong vẫn lặng lẽ viết. Với trên 10 đầu sách đã xuất bản, tác
phẩm của Trịnh Thanh Phong chủ yếu bám chắc vào đề tài nơng thơn và
người lính. Nhận xét về ơng, tại hội nghị cấp Chi hội Nhà văn Sông Chảy
năm 2010, nhà thơ Hữu Thỉnh nói: Một nhà văn sống ở miền núi Tuyên
Quang mà làm nên được một “Ma làng”gây xôn xao dư luận trong nước và
thế giới, rõ ràng đây không chỉ là thành công riêng của Trịnh Thanh Phong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



13



mà cịn là đóng góp của văn học nước nhà cho cơng cuộc đổi mới. Điều đó
cũng cho chúng ta thấy rằng: nhà văn chỉ có khoảng cách về chỗ ở chứ khơng
có khoảng cách trong sáng tạo.
Trong q trình tìm hiểu những sáng tác của Trịnh Thanh Phong, chúng
tơi có tìm gặp và trị chuyện cùng tác giả. Trong câu chuyện vui vẻ ơng nói:
Như các bạn biết, mỗi nhà văn đều có vùng đất của mình. Nhưng theo tôi khi
lựa chọn, điều quan trọng là nhà văn phải biết vùng đất ấy có hợp với cái
“tạng” của mình khơng. Khi thấy hợp rồi thì mình cịn phải có biện pháp thích
hợp để tiếp cận nó.
Bản thân tơi khi chắc chắn vùng đất nơng thơn với những người lính
bước ra từ cuộc chiến hợp với mình, tơi bắt đầu bỏ cơng khai thác. Nói vậy
bạn sẽ hỏi: bằng cách nào? “Đơn giản thơi: sống và gắn bó với vùng đất đó,
gắn bó với họ đồng thời phải hiểu họ… Hiểu được rồi phải biết biến những
đều đó thành máu thịt trong cơ thể mình. Trên cơ sở đó vận hành những
nguồn lực đã có trong mình như vốn văn hóa, năng khiếu trời cho… để khơi
dịng chảy cho tác phẩm văn học.Quá trình sáng tác, nhất là khi viết Ma làng,
Đất cánh đồng Chum.. tôi đã làm như thế…” [16 ]
Quá trình nghiên cứu tác phẩm của Trịnh Thanh Phong sẽ cho ta thấy ý
nghĩa của những lời tự bạch trên.
1.2. Tiểu thuyết Trịnh Thanh Phong trong bộ phận tiểu thuyết Việt
Nam về đề tài nông thôn sau đổi mới 1986
1.2.1. Diện mạo chung
Có thể nói, năm 1986 là dấu mốc quan trọng trong đời sống xã hội nói
chung và đời sống văn học nghệ thuật Việt Nam nói riêng. Thời điểm này
chứng kiến sự đổi mới tư duy trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội..
trong đó có văn học nghệ thuật. Đời sống văn học dần dần được “cởi trói”,
khơng khí cởi mở, dân chủ tác động mạnh mẽ đến lực lượng sáng tác - văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




14


nghệ sĩ, làm nảy sinh những quan niệm mới về nhà văn và dẫn đến sự thay đổi
quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người cùng sự thay đổi thi pháp thể
loại của các thế hệ nhà văn Việt Nam. Từ lớp nhà văn tiền chiến như Xuân
Diệu, Nguyễn Tn, Tơ Hồi… đến những cây bút trẻ trưởng thành trong và
sau kháng chiến chống Mỹ..
Văn học viết về đề tài nông thôn cũng nằm trong quỹ đạo phát triển này.
Đề tài nông thôn là đề tài không bao giờ cạn đối với văn xuôi Việt Nam.
Phong cảnh nông thôn, con người nông thôn đã hiện hữu từ rất sớm trong tiểu
tuyết của Tự lực văn đoàn, đặc biệt là vào thời kỳ năm 1936 - 1939 với hàng
loạt các tác phẩm như: Trống mái, Gia đình (1936) của Khái Hưng, Hai vẻ
đẹp(1936) của Nhất Linh, Con đường sáng (1938) của Hồng Đạo. Đề tài
nơng thơn được chú ý và phản ánh sâu sắc hơn trong trào lưu văn học hiện
thực phê phán với những cây bút tiêu biểu như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Kim
Lân, Nguyễn Công Hoan với hàng loạt các tác phẩm: Tắt đèn, tiểu luận Việc
Làng và Tập án cái đình - Ngơ Tất Tố, Bước đường cùng, Nông dân và địa
chủ - Nguyễn Công Hoan, Làng - Kim Lân. Đặc biệt đề tài nông dân đã trở
thành một đề tài chính trong sáng tác của Nam Cao với những tác phẩm quen
thuộc như: Nghèo, Chí Phèo, Điếu văn, Lão Hạc, Dì Hảo, Nửa đêm, Tư cách
mõ… các cây bút của trào lưu này đã tỏ ra am hiểu và cảm thông với người
nông dân, có cái nhìn hiện thực sâu sắc và nhân đạo hơn với số phận của
những người nông dân tội nghiệp đáng thương. Mỗi người một có phong
cách, một nét riêng nhưng nhìn chung trong những tác phẩm này các nhà văn
đã đi sâu, phản ánh rõ nét cuộc sống người nơng dân với những hủ tục, những
nghèo khổ, đói khát, những gánh nặng trong cuộc sống mà người nông dân

phải chịu đựng, cũng như những biểu hiện trong bản chất người nông dân cả
phần tốt và xấu. Đề tài nông thơn cịn tiếp tục được khai thác nhiều trong văn
xi giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, và sau hồ bình. Do giai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



15


đoạn này yêu cầu phục vụ chiến đấu, phục vụ nhiệm vụ xây dựng đất nước
được đặt lên hàng đầu nên hầu hết các nhà văn viết về đề tài nông thôn để
phục vụ nhiệm vụ. Trước năm 1986, đề tài nông thôn được tiếp tục mạch cảm
hứng này với những cây bút như Bùi Hiển, Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Ma
Văn Kháng và đặc biệt là Nguyễn Minh Châu nhà văn có những đóng góp to
lớn trong việc đổi mới tư duy nghệ thuật trong đề tài viết về nông thơn nói
riêng với những tác phẩm như Khách ở q ra, Phiên chợ Giát, Bến Quê,
Chiếc thuyền ngoài xa. Nhà văn đã có cái nhìn về con người và cuộc sống của
người nơng dân, khơng cịn là cái nhìn giai cấp, con người được nhìn với cái
nhìn đa chiều và nhân bản vì vậy ngịi bút của ơng đã len lỏi vào từng góc
khuất, phản ánh những biến ảo tinh vi trong tâm hồn con người, và các tác
phẩm cũng có kết cấu mở theo xu hướng đối thoại. Đây là những đóng góp to
lớn của Nguyễn Minh Châu cho nền văn xuôi Việt Nam. Nhưng phải đến sau
năm 1986 thì những đổi mới này mới được phát huy mạnh mẽ và trở thành xu
hướng chủ đạo của văn xuôi nói chung, văn xi viết về đề tài nơng thơn nói
riêng. Với hàng loạt tên tuổi nổi tiếng như: Trịnh Thanh Phong với tác phẩm
Ma làng và Đồng làng đom đóm, Nguyễn Khắc Trường với tác phẩm Mảnh
đất lắm người nhiều ma, Phùng Gia Lộc - Cái đêm hôm ấy đêm gì, Dương
Hướng - Bến khơng chồng, Lê Lựu - chuyện làng Cuội, Nguyễn Ngọc Tư Cánh đồng bất tận… Giai đoạn này các nhà văn đã có sự đổi mới về quan

niệm nghệ thuật về cuộc sống và con người. Con người ở giai đoạn này là
con người đời tư, con người với suy tư, dằn vặt thế sự với những nhu cầu vật
chất, tự do, luyến ái, tình dục… được đề cao, các vấn đề nhạy cảm của cuộc
sống nông thôn Việt Nam cũng được vạch trần theo hướng dân chủ hố. Cùng
với đó là sự đổi mới đa dạng trong phương thức biểu hiện con người. Những
đổi mới này đã đem lại cho văn xuôi viết về đề tài nông thôn những khám phá
mới cùng những giới hạn và chiều sâu mới trong sáng tạo nghệ thuật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



16


Quá trình đổi mới văn học ở Việt Nam diễn ra hết sức sôi động và đa
dạng trên các thể loại: văn xi, thơ, kịch, lý luận phê bình, văn học dịch,…
và đạt được nhiều thành tựu ở thể tài văn xi. Đây là những thể loại được
hình thành, tạo tác trong khu vực tiếp xúc trực tiếp với đời sống hàng ngày,
với một hiện thực đang vận động, không ngừng biến chuyển. Nổi lên hàng
đầu là sự hiện diện của thể ký. Thể phóng sự sau nhiều năm đứt đoạn, vắng
bóng nay đồng loạt ra quân như một sự hồi sinh của thể loại, gây chấn động
dư luận với ý thức nhìn thẳng vào sự thật: Cái đêm hơm ấy đêm gì (Phùng Gia
Lộc), Tiếng kêu cứu của một vùng văn hoá (Võ Văn Trực), Suy nghĩ trên
đường làng (Hồ Trung Tú),...
Bên cạnh ký là sự khởi sắc của truyện ngắn, từ sự đổi mới tư duy nghệ
thuật và bút pháp của các cây bút Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Bùi
Hiển, Ma Văn Kháng, Đoàn Lê, Lê Minh Khuê cùng sự xuất hiện của những
cây bút mới như Nguyễn Huy Thiệp, Hịa Vang, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn
Ngọc Tư,…Có thể nói sự thay đổi trong bút pháp nghệ thuật đã đem lại phẩm

chất nghệ thuật đích thực cho truyện ngắn và phần nào thu hút được công
chúng trở lại với văn học. Thể loại tiểu thuyết với những tác phẩm mở đường
cho thời kỳ đổi mới như Chuyện làng Cuội (Lê Lựu), Chim én bay (Nguyễn
Trí Hn) và tiếp đó là những tiểu thuyết đặc biệt thành công như: Mảnh đất
lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng (Dương
Hướng), Ma làng của Trịnh Thanh Phong. Như vậy, văn xuôi Việt Nam viết
về đề tài nông thôn phát triển khá mạnh mẽ trên hầu hết các thể loại. Không
chỉ đa dạng về thể loại mà còn phong phú về nội dung. Cuộc sống, con người
nông thôn được khắc hoạ rất sâu sắc ngay cả những góc khuất tận sâu tâm
hồn, những biến thái tinh vi của cuộc sống hiện đại cũng được đề cập đến bởi
những cây bút sắc lạnh, tỉnh táo, nhạy cảm, đầy nhiệt huyết và trách nhiệm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



17


Văn học Việt Nam từ sau 1986 đặc biệt quan tâm tới số phận con người
với những gấp khúc trong đường đời. Vấn đề thân phận trở thành mối quan
tâm hàng đầu của nhà văn. Đặc biệt nhiều trang sáng tác, con người được đặt
trong mối quan hệ giữa cá nhân và nhân loại; mỗi người là sự kết hợp, hoà
quyện giữa con người xã hội, con người tự nhiên và con người tâm linh.
Trong những thành tựu chung của văn xuôi Việt Nam, tiểu thuyết viết về
đề tài nông thơn đóng một vai trị khơng nhỏ. Trước hết chúng tôi xin điểm
qua diện mạo của bộ phận sáng tác này. Cũng như những bộ phận khác của
văn học, văn xuôi vết về đề tài nông thôn được tạo đà từ bầu khơng khí đổi
mới. Nhà văn vì thế có điều kiện để thể hiện những trăn trở, suy tư của mình
một cách tương đối trực diện và thấu đáo cộng với những điều kiện mới về in

ấn, phát hành, dư luận… khiến cho bộ phận sáng tác này thực sự có điều kiện
để bộc lộ sự mởi mẻ.
Mặc dù vậy, mốc 1986 không phải là thời điểm của sự “biến hóa kỳ
diệu”, thời điểm làm thay đổi tồn bộ bộ mặt của văn xi nói chung và văn
xi viết về đề tài nơng thơn nói riêng mà sự thay đổi đó giống như một dịng
chảy ngầm từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX. Thời gian năm
năm từ 1980 đến 1985 - giai đoạn cuối của thời kỳ bao cấp là thời gian nhiều
nhà văn đã có những suy tư, trăn trở về tình hình đất nước, về những vấn đề
nhân sinh, nhân quyền…. Mặc dầu vậy trong quãng thời gian này, những hạn
chế nhất định của cơ chế và của dư luận xã hội chưa cho phép họ bứt phá, nói
thẳng, nói thật…tất cả mới chỉ là những “cựa quậy”, những dấu hiệu bước đầu
của đổi mới.
Trong bộ phận văn xuôi viết về nông thôn thời kỳ này phải kể đến công
lao của cây bút tiên phong Nguyễn Minh Châu. Năm 1987, trong một bài tiểu
luận đầy tâm huyết và bản lĩnh, có sức chấn động dư luận Hãy đọc lời ai điếu
cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ, Nguyễn Minh Châu đã đặt ra vấn đề:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



18


“Chẳng lẽ mãi mãi thế hệ nhà văn chúng ta vẫn cứ yên tâm sản xuất ra toàn
những sản vật khơng bao giờ được ngó đến trong nền văn học thế giới. Chẳng
lẽ Việt Nam ngày nay chỉ hưởng của thiên hạ mà khơng làm ra được cái gì
góp vào của chung thiên hạ”. Chính sách mở cửa đã giúp cho văn học Việt
Nam từng bước tháo gỡ vấn đề mà nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng bức
xúc. Trước đó ơng viết xong Khách ở q ra từ tháng 3 - 1984 và trong suốt

thời kỳ 1980 - 1985 ơng có một loạt truyện ngắn như Chiếc thuyền ngồi xa,
Bến quê, Một lần đối chứng, Bức tranh… Những truyện ngắn nói trên thể
hiện một khả năng quan sát hiện thực rất sắc sảo và sự cảm nhận cuộc sống có
chiều hướng ngày càng gần gũi với thực tế cuộc sống. Mặc dù thời kỳ đầu,
những sáng tác của Nguyễn Minh Châu còn mang nhiều hàm ý, chưa thể bộc
lộ một cách trực tiếp và thẳng thắn những trăn trở, suy ngẫm của nhà văn,
nhưng càng gần với thời điểm 1986, khi chiều hướng dân chủ hóa xã hội trở
nên rõ ràng thì những tác phẩm của ơng (tiêu biểu như Khách ở quê ra) đã nói
rõ được những điều mà tác giả muốn nói. Có lẽ một phần vì thế mà Nguyễn
Minh Châu được đánh giá là “người mở đường anh minh và tài hoa “cho văn
học thời kỳ đổi mới. Bên cạnh Nguyễn Minh Châu, có một tác giả mà tác
phẩm của ơng cũng có thể coi là “mới mẻ” từ rất sớm là Lê Lựu với Thời xa
vắng (viết xong tháng 9 - 1984). Có thể nói, thời điểm sáng tác của Khách ở
quê ra và Thời xa vắng đã thể hiện được sự mẫn cảm, tinh nhạy của hai nhà
văn trước công cuộc đổi mới.
Bước hẳn sang giai đoạn “mở cửa”, độc giả nhanh chóng được tiếp xúc
với sự đổi thay trong các sáng tác về đề tài nơng thơn. Với cái nhìn đa chiều
về hiện thực, mọi khía cạnh phức tạp, những ẩn khuất tinh vi, những vấn đề
nhạy cảm của con người, của cuộc sống nông thôn đều được các nhà văn
khám phá, đào sâu khai thác ở những tầng bậc, góc cạnh khác nhau. Điều này

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



19


đem lại cái nhìn mới mẻ cho độc giả về đề tài nơng thơn. Có thể tạm thời chia
đề tài nông thôn thời kỳ này theo các chủ đề khác nhau như sau:

Chủ đề thói tục làng quê thời hiện đại có thể nói là chủ đề gây được
nhiều chú ý và tạo nhiều thành công trong đề tài viết về nông thôn. Tiêu biểu
là tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của nhà văn Nguyễn Khắc
Trường (viết xong tháng 3 - 1988),xuất bản năm 1990, Tiểu thuyết Ma làng
của Trịnh Thanh Phong năm 2007, Dương Hướng với tiểu thuyết Bến không
chồng (in năm 1990). Chuyện làng Cuội của Lê Lựu (in năm 1993). Những
thói tục của làng quê Việt Nam còn vương vấn đến tận thời nay được phản
ánh khá đậm đặc trong những cuốn tiểu thuyết viết về chủ đề này. Những thói
tục mâm trên, mâm dưới, một miếng giữa làng bằng một sàng góc bếp, phân
biệt dịng tộc, họ hàng chú bác anh em cơ dì dằng dịt lôi kéo nhau vào việc
làng, việc nước, chuyện phân biệt dân ngụ cư dẫn đến việc tranh chấp, thanh
trừng giữa các phe cánh, dòng tộc để lợi dụng chức quyền kiếm trác, thu lợi về
mình. Đặc biệt các tác giả đã rất thành công khi phản ánh sự méo mó của mơ
hình làng xã thời kỳ đầu đổi mới - là sự kết hợp của những thói tục xưa cũ,
những di hại thời chiến tranh với mơ hình mới khi nó chưa có da thịt mà chỉ là
bộ khung, điều này nảy sinh ra bọn phú hào mới với những mưu mơ, tính tốn
sảo quyệt. Nó làm nghiêng ngả đời sống dân sinh thời hiện đại. Trong bối cảnh
ấy hiện lên số phận của những con người là người nơng dân có tâm hồn, có cá
tính như Tâm, Ló, Mưa, Dỏ trong Ma làng, Hạnh trong Bến khơng chồng, Đào,
Tùng trong Mảnh đất lắm người nhiều ma, không những thế họ cịn là những
con người có tấm lịng đầy nhân ái. Tuy cuộc đời nhiều bất hạnh, khổ đau
nhưng họ là những điểm sáng của tác phẩm. Đây cũng là thành công của các
nhà văn so với giai đoạn trước đây.
Một chủ đề nữa cũng là tâm điểm trong đề tài nơng thơn đó chính là
những tác phẩm viết về sai lầm trong công cuộc đổi mới và cải cách ruộng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




20


đất. Đây vốn là vấn đề nhạy cảm và bị né tránh trong văn học những giai đoạn
trước. Bước sang giai đoạn này, nhu cầu nhận thức lại lịch sử được đặt ra,
bằng sự tinh nhạy, thẳng thắn, dũng cảm và trách nhiệm của người cầm bút
nhiều nhà văn đã gặt hái được thành công trong chủ đề này. Với chủ đề này,
nhiều cây bút đã khẳng định tính sắc nhọn và từng trải của mình. Tiêu biểu là
tác phẩm: Lời nguyền hai trăm năm của Khôi Vũ, Ác mộng, Sắp cưới của Ngô
Ngọc Bội. Những sai lầm trong cải cách ruộng đất như: đấu tố địa chủ, đánh
đồng các tầng lớp địa chủ, phú hộ, thu hết ruộng đất và trừng phạt một cách
dã man, nguyên tắc cứng nhắc cứ bần nông là trong sạch, càng nhiều đời bần
nông thì lí lịch càng tốt, sự nhầm lẫn trong việc tạo nếp sống mới với việc tạo
tệ nạn xã hội. Điều này được phẩn ánh toàn vẹn và chân thực trong tác phẩm
Ác mộng và Sắp cưới. Những sai lầm này cũng được phản ánh trong nhiều tác
phẩm viết về đề tài nơng thơn, tuy nó khơng phải là chủ đề chính của tác
phẩm nhưng cũng để lại dấu ấn sâu sắc cho người đọc như sai lầm đánh đồng
địa chủ - xấu, bần nông - tốt trong Đồng làng đom đóm của Trịnh Thanh
Phong. Việc khốn sản với việc quản lí lỏng lẻo gây ra bất cơng, người chăm
làm cho người lười hưởng, cũng được phản ánh trong nhiều tác phẩm. Trong
phóng sự Suy nghĩ trên đường làng của Hồ Trung Tú ngồi sai lầm trên cịn
đề cập đến lề lối quản lí, tệ cường hào.…Với chủ đề này thì các nhà văn đã
thể hiện một cái nhìn tương đối toàn vẹn và chân thực về những sai lầm, tồn
tại của một thời kỳ lịch sử, cung cấp cho người đọc một lượng thông tin tương
đối chuẩn xác.
Chủ đề đóng vai trị trung tâm trong hầu hết các tác phẩm viết về đề tài
nơng thơn thời kì này là số phận của người nông dân. Đây là điều mà các nhà
văn viết về đề tài nông thôn không riêng ở giai đoạn này mà cả ở những giai
đoạn trước đều quan tâm. Nhưng điều đáng chú ý ở đây là khi miêu tả cuộc
sống cơ cực của người nông dân với những số phận bi kịch đáng thương,


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



21


bằng cái nhìn cảm thương, quan niệm nghệ thuật nhân bản, tác giả khắc họa
thành công con người cá nhân thế sự đời tư với những suy tư, dằn vặt đời
thường và riêng tư. Những tác phẩm tiêu biểu như Chuyện làng Cuội của Lê
Lựu, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư… mỗi người một cảnh đời éo
le, một nỗi khổ riêng nhưng họ đều là nạn nhân của chiến tranh, của những hủ
tục, của những người lợi dụng chức quyền thu lợi về mình. Câu hỏi đặt ra
trong chủ đề này là số phận người nông dân sẽ đi về đâu khi họ phải chịu sự
bóc lột tinh vi của “địa chủ mới”. Các tác phẩm Ma làng, Mảnh đất lắm người
nhiều ma cũng phản ánh rõ vấn đề này. Người nơng dân khơng chỉ khổ bởi
những thói tục xưa cũ đã biến dạng tinh vi mà còn khốn khổ bởi tình trạng
“bóc lột kiểu mới “hết sức nghiệt ngã ở nông thôn, phản ánh trong Cái đêm
hôm ấy… đêm gì (ký) của Phùng Gia Lộc đề cập tới việc thu sản phẩm khá
nghiệt ngã sau thu hoạch.Trong chủ đề này ngoài việc phẩn ánh hiện thực đau
khổ nhức nhối, các tác giả còn thể hiện sự cảm thương, trân trọng đối với
người nông dân và hơn nữa đó là niềm tin vào số phận của họ.
Cịn rất nhiều chủ đề được đề cập đến trong đề tài nơng thơn như chủ đề
viết về người lính - nơng dân trong các tác phẩm của Trịnh Thanh Phong.
Trong chủ đề này tác giả thể hiện những trăn trở của người lính sau chiến
tranh là làm thế nào để giúp cho người nơng dân có cuộc sống ấm no, qua đó
thể hiện tấm lịng nhân ái của nhà văn với người nông dân. Cùng với đội ngũ
nhà văn lão thành, những cây bút trẻ cũng xuất hiện. Có thể kể đến Tạ Duy
Anh với Bước qua lời nguyền, Xưa nay chị đẹp nhất làng, Lão Khổ… Nguyễn

Huy Thiệp với những truyện ngắn đáng chú ý như: Những người thợ xẻ,
Những bài học nông thôn…
Đề tài viết về nông thôn là đề tài không bao giờ vơi cạn đối với văn học
Việt Nam. Xã hội phát triển hiện đại với không ít những biến ảo tinh vi, phức
tạp kéo theo đó là sự phức tạp trong mỗi con người. Cuộc sống nơng thơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



22


×