Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HỒNG ANH BIÊN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐẮK NÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

ĐẮK LẮK - NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA


HỒNG ANH BIÊN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐẮK NÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 60340403
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN BÁ CHIẾN

ĐẮK LẮK - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn "Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông” là sản phẩm của q trình nghiên cứu, tổng hợp, phân tích và
trình bày của tác giả về đề tài luận văn. Các số liệu, quan điểm, kết luận của
các tài liệu và các nhà nghiên cứu khác được trích dẫn theo đúng quy định.
Chính vì vậy, tác giả luận văn xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu của riêng mình.
Đắk Lắk, ngày 25 tháng 10 năm 2017
Học viên

Hoàng Anh Biên


LỜI CẢM ƠN
Thời gian học tập tuy 02 năm, nhưng trong q trình học tập tại Học
viện Hành chính Quốc gia cũng như trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề
tài "Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông”,

tôi đã nhận được sự truyền đạt, hướng dẫn, động viên, giúp đỡ quý báu của
các giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia, gia đình, cơ quan và bạn bè,
đồng nghiệp.
Tơi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ qúy báu, giảng dạy tận tình và
đầy trách nhiệm của các giảng viên, các bộ phận của Học viện Hành chính
Quốc gia - Phân viện Tây Nguyên và các giảng viên, các khoa, phòng, ban
của Học viện Hành chính Quốc gia. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ trong
quá trình nghiên cứu cũng như góp ý của các đồng chí cơng tác tại Ban Thi
đua - Khen thưởng tỉnh Đắk Nông. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
PGS.TS Nguyễn Bá Chiến, thầy hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo,
động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tơi hồn thành luận văn này.
Vì thời gian và điều kiện nghiên cứu của tác giả luận văn có hạn, chắc
chắn khơng thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Kính mong các thầy
giáo, cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp thông cảm và có những đóng góp chân
thành để tác giả hồn thiện nội dung đã nghiên cứu, bổ trợ cho các cơng
trình tiếp theo.
Trân trọng cảm ơn!
Học viên

Hoàng Anh Biên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1. Lý do lựa chọn đề tài............................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. ............................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. ........................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài. ................................................ 4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu...................................... 5
6. Dự kiến đóng góp của đề tài. .................................................................. 5

7. Kết cấu của Luận văn. ............................................................................. 5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
THI ĐUA, KHEN THƢỞNG ........................................................................... 7
1.1. Thi đua, khen thưởng ........................................................................... 7
1.2. Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ........................................ 13
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng36
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA
KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG............................ 39
2.1. Tổng quan về sự hình thành và phát triển cơng tác thi đua, khen
thưởng ở nước ta qua các thời kỳ ...................................................................... 39
2.2. Giới thiệu sơ lược về tỉnh Đắk Nông ................................................. 46
2.3. Hoạt động thi đua, khen thưởng của tỉnh Đắk Nông ......................... 48
2.4. Tác động tích cực của phong trào thi đua đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm qua ......................................................................................... 53
2.5. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, Khen thưởng ở
Đắk Nông .......................................................................................................... 56
2.6. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với thi đua khen thưởng ở
tỉnh Đắk Nông ................................................................................................... 72


CHƢƠNG 3: NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG ........................................................................ 79
3.1. Nhiệm vụ nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng............................................................................................................ ....79
3.2. Giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng ....................................................................................................... 80
KẾT LUẬN ............................................................................................ 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................. 102
PHỤ LỤC …………………………………………………..………... 106



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

- CB, CC

: Cán bộ, công chức

- TĐKT

: Thi đua, khen thưởng

- UBND

: Ủy ban nhân dân

- XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
Biểu số 1: Thống kê các phong trào thi đua tiêu biểu của tỉnh từ năm
2011-2016...................................................................................................... 106
Biểu số 2 : Thống kê số lượng các khen thưởng cấp Nhà nước hàng
năm từ năm 2011 – 2016 ............................................................................... 109
Biểu số 3: Thống kê số lượng khen thưởng cấp Tỉnh hàng năm từ năm
2011-2016........................................................................................................ 10
Biểu số 4: Thống kê các hình thức khen thưởng cấp nhà nước hàng
năm từ năm 2011 – 2016 ................................................................................. 11

Biểu số 5: Thống kê các hình thức khen thưởng thuộc thẩm quyền tỉnh
hàng năm từ năm 2011 – 2016 ...................................................................... 115
Hình 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh Đắk Nơng ....................................... 46


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Ngay từ khi Nhà nước ra đời, Bác Hồ đã rất quan tâm đến Thi đua,
khen thưởng. Người nói “Thi đua là yêu nước, ai yêu nước thì phải thi đua.
Và những người thi đua là những người yêu nước nhất ” [20, tr. 473].
Phong trào thi đua yêu nước do Người khởi xướng và lãnh đạo từ
những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đã nhanh chóng phát triển
sâu rộng và liên tục qua nhiều thập kỷ, trong từng giai đoạn lịch sử của đất
nước. Mục tiêu của thi đua nhằm tạo động lực động viên, lơi cuốn, khuyến
khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng
tạo vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Tỉnh Đắk Nông được tái thành lập hơn
13 năm thì càng thấy được vai trị, vị trí quan trọng của thi đua, khen thưởng.
Trong những năm gần đây, công tác thi đua, khen thưởng đã được tỉnh
Đắk Nơng nhằm thẳng vào những việc khó, việc trọng tâm, trọng điểm của
địa phương để phát động các phong trào thi đua nhằm đưa các nghị quyết,
chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, đã
chú trọng đổi mới nội dung và hình thức thi đua, khen thưởng. Sự đa dạng
về nội dung, phong phú hình thức của các phong trào thi đua đã có những
tác động tích cực, thu hút lực lượng đơng đảo tồn Đảng, tồn qn, tồn
dân tỉnh Đắk Nơng tham gia hưởng ứng và đạt nhiều kết quả quan trọng trên
các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Qua các phong
trào thi đua đã kịp thời biểu dương, tôn vinh, khen thưởng các tập thể và cá
nhân đạt thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua yêu nước, góp phần

thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, công tác chỉ đạo, tổ chức phong trào
thi đua yêu nước ở một số đơn vị, địa phương trong tỉnh Đắk Nơng chưa thường
xun, cịn nặng về sơ kết, tổng kết, hiệu quả chưa cao, triển khai phong trào thi


2
đua cịn mang tính hình thức, chưa hướng thi đua vào tập trung giải quyết những
nhiệm vụ trọng tâm và đột xuất. Nhận thức về ý nghĩa, vai trò, vị trí và tầm quan
trọng của cơng tác thi đua, khen thưởng trong một số cấp ủy Đảng, chính quyền,
đồn thể còn hạn chế, chưa quán triệt sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước về đổi mới cơng tác thi đua, khen thưởng.
Để khắc phục những hạn chế của công tác thi đua, khen thưởng tại tỉnh
Đắk Nông, một trong những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết đó là nâng cao
chất lượng cơng tác thi đua, khen thưởng, trước hết là nâng cao chất lượng
quản lý nhà nước đối với công tác này.
Là một công chức đã từng công tác tại Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh
Đắk Nông, tôi rất quan tâm đến vấn đề này và để kết thúc khóa học Cao học
Quản lý công tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông” và mong rằng đề tài này có thể đóng góp một
phần vào công tác quản lý thi đua, khen thưởng tại tỉnh Đắk Nơng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chủ đề về thi đua, khen thưởng đã được nhiều học giả, các nhà nghiên
cứu quan tâm và có nhiều cơng trình nghiên cứu, các luận văn, luận án, bài
viết đã được công bố, phát hành, đáng chú ý có các cơng trình sau:
- Viện Thi đua - Khen thưởng Nhà nước (1999): Bác Hồ với thi đua ái
quốc và tư tưởng chỉ đạo của Đảng về công tác thi đua, khen thưởng trong
tình hình cách mạng mới, Tài liệu tham khảo.
- Trần Thị Hà (2015) - Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban Thi đua Khen thưởng Trung ương: Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản.

- Trương Quốc Bảo (2010), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua
yêu nước trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật thi đua, khen thưởng, cNXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội


3
- Trần Thị Hà (2010) - Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban Thi đua Khen thưởng Trung ương: Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới thi đua, khen
thưởng trong giai đoạn hiện nay, Đề tài cấp nhà nước, Mã số đề tài: 02/2010.
- PGS.TS Nguyễn Viết Vượng (2006): Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về thi đua u nước trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước”, NXB Lao động, Hà Nội.
Hay một số luận văn Thạc sỹ trên một số ngành, địa phương như:
- "Đổi mới cơng tác thi đua, khen thưởng góp phần tạo động lực làm
việc cho cán bộ, công chức ngành tài chính trong điều kiện hiện nay” (2011) Luận văn Thạc sỹ Quản lý Hành chính cơng của tác giả Phùng Thị Thanh
Loan, Học viện Hành chính Quốc gia.
- “Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang” (2015)- Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý
công của tác giả Nghiêm Đức Dũng, Học viện Hành chính Quốc gia.
- "Đổi mới quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng ở địa
phương” (2007) Luận văn Thạc sỹ Quản lý Hành chính cơng của tác giả
Dương Thị Thanh, Học viện Hành chính Quốc gia.
“Tăng cường quản lý nhà nước về thi đua khen thương giai đoạn 2011
– 2020” (2010) - Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý công của Lê Xuân
Khánh, Học viện Hành chính Quốc gia;
- “Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú
Yên” (2017) - Luận văn Thạc sỹ quản lý công của tác giả Nguyễn Vũ Lộc, ,
Học viện Hành chính Quốc gia.
Các tài liệu phục vụ hội nghị tập huấn Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2013 do Ban Thi đua - Khen thưởng
Trung ương phát hành.

Các báo cáo tổng kết phong trào thi đua yêu nước từng giai đoạn; các
báo cáo công tác thi đua, khen thưởng thường niên của tỉnh Đắk Nông.


4
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu, các luận văn cao học, các bài
viết đều tập trung tuyên truyền về tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong
trào thi đua yêu nước; phân tích làm sâu sắc các nội dung về vị trí, vai trị của
thi đua, khen thưởng trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh; đánh giá thực trạng phong trào thi đua, cơng tác khen thưởng và đề
xuất các nhóm giải pháp để nâng cao hiệu quả các phong trào thi đua và công
tác khen thưởng cũng như tổ chức, cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng
các cấp; đổi mới công tác quản lý về thi đua, khen thưởng hoặc về các chính
sách tạo động lực cho cán bộ, công chức thông qua thi đua, khen thưởng…
Đây là những tài liệu quan trọng, quý giá để tôi tham khảo, nghiên cứu trong
quá trình triển khai thực hiện luận văn này.
Tuy nhiên bản thân tôi nhận thấy rằng, từ trước đến nay chưa có đề tài
nào nghiên cứu về quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng tại địa
bàn Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đắk Nơng nói riêng. Với tầm nhìn của học
viên mới được lĩnh hội những kiến thức quý báu về quản lý công nên tôi chọn
đề tài “Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông” làm đề tài nghiên cứu của mình và có sự tiếp thu, chọn lọc những
quan điểm của các đề tài trước có liên quan.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu để tăng cường quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông trong thời gian tới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu, hệ thống lại những vấn đề lý luận cơ bản về thi đua, khen
thưởng; hệ thống lại một số vấn đề lý luận chung về hoạt động quản lý nhà
nước đối với công tác thi đua, khen thưởng.

- Nghiên cứu khảo sát, phân tích đánh giá về thực trạng hoạt động quản
lý nhà nước thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông; Đánh giá các


5
yếu tố tác động đến thi đua, khen thưởng và quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng tỉnh Đắk Nông những mặt được, những hạn chế, bất cập và rút ra
những nguyên nhân khách quan, chủ quan…
- Đề xuất giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác
này trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng: Các nội dung quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng;
các phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, bao gồm các sở, ban,
ngành, đoàn thể cấp tỉnh; các huyệ n,thị xã.
+ Về thời gian: Giai đoạn 2011 - 2016, có tham khảo các thời kỳ trước đó.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng và quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về quản lý nhà nước công tác thi đua, khen thưởng.
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp: Phương pháp phân tích,
tổng hợp, đặc biệt là phương pháp tổng kết kinh nghiệm để đưa ra những kết
luận cần thiết để có cơ sở đưa ra các giải pháp quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng trong thời gian tới.
6. Dự kiến đóng góp của đề tài
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về
thi đua, khen thưởng của tỉnh.
- Là tài liệu để giúp cơ quan thi đua, khen thưởng ở địa phương tham khảo
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.

7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:


6
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên
địa bàn Đắk Nông
Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng quản lý
nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông


7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG
1.1. Thi đua, khen thƣởng
1.1.1. Khái niệm thi đua
Theo C.Mác "Thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong
hoạt động chung và kế hoạch của con người. Sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi
đua và sự nâng cao theo lối đặc biệt nghị lực sinh động tăng thêm nghị lực
cho riêng từng người" [8, tr.50].
Theo Lê Nin viết trong cuốn: Bàn về ngày thứ bảy lao động cộng sản, đã
nói đến thi đua xã hội chủ nghĩa đó là phong trào lao động tự nguyện, góp sức
giải quyết khó khăn, xây dựng xã hội mới của quần chúng lao động được giải
phóng khỏi ách áp bức bóc lột. Lê Nin coi đây là một sáng kiến vĩ đại, chính
quyền cách mạng cần chăm lo, tổng kết, phổ biến sáng kiến kinh nghiệm.
Theo Phêđôxêép nhà khoa học Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô cho
rằng: Thi đua là sự đọ sức trong lao động và sáng tạo, mang đặc tính của con
người trong xã hội, được sinh ra bởi sự hợp tác lao động và bởi mối quan hệ

xã hội của con người trong quá trình sản xuất...
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì “Thi đua là việc cùng nhau đưa hết khả
năng ra làm nhằm thúc đẩy lẫn nhau đạt được thành tích tốt nhất trong một
hoạt động nào đó” [36, tr. 1599].
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh về thi đua, thì thi đua là hiện tượng
tồn tại khách quan trong xã hội, Bác nói: “...Tưởng lầm rằng thi đua là một
việc làm khác với những công việc hàng ngày. Thật ra cơng việc hàng ngày
chính là nền tảng thi đua. Thí dụ: Từ trước đến nay ta vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở.
Nay ta thi đua ăn, mặc, ở cho sạch, cho hợp vệ sinh, khỏi đau ốm. Xưa nay ta


8
vẫn làm ruộng nay ta thi đua làm ruộng tốt hơn, sản xuất nhiều hơn. Mọi việc
đều thi đua như vậy” [19, tr. 656].
Trên cơ sở lý luận và tư tưởng lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước,
ngày 26/11/2003, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XI đã thơng qua Luật Thi
đua, Khen thưởng, trong đó nêu rõ: "Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự
tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích
tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [22, tr.1].
Như vậy, thi đua là một hoạt động có tổ chức dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, “Xác định rõ mục tiêu, phạm vi, đối tượng thi đua, trên cơ sở đó đề ra
các chỉ tiêu và nội dung thi đua cụ thể. Việc xác định nội dung và chỉ tiêu thi
đua phải đảm bảo khoa học, phù hợp với thực tế của cơ quan, đơn vị, địa
phương và có tính khả thi.” [10, tr. 3]. Phong trào thi đua phải “Có chủ đề, tên
gọi dễ nhớ, dễ tuyên truyền, dễ thực hiện; nội dung bám sát nhiệm vụ chính
trị, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để đề ra nội dung, phương pháp thi đua cụ
thể, thiết thực, phù hợp với điều kiện, khả năng tham gia của cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân” [7, tr. 3]. Do vậy thi đua là hoạt động nhằm thu được
kết quả nhất định, thi đua phải đạt được thành tích tốt nhất.
Thi đua yêu nước chính là biện pháp xây dựng con người mới, rèn

luyện nhân cách cao đẹp cho người lao động. Thi đua yêu nước làm cho
người người đồn kết, gắn bó và thân tình, cởi mở với nhau hơn, bảo đảm lợi
ích cho mình, cho tập thể và cho xã hội. Thi đua là đòn bẩy mạnh mẽ của tiến
bộ kinh tế xã hội, là trường học giáo dục chính trị lao động và đạo đức cho
nhân dân lao động.
Dưới chủ nghĩa tư bản thi đua biểu hiện thành cạnh tranh trong cuộc
chạy đua nhằm kiếm lợi nhuận nhiều hơn, thể hiện ở xu hướng muốn chiến
thắng đối thủ bằng mọi giá trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Trái với cạnh tranh,
một nhân tố chia rẽ mọi người, làm cho mọi người đối lập với nhau, cô lập


9
nhau, thi đua xã hội chủ nghĩa xét về mặt khách quan đã làm cho mọi người
đoàn kết trong hoạt động lao động chung nhằm đạt đến mục đích chung.
Phong trào thi đua yêu nước không chỉ là tạo ra tiềm lực về vật chất,
tinh thần mà cịn có tác dụng cải tạo người lao động, cải tạo con người, giúp
con người loại bỏ những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ để tiến bộ: “Thi đua là một
cách rất tốt, rất thiết thực để làm cho mọi người tiến bộ” [20, tr. 270].
1.1.2. Khái niệm khen thưởng
Khen thưởng gắn liền với thưởng phạt của nhà nước thuộc các chế độ
xã hội khác nhau, là công việc đã tồn tại khá lâu trong lịch sử xã hội.
Ở nước ta, việc khen thưởng đã được thực hiện từ các triều đại phong
kiến trước đây. Nguyễn Trãi đã từng nói: Một Nhà nước mà thưởng phạt
nghiêm minh, kịp thời là Nhà nước vững mạnh. Nhà nước nào phạt nhiều hơn
thưởng là Nhà nước đang suy tàn. Nhà nước nào thưởng nhiều hơn phạt là
Nhà nước phồn vinh. Trong sách Đại Việt sử ký tồn thư của Ngơ Sỹ Liên đã
ghi rõ những hình thức khen thưởng, như sau:
- Khen thưởng người có cơng trong chiến trận.
- Khen thưởng người có cơng trong việc đi sứ.
- Khen thưởng người phị tá có cơng lao tài đức.

- Khen thưởng người tiến cử, người hiền tài.
- Khen thưởng người có lời tâu đúng.
- Khen thưởng người cấp dưới giữ đúng phép công, không vị nể người
quyền q cấp trên.
- Khen thưởng người có cơng làm thủy lợi.
- Khen thưởng người có tài văn chương.
- Khen thưởng người cao tuổi...
Đảng, Bác Hồ đã rất quan tâm đến việc biểu dương khích lệ động viên
người tốt, việc tốt. Mỗi khi đọc báo, nghe đài, thấy có nghĩa cử đẹp là Bác


10
cho đi kiểm tra ngay để Bác khen thưởng. Bác thường nhắc nhở khen thưởng
phải chính xác và kịp thời để động viên phát huy mặt ưu điểm, tích cực, khắc
phục và đẩy lùi mặt khuyết điểm, tiêu cực nhằm xây dựng con người mới vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Bác Hồ đã chỉ thị “Có cơng thì thưởng, có lỗi thì phạt, khen thưởng
phải có tác dụng giáo dục, động viên, nêu gương...” khen thưởng cịn là một
chính sách của nhà nước để ghi công, tôn vinh các cá nhân, tập thể có thành
tích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Luật Thi đua, Khen thưởng đã nêu rõ: “Khen thưởng là việc ghi nhận,
biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với
cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [22, tr.1].
Như vậy, khen thưởng là một vấn đề thuộc phạm trù khoa học xã hội.
Khen thưởng là hình thức ghi nhận cơng lao, thành tích của nhà nước bằng
quyết định khen thưởng của cơ quan có thẩm quyền. Khen thưởng vừa có ý
nghĩa động viên về tinh thần và khích lệ bằng vật chất. Công tác khen thưởng
tồn tại trong nhiều chế độ gắn liền với tồn tại nhà nước. Khen thưởng trong cơ
chế thị trường phải được tiến hành một cách năng động và khách quan, nâng
cao chuẩn mực của nền đạo đức xã hội thể hiện trong quy định, chính sách mới

về khen thưởng. Tiêu chuẩn khen thưởng cần được coi như chuẩn mực đạo đức
xã hội, đồng thời mở rộng đối tượng khen thưởng trong các thành phần kinh tế,
các tầng lớp xã hội, khen thưởng phải chính xác, kịp thời và bình đẳng.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, khen thưởng là một khâu quan trọng
trong quá trình tổ chức và chỉ đạo các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước, của
mọi cơ quan, tổ chức, là một biện pháp quan trọng trong việc đánh giá kết quả
thành tựu, kết quả cơng việc, là việc thực hiện các chính sách xã hội. Khen
thưởng có vai trị quan trọng là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, là biện
pháp của người quản lý thực hiện nhiệm vụ trọng tâm chính trị của đơn vị, địa


11
phương mình nhằm khuyến khích, động viên mọi tầng lớp trong xã hội tích
cực hăng hái thi đua lập thành tích trong lao động sản xuất và cơng tác.
1.1.3. Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng
Hồ Chủ tịch nói “Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch” [35,
tr.138], như vậy, thi đua trở thành nền tảng để trên cơ sở đó lựa chọn được
những tập thể, cá nhân tiêu biểu nhất, xứng đáng nhất, đầy đủ và kịp thời nhất
cho việc khen thưởng; có tổ chức tốt phong trào thi đua thì kết quả đem lại
của công tác khen thưởng mới cao. Khen thưởng kịp thời, chính xác, có tác
dụng động viên, khuyến khích cho mùa thi đua sau được kết quả cao hơn. Do
vậy, không coi nhẹ khen thưởng trong thi đua, ngược lại không có thi đua thì
khơng có căn cứ đánh giá thành tích để khen thưởng.
Trong các phương pháp tạo động lực, thi đua là một phương pháp mang
tính địn bẩy. Khen thưởng là chất xúc tác của thi đua, thúc đẩy phong trào thi
đua phát triển.
Thi đua là động lực thúc đẩy tập thể, cá nhân phát huy tinh thần đoàn
kết, sáng tạo, nỗ lực vượt mọi khó khăn, phấn đấu vươn lên hồn thành nhiệm
vụ chính trị được giao, như Hồ Chí Minh nói: “Thi đua tăng cường đồn kết,
mà đoàn kết đẩy mạnh thi đua. Đoàn kết ấy là đồn kết thật sự và rất chặt

chẽ” [1, tr. 112].
Chính thi đua là động lực thúc đẩy hoàn thành, trên cơ sở đó để thực
hiện chính sách khen thưởng; thực tiễn cho thấy ở đâu phong trào thi đua hấp
dẫn, sơi nổi, thực sự là động lực thì ở đó xã hội phát triển quần chúng nhân
dân phấn khởi và khen thưởng chính xác, ngược lại ở đâu phong trào thi đua
trầm lắng, đơn điệu, hình thức hoặc khơng phát động phong trào thi đua, thì ở
đó xã hội trì trệ, ảnh hưởng đến việc bình xét khen thưởng khó khăn, khơng
chính xác, nhân dân lao động kém phấn khởi, có khi sinh ra những tiêu cực.


12
Chính khen thưởng vừa là kết quả, vừa là yếu tố thúc đẩy phong trào
thi đua phát triển, thực tế cho thấy: Ở đâu làm tốt công tác khen thưởng, một
cách chính xác, khách quan dựa trên trên cơ sở kết quả của phong trào thi đua
thì ở đó nhân dân, cán bộ sẽ tin tưởng, phấn khởi, sẽ có những thắng lợi mới,
nhân tố mới trong phong trào thi đua thời gian tới, hoặc ngược lại.
Cùng với thi đua, cơng tác khen thưởng góp phần quan trọng vào việc
khẳng định lý tưởng sống, khẳng định chuẩn mực đạo đức và nhân cách thời
đại. Bác Hồ dạy: “Trong mỗi con người đều có mặt thiện, mặt ác. Nhiệm vụ
của chúng ta là làm cho mặt thiện sinh sôi, nảy nở như hoa mùa xuân, mặt ác
phải đẩy lùi”. Nhưng nếu khơng có phong trào thi đua thì cơng tác khen
thưởng rất khó làm trịn nhiệm vụ của mình. Bởi vì chính phong trào thi đua
là mơi trường rèn luyện tạo nên những điển hình tiêu biểu, những gương
người tốt, việc tốt.
Xét cả hai phương diện lý luận và thực tiễn cho thấy thi đua, khen
thưởng luôn tương tác, hỗ trợ cho nhau, có thể nói thi đua và khen thưởng có
mối quan hệ hữu cơ và biện chứng với nhau; đó là hai mặt của một vấn đề, là
hai nhân tố tác động lẫn nhau của một quá trình đem đến một hiệu quả chung.
Bên cạnh đó, cũng có những hình thức khen thưởng khơng thơng qua từ
kết quả của phong trào thi đua như: Khen thưởng tổng kết thành tích hai cuộc

kháng chiến; khen thưởng cho cán bộ lãnh đạo có q trình cống hiến lâu dài
trong cơ quan, tổ chức, đoàn thể; khen thưởng đối với những cá nhân tổ chức
trong nước và ngồi nước có cơng lao, đóng góp cho đất nước Việt Nam nói
chung và các tỉnh, thành phố nói riêng; khen thưởng đột xuất cho cá nhân
dũng cảm cứu người, tài sản... nhưng việc khen thưởng các thành tích trên
cũng có quan hệ nhất định đối với thi đua, nó cũng bị ảnh hưởng nhất định từ
kết quả truyền thống thi đua yêu nước của dân tộc và của các phong trào thi
đua hiện nay đem lại.


13
1.2. Quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng (TĐKT) là một nội dung
trong quản lý nhà nước về xã hội.
"Quản lý nhà nước về TĐKT là sự tác động, điều chỉnh thường xuyên của
nhà nước bằng quyền lực nhà nước đối với hoạt động TĐKT của một quốc gia để các
hoạt động đó diễn ra theo các quy định của pháp luật TĐKT, góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội" [17, tr.5].
Hiện nay, xuất phát từ tính phức tạp, năng động và nhạy cảm của nền
kinh tế thị trường địi hỏi cần có sự quản lý của nhà nước để tổ chức và điều
hành các hoạt động quản lý nhà nước về TĐKT. Chủ thể ấy là nhà nước mà cụ
thể hơn là các cơ quan nhà nước, có sự tham gia giám sát của các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội được trao quyền. Để hồn thành sứ mệnh của
mình Nhà nước phải xây dựng, tổ chức và quản lý các hoạt động về TĐKT.
Pháp luật là cơ sở và là công cụ quản lý hàng đầu, công cụ không thể
thay thế do xuất phát từ hoạt động của xã hội, xã hội càng phát triển thì con
người càng muốn khẳng định mình, càng phấn đấu thi đua lao động, sáng tạo
nên cần có sự quản lý nhà nước.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay, khi chúng ta đang vận hành nền kinh

tế thị trường theo định hướng XHXN, có rất nhiều biểu hiện tiêu cực diễn ra
như Đảng ta đã dự báo có tình trạng “chạy chức, chạy quyền, chạy Huân
chương” diễn ra phức tạp và đa dạng đòi hỏi sự quản lý nhà nước.
Để thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước phải sử dụng đồng bộ các văn
bản pháp luật. Đây là một công cụ hữu hiệu nhất và không thể thiếu được
trong việc quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội cũng như trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.


14
Việc quản lý nhà nước về TĐKT đòi hỏi cần có một bộ máy thực hiện
các hoạt động quản lý hiệu lực và hiệu quả, có đủ đức - đủ tầm để làm nhiệm
vụ và một hệ thống pháp luật về TĐKT đồng bộ, hoàn chỉnh.
1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
Công tác thi đua, khen thưởng từ lâu đã được đã được đề cao, cụ thể:
- Mác - Lê Nin đã thấy về vấn đề thi đua
+ C.Mác thấy rằng thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động,
trong hoạt động chung và kế hoạch của con người. Sự hợp tác lao động tạo ra
sức mạnh tập thể lớn hơn sức mạnh của từng lao động cá nhân cộng lại, đây là
một phát hiện hết sức có ý nghĩa. Chính thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác
lao động, trong hoạt động chung và có kế hoạch của con người. Sự tiếp xúc xã
hội đẻ ra thi đua, thi đua làm tăng năng suất lao động của người công nhân.
+ Lê Nin đã chỉ rõ “Tổ chức thi đua giữa (tất cả) các công xã tiêu dùng
và sản xuất trong nước nhằm nâng cao khơng ngừng tính tổ chức, tính kỷ luật,
năng suất lao động, nhằm chuyển lên một trình độ kỹ thuật cao hơn, nhằm tiết
kiệm lao động và sản phẩm; nhằm giảm dần từng bước ngày lao động xuống
6 giờ trong một ngày” [34, tr. 94]. Lê Nin chỉ ra sự khác biệt giữa cạnh tranh
và thi đua: “Những người xã hội chủ nghĩa chưa hề bao giờ đả kích việc thi
đua cả, mà chỉ đả kích sự cạnh tranh thơi. Cạnh tranh là một thứ hình thức thi
đua đặc biệt mà xã hội tư bản chủ nghĩa vốn có, là sự giành giật miếng ăn,

giành giật ảnh hưởng và địa vị trên thị trường giữa những người sản xuất
riêng lẻ” [34, tr. 185]. Ông cho rằng chỉ có trong điều kiện xã hội mới, tính
tháo vát, tinh thần thi đua, óc sáng kiến của đơng đảo quần chúng nhân dân
mới được phát huy rộng rãi trên quy mô thật sự to lớn. Thi đua làm cho người
lao động sau hàng thế kỷ lao động cho người khác, phải lao dịch nơ lệ cho
bọn bóc lột, lần đầu tiên họ đã có thể lao động cho mình và lao động dựa trên
tất cả những thành quả của kỹ thuật hiện đại và của văn hóa hiện đại.


15
- Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận vai trị của thi đua, khen thưởng:
Thi đua là một cách yêu nước thiết thực nhất, những người thi đua là
những người yêu nước nhất. Nước nhà đang kháng chiến và kiến quốc, mục
đích thi đua ái quốc là làm sao cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến thiết
chóng thành cơng. Người khẳng định rõ: “Thật ra, cơng việc hàng ngày chính
là nền tảng thi đua” [19, tr. 658]. Đây là luận điểm có giá trị bổ sung và phát
triển lý luận Mác-Lênin về thi đua trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo Người, thi đua để phát huy hiệu quả, vai trị cần phải có kế hoạch,
có nội dung cụ thể, không làm chung chung, được chăng hay chớ. Người nhấn
mạnh thi đua: “Phải có kế hoạch tỷ mỷ. Kế hoạch ấy phải do từng đơn vị nhỏ,
từng gia đình, từng cá nhân bàn bạc kỹ, hiểu biết thấu, vui vẻ làm, nghĩa là
phải sao cho mỗi nhóm, mỗi người tự giác, tự động… Nội dung của kế hoạch
phải thiết thực, rõ ràng, đúng mực, khi đặt kế hoạch phải tuyệt đối tránh sự sơ
suất, đại khái, quá cao, phiền phức, miễn cưỡng” [20, tr. 270]. Và kết quả thi
đua không phải được một lần rồi đóng đấy, mà kết quả thi đua phải đạt chất
lượng, có sự phát triển về phong trào và sự cố gắng liên tục không ngừng
nghỉ. Người chỉ rõ: “Mức thi đua phải tiến dần mãi và tiến mãi mãi. Những
người và những nhóm hiện nay đã đạt được mức cao, thì phải làm cho chất
lượng tốt hơn nữa và phải gắng tiến lên nữa, giúp đỡ những người và những
nhóm cịn kém theo kịp. Trí khôn, sáng kiến, học hỏi, tiến bộ và tinh thần hy

sinh của người ta khơng có giới hạn, nó cứ tiến mãi. Cho nên mức thi đua
cũng khơng có hạn, nó cũng tiến lên mãi” [20, tr. 472].
- Vài trị của thi đua, khen thưởng qua quan điểm của Đảng và Nhà nước ta:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, về cách thức tổ chức phong
trào thi đua, về kết quả thi đua được Đảng và Nhà nước ta vận dụng sáng tạo
và thực sự các phong trào thi đua có đóng góp to lớn trong cuộc cách mạng
đổi mới của đất nước, cuộc cách mạng coi tầm quan trọng của con người, coi


16
con người là trung tâm và các phong trào thi đua, khen thưởng hướng đến
khuyến khích người lao động trực tiếp, người có cơng trong lao động.
Các phong trào thi đua yêu nước đã gặt hái được nhiều thành công lớn
trên mọi miền của Tổ quốc, từ trung ương đến địa phương, từ miền xuôi đến
miền ngược, các phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh quốc phịng đều được phát động rộng rãi, trở thành động
lực, niềm tin yêu của người dân vào công cuộc đổi mới của Đảng và đất nước.
Sự cần thiết cần có quản lý của nhà nước về TĐKT: Các hoạt động về
TĐKT thuộc lĩnh vực hoạt động xã hội, điều đó cần có sự quản lý của nhà
nước về TĐKT, bởi vì:
- Thi đua, khen thưởng là một lĩnh vực hoạt động rộng lớn của hàng
triệu hàng triệu cán bộ, chiến sỹ và các tầng lớp nhân dân thông qua phong
trào thi đua; huy động các tổ chức trong hệ thống chính trị tham gia phong
trào thi đua, thơng qua đó phát huy được nội lực của các tập thể, cá nhân
trong cả nước, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, bảo vệ và giữ
vững quốc phòng - an ninh.
- Thi đua là hoạt động rộng khắp ở tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh
tế, văn hố, xã hội, quốc phòng, an ninh ở các ngành, các cấp, rất đa dạng,
phong phú, đồng thời mục tiêu, hình thức, biện pháp thi đua thường xuyên
cần thay đổi để phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội.

- Khen thưởng là việc thực hiện các chính sách của nhà nước, là lĩnh
vực nhạy cảm, là cán cân công lý biểu thị sự cơng minh trong bình xét và
khen thưởng. Khen thưởng là một quá trình, một biện pháp quan trọng trong
việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, vì vậy cần tránh khen nhầm người
gây tác hại phản phong trào thi đua.
Kết quả bình xét thi đua cần có sự đánh giá đúng, khách quan; thưởng phạt công bằng, kịp thời, rõ ràng để động viên khuyến khích mọi tầng lớp


17
trong xã hội tham gia vào phong trào thi đua, đồng thời uốn nắn những lệch
lạc, sai trái trong thực hiện công tác TĐKT.
Lịch sử cho thấy các nhà nước trước đây trên thế giới cũng như ở Việt
Nam đều thực hiện vai trị thưởng, phạt, đó là ban thưởng những người có
cơng và trách phạt những người có tội.
Nhận thức đúng vị trí, vai trị và tầm quan trọng của công tác TĐKT, sự
quản lý của nhà nước đối với hoạt động TĐKT mới có được sự thống nhất, tạo
được sức mạnh để thi đua trở thành động lực thúc đẩy xã hội phát triển, nhất
là hiện nay trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, thi đua không phải là
"ganh đua, không phải cá lớn nuốt cá bé" mà thi đua của chúng ta với tinh
thần cạnh tranh lành mạnh, có sự quản lý của nhà nước để phong trào thi đua
thực sự gắn kết ý thức đóng góp cơng sức vào xây dựng và bảo vệ đất nước,
kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân, tập thể. Do đó, cơng tác TĐKT đã có
những đóng góp khơng nhỏ vào sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN. Vì vậy, Nhà nước phải quản lý hiệu quả công tác TĐKT.
Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị cũng như Chỉ
thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới công
tác thi đua, khen thưởng” đã chỉ rõ: “Các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng
đầu cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về
chất lượng, hiệu quả công tác TĐKT; tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời
phát hiện, ngăn ngừa tiêu cực trong công tác TĐKT, tránh tình trạng khen

thưởng tràn lan, khơng thực chất; đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp
tổ chức các phong trào thi đua yêu nước; thực hiện nghiêm túc việc đôn đốc,
kiểm tra, sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, lựa chọn các tập thể, cá nhân
có thành tích tiêu biểu để biểu dương, tôn vinh, khen thưởng kịp thời; thực
hiện đổi mới công tác khen thưởng bảo đảm chính xác, kịp thời, cơng khai,
minh bạch...Chú trọng khen thưởng tập thể nhỏ, công nhân, nông dân, nông


×