Đề tài:
rèn chữ viết cho học sinh lớp một
I- Phần Mở đầu :
1-Lý do:
Chữ viết là biểu hiện phần nào t cách của mỗi con ngời . Vì thế trong nhà
trờng, việc rèn chữ viết cho học sinh là một yếu tố quan trọng tơng đơng với việc
cung cấp kiến thức cho các em. Chơng trình thay sách ngày nay lại chú trọng rất
nhiều đến khâu rèn chữ viết .
Bản thân tôi cũng thấy đợc tầm quan trọng của vấn đề này , nên mấy năm
gần đây tôi cũng đà cố gắng rất nhiều để đạt đợc thành công trong việc rèn chữ
cho học sinh và tôi cũng thấy vấn đề mình áp dụng khá đạt , thế nên tôi xin ghi
lại những gì mình làm đợc để mong rằng kết quả sau này sẽ giúp cho chúng ta
phần nào trong rất nhiều cách giáo dục , đa học sinh đến cái đẹp hoàn mỹ .
2- Mục đích và nhiệm vụ:
Tôi đợc Ban giám hiệu phân công giảng dạy lớp Một. Lớp tôi đa số các em
viết chữ xấu, cẩu thả cha ngay ngắn cẩn thận, không chuẩn theo mẫu chữ viết do
Phòng giáo dục đề ra, tôi băn khoăn trăn trở nhất định phải tìm ra nguyên nhân và
phải làm thế nào để chấm dứt tình trạng này, để học sinh cẩn thận hơn, nề nếp
hơn nhất là khâu chữ viết .
Thật ra, đối với một trờng, nguyên nhân cha mẹ học sinh hầu hết là bận
công việc làm ăn , bản thân không thấy đợc tầm quan trọng việc học, không hiểu
đợc rằng rèn cho các em chữ viết đẹp là tạo đợc nền tảng để con em mình học tốt
hơn . Ngoài ra bản thân họ cũng vì công việc nên thời gian dành chăm sóc con rất
ít . Thêm vào đó về mẫu chữ , họ cha nắm rõ quy trình nên việc rèn chữ cho các
em quả là một vấn đề khó .
Đối với chơng trình thay sách ngời giáo viên lại càng chú trọng hơn về
chữ viết . Do đó , chữ viết là một trong những môn học có tầm quan trọng không
nhỏ . Vì thế , bản thân tôi qua sự nổ lực của việc giảng dạy tôi đà rút ra một số
kinh nghiệm cho bản thân , mà theo tôi nếu áp dụng đợc sẽ giúp cho chúng ta
không ít trong quá trình giảng dạy .
II- Phần Hai
I- Nội dung và Phơng pháp tiến hành :
1- Cô giáo phải khuôn mẫu ®èi víi häc sinh :
2
Ngời ta bảo rằng Cô giáo là một khuôn đúc và học sinh là sản phẩm do
thầy đúc ra . Do đó , điều trớc tiên là bản thân giáo viên phải rèn cho mình chữ
viết đúng mẫu , đúng kích thớt . Trớc mặt học sinh giáo viên phải luôn luôn gơng
mẫu trong chữ viết nhất là viết bảng không đợc cẩu thả , gạch bảng phải luôn
dùng thớt để tạo cho các em tính cẩn thận , sự kiên trì và quan điểm thẩm mỹ .
2- Phải theo dõi sao sát từng đối tợng học sinh :
Trong công tác chủ nhiệm giáo viên phải có một sổ tay theo dõi , phân loại
chữ viết của từng đối tợng häc sinh , song song víi viƯc båi dìng tri thức giáo
viên phải thờng xuyên nhắc nhở về chữ viết , phải quan tâm đúng mực đối với các
em viết cẩu thả . Muốn thế trong phần truy bài đầu giờ và trớc khi kết thúc tiết
học , giáo viên phải cho cả lớp giơ hai tay lên để kiểm tra sự sạch sẽ , khen gợi
những em giữ gìn sạch đôi tay , vì tay sạch sẽ thì sách vở mới sạch đợc .
3- Vở phải ngay ngắn sạch sẽ :
Học sinh có tình trạng tì tay lên bàn mà không để ý nên góc vở bị vớng và
bị cong . Cho nên trong những đồ dùng học tập của học sinh , sáng nào giáo viên
cũng phải cho các em để các đồ dùng lên bàn để kiểm tra .
4- Hớng dẫn rõ qui trình và kích thớt của chữ :
Đối với mẫu chữ viết giáo viên phải cung cấp cho các em quy cách viết các
mẫu chữ , trong các giờ tập viết , phần củng cố phải cho các em nhắc lại . Chẳng
hạn : Chữ K có mấy ô ly , chữ nào có độ cao 5 ô ly , với chữ thờng cỡ vừa ... hoặc
nếu viết chữ cỡ vừa thì chữ nào có ®é cao 2,5 « ly ... Song song víi viƯc nhắc
nhở , giáo viên nên kiểm tra , không nên ngồi trên bàn mà phải đi đến từng bàn
học sinh để kiểm tra và phải kiểm tra thờng xuyên liên tục kiên trì .
5- Thờng xuyên kiểm tra đôn đốc dới mọi hình thức :
Giáo dục chữ viết cho học sinh , không cho phép giáo viên làm việc tuỳ
hứng , nghĩa là thích thì kiểm tra gay gắt có lúc lại xuê xoa qua loa... mà phải có
một thời khoá biểu nhất định , một sự quyết tâm . Nếu giáo dục ở lớp mÃi mà học
sinh không có tiến bộ thì giáo viên phải gặp phụ huynh đề nghị sự hổ trợ của gia
đình .
Hình thức khen thởng cũng là một trong những biện pháp hiệu nghiệm
trong khâu rèn chữ viết cho học sinh .
Những bài viết đẹp và những em giữ vở sạch phải đợc cô giáo phát hiện để
phát huy trớc lớp ngợc lại đối với những em cẩu thả , lời biếng nhất định phải răn
đe .
Thờng xuyên tổ chức thi đua giữa các tổ về vở sạch chữ đẹp , tổng kết theo
kỳ , tháng có phát huy khen thởng ( hình thức có thể đợc tặng hoa ...)
3
Một điều kiện nữa không thể thiếu đợc trong việc rèn chữ cho học sinh là
giáo viên phải thật gần gũi với học sinh để các em vui khi viết bài . Có gì vui
bằng trong giờ tập viết , học sinh thỏ thẻ với cô : Cô ơi con viết thế này đẹp cha
cô , con viết thế này đúng cha cô , viết thế này hở cô , đẹp không cô ... và có vui
thì mới có học , học mà vui - vui mà học ...
III- Phần Kết quả :
Kết quả :
Nh vậy, những năm gần đây tôi cảm thấy phần nào mình có thành công
mỗi khi nhìn lại sản phẩm của học sinh trong lớp . Riêng bản thân tôi viết chữ
không đẹp nên tôi đà cố gắng rèn cho mình để có một nét chữ đẹp hơn và tôi nghĩ
rằng , viết chữ không hẳn là hoa tay mà trong đó muốn chữ viết đẹp phần lớn là
phải biết chịu khó , phải kiên trì chăm chỉ cũng nh học vậy . Một Cao Bá Quát
ngày xa chính là tấm gơng cho bản thân tôi và tôi cũng đà hiểu rằng muốn học
sinh tốt các môn học khác , trớc tiên phải tạo cho các em có một chữ viết tốt .
Muốn thế giáo viên phải thực sự là ngời mẹ thứ hai , tạo đợc sự gần gũi thơng yêu
, động viên các em để các em chịu học và thích học
Trên đây là kinh nghiệm của tôi trong việc rèn chữ viết . Tuy nhiên không
sao tránh khỏi thiếu sót mong sự góp ý của LÃnh đạo và các bạn đồng nghiệp.
Nhơn Phú, ngày 8 tháng 5 năm 2007
Ngời viết
Nguyễn Thị Kim Loan
ẹE TÀI:
MỘT VÀI KINH NGHIỆM TRONG LUYỆN NÓI
CHO HỌC SINH LỚP 1
4
I- PHẦN MỞ BÀI :
1- Lý do chọn đề tài:
Tiếng Việt Tiểu học là mục tiêu hình thành và phát triển ở học sinh
các kỹ năng sử dụng tiếng Việt ( đọc, viết, nghe nói) và cung cấp những
kiến thức sơ giản gắn trực tiếp với việc học Tiếng Việt nhằm tạo ra ở học
sinh năng lực dùng Tiếng Việt để học tập ở Tiểu học và các bậc học cao hơn
, để giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi.
2- Mục đích – Nhiệm vụ:
Chương trình Tiếng Việt Tiểu học đặc biệt coi trọng nhiệm vụ hình
thành và phát triển bốn kỷ năng sử dụng tiếng việt xem đó là một bước thay
đổi cơ bản cách suy nghó bấy lâu chỉ tập trung sự chú ý vào hai kỷû năng
Đọc - Viết .
Từ thực tiễn đời sống cho thấy con người sử dụng ngôn ngữ dạng nói
trong giao tiếp chiếm nhiều thời gian , không gian hoạt động rộng lớn hơn
dạng viết. Do đó, chương trình mới đã chú ý luyện nói cho học sinh lớp 1
thành một mục riêng có vị trí khiêm tốn trong bài dạy vần , tập đọc . Vấn đề
đặt ra là làm sao để thực hiện tốt mục tiêu của chương trình , đảm bảo được
chất lượng dạy học kỷ năng nói cho học sinh Tiểu học .
3- Phương pháp tiến hành :
Trong năm học 2006 – 2007 được sự phân công của Ban giám hiệu
trường, tôi là giáo viên chủ nhiệm lớp 1 .
Qua thực tế giảng dạy gần một năm học , chúng ta thẳng thắn thừa
nhận rằng việc luyện nói cho học sinh lớp 1 chưa đạt kết quả cao .
II- PHẦN KẾT QUẢ NỘI DUNG :
1- Thực trạng đề tài:
- Học sinh còn ảnh hưởng nhiều về tiếng địa phương , các em phát âm
không chuẩn , nói còn chậm , chưa trôi chảy .
- Một nguyên nhân là những bài luyện nói ở sách giáo khoa hiện hành
nhất là định hướng ở sách hướng dẫn giáo viên đã không tạo ra được bước
đột phá trong khâu luyện nói .
2- Các biện pháp nâng cao hiệu quả luyện nói :
5
Những bài dạy này các giáo viên nên tuân thủ theo sách hướng dẫn đã
sử dụng phương pháp hỏi - đáp quen thuộc . Giáo viên hỏi, học sinh trả lời .
Sự thụ động của học sinh trong luyện nói đã tạo ra một bức tranh không lấy
gì làm sáng sủa của luyện nói . Cách hỏi trùng lặp , cách trả lời của học sinh
cũng trùng lặp , chưa nói đến sử dụng ngữ điệu cho phù hợp . Các em
thường bắt chước ngữ điệu giáo viên hoặc của em được nói trước , không có
sự giao cảm giữa người nói và người nghe trong hội thoại ví dụ :
Học bài : n , m chủ đề nói về bố mẹ , ba má
Hệ thống câu hỏi :
+ Quê em gọi người sinh ra mình là gì ?
+Nhà em có mấy anh em ? Em là con thứ mấy ?
+ Học sinh có thể kể thêm về bố mẹ mình và tình cảm của mình đối
với bố mẹ cho cả lớp nghe ?
+ Em làm gì để bố mẹ em vừa lòng ?
Hệ thống câu hỏi :
+ Trong tranh vẽ này có những thứ gì ?
+ Ra xếp hàng , đứng trước và đứng sau em là những bạn nào ?
Chúng ta hình dung sau khi học sinh tự trả lời xong các câu hỏi ở trên
thì các em sẽ luyện được gì ? Chắc chắn ở đây hiệu quả của việc luyện nói
không bằng hiệu quả của việc học toán hay đạo đức .
Cứ dạy theo kiểu này học sinh chỉ có việc nghe và trả lời câu hỏi của
cô giáo . Nếu cô không hỏi học sinh sẽ không trả lời và nếu nói khác lời cô
giáo và các bạn trong lớp liệu có được không ?
Sự eo hẹp về thời gian cũng ảnh hưởng đến việc tổ chức lớp học ,
chọn lựa phương pháp dạy .
Từ thực tế giảng dạy và hiệu quả của việc rèn luyện nói , tôi đã đề
xuất các biện pháp sau đây :
3- Vận dụng giải pháp vào thực tế:
a-Tổ chức lớp học : Khác với luyện đọc và viết chữ học sinh tập trung
chú ý cao độ . Nhìn học sinh viết , chúng ta thấy lớp học im lặng , nghiêm
túc thì phần luyện nói đòi hỏi cần không khí lớp học tự nhiên , thoải mái .
6
Các em chuẩn bị hào hứng bước vào một cuộc trò chuyện thật sự . Do vậy
hình thức tổ chức hợp lý nhất là phân lớp thành các tổ , nhóm . các thành
viên trong nhóm , tổ đều tham gia vào các cuộc đàm thoại .Qua thực tế , tổ
chức lớp học theo kiểu này nhiều em được nói hơn tăng 70 80%.
Nơi nào có điều kiện thuận lợi có thể tiến hành luyện nói ở ngoài
trời , không khí thoáng mát tạo tâm lý thoải mái để học sinh nói tự nhiên
hơn .
Kết hợp cho học sinh đóng vai để làm phong phú cuộc hội thoại với
các đối tượng giao tiếp khác nhau .
b- Cần phải quán triệt quan điểm giao tiếp trong luyện nói : Phải chú ý
đến các nhân tố để hình thành cuộc giao tiếp - Hoàn cảnh giao tiếp ; đối
tượng giao tiếp , nội dung giao tiếp ( theo chủ đề của sách giáo khoa ) . Cần
phải trả lời các câu hỏi : Các em nói với ai ? về việc gì trong hoàn cảnh
nào ? Như vậy trên cơ sở các hình vẽ ở sách giáo khoa và các câu hỏi của
giáo viên làm điểm tựa thì thầy cô giáo chịu khó suy nghó xây dựng lại bài
cần dạy giúp các em nói trong một tình huống cụ thể :
Ví dụ : Bài n, m chủ đề nói về bố mẹ, ba má. Thay vì câu hỏi của cô
giáo ở trên. Giáo viên chỉ ra đối tượng giao tiếp . Em hãy nói với các bạn
trong nhóm , tổ về gia đình của mình ? ( gợi ý nói về ba má, anh em, công
việc …) Từ đó học sinh có thể trao đổi thoải mái với nhau . Cô giáo có thể
kiểm tra lại các em về các thông tin nhận biết về gia đình của bạn . Cách
luyện nói này gần với cuộc sống hơn , học sinh nói tích cực hơn .
Qua thực tế áp dụng , tôi cố gắng biên soạn lại bài luyện nói cho phù
hợp với đối tượng - Các em không chỉ được nói nhiều mà hiệu quả được tăng
lên rõ rệt . Các em nói có đối tượng cụ thể , ngữ điệu khi nói phong phú
hơn , không còn chỉ là các câu trả lời - Mà các em có thể kể , có thể hỏi …
c- Vai trò của giáo viên trong luyện nói :
Thầy giáo đóng vai trò quyết định cho sự thành công của luyện nói :
Bởi vì hơn ai hết trong giờ luyện nói thầy giáo không chỉ là người hướng dẫn
, tổ chức lớp mà phải biết lắng nghe cả lớp, từng em để kích thích gợi ý các
em tích cực tham gia vào luyện nói. Từ những bức tranh đơn giản thầy giáo
phải tưởng tượng tạo ra các hoàn cảnh giao tiếp giống như đời sống thực mà
không xa chủ đề của mục luyện nói .
7
Muốn thành công, thầy giáo phải dặn dò các em chuẩn bị bài ở nhà ,
xem các hình vẽ, chủ đề của mục luyện nói. Em có thể tưởng tượng và nói
với người thân trong gia đình với các bạn trong lớp , trong tổ với cô giáo .
Thầy Cô giáo còn là người biết lắng nghe tôn trọng ý kiến các em .
Khi cần thiết mới góp ý , tránh can thiệp thô bạo ngắt lời các em làm cho
các em không còn hào hứng nói . Mỗi lời nói hay , biểu cảm của các em đều
được thầy giáo khuyến khích , biểu dương kịp thời . Thầy giáo nên góp ý về
cách sử dụng từ ngữ chưa chính xác , ngữ điệu chưa phù hợp . Nếu là những
bài mở đầu giáo viên có thể làm mẫu để học sinh bắt chước nhưng cần chú
ý yêu cầu các em sáng tạo trong khi nói .
Thực tế cho thấy nếu thầy cô giáo chuẩn bị công phu thì hiệu quả của
luyện nói được nâng cao . Học sinh không chỉ nói đúng mà nói hay .
Trên đây là một số kinh nghiệm đúc kết qua thực tế giảng dạy ở lớp 1
sách giáo khoa mới , tôi mạnh dạn đưa ra cùng trao đổi với các bạn đồng
nghiệp . Mong có sự trao đổi , thảo luận để tinh thần thay sách theo chương
trình mới , đến được với các em . Hiệu quả của luyện nói cho học sinh được
nâng cao ./.
Nhơn Phú , ngày 10 tháng 5 năm 2007
Giáo viên
Trần Thị Ngọc Yến
Quy Nhơn, ngày 25 thaựng 3 naờm 2007
Ngửụứi Vieỏt
Nguyeón Thũ Thuyen
Đề tài:
rèn chữ viết cho học sinh lớp một
I- Phần Mở đầu :
Lý do:
Chữ viết là biểu hiện phần nào t cách của mỗi con ngời . Vì thế trong nhà
trờng, việc rèn chữ viÕt cho häc sinh lµ mét yÕu tè quan träng tơng đơng với việc
cung cấp kiến thức cho các em. Chơng trình thay sách ngày nay lại chú trọng rất
nhiều đến khâu rèn chữ viết .
8
Bản thân tôi cũng thấy đợc tầm quan trọng của vấn đề này , nên mấy năm
gần đây tôi cũng đà cố gắng rất nhiều để đạt đợc thành công trong việc rèn chữ
cho học sinh và tôi cũng thấy vấn đề mình áp dụng khá đạt , thế nên tôi xin ghi
lại những gì mình làm đợc để mong rằng kết quả sau này sẽ giúp cho chúng ta
phần nào trong rất nhiều cách giáo dục , đa học sinh đến cái đẹp hoàn mỹ .
Là một giáo viên tõ lóc míi ra trêng, nhËn nhiƯm vơ ë mét trờng vùng ven
thành phố và tôi đợc phân công giảng dạy lớp Một. Trong lớp có khoản 2/3 học
sinh sách vở lem nhem , bìa cong góc , chữ nghệch ngoạc , tôi băn khoăn trăn trở
nhất định phải tìm ra nguyên nhân và phải làm thế nào để chấm dứt tình trạng
này, để học sinh cẩn thận hơn, nề nếp hơn nhất là khâu chữ viết .
Thật ra, đối với một trờng, nguyên nhân cha mẹ học sinh hầu hết là nông
dân, bản thân không thấy đợc tầm quan trọng việc học, không hiểu đợc rằng rèn
cho các em chữ viết đẹp là tạo đợc nền tảng để con em mình học tốt hơn . Ngoài
ra bản thân họ cũng lo việc đồng áng , ít có thời gian chăm sóc con . Thêm vào đó
, mẫu chữ họ cha nắm rõ quy trình nên việc rèn chữ cho các em quả là một vấn đề
khó .
Đối với chơng trình thay sách ngời giáo viên lại càng chú trọng hơn về
chữ viêt . Do đó , chữ viết là một trong những môn học có tầm quan trọng không
nhỏ . Vì thế , bản thân tôi qua sự nổ lực của việc giảng dạy tôi đà rút ra một số
kinh nghiệm cho bản thân , mà theo tôi nếu áp dụng đợc sẽ giúp cho chúng ta
không ít trong quá trình giảng dạy .
II- Phần Hai
I- Nội dung và Phơng pháp tiến hành :
1- Cô giáo phải khuôn mẫu đối với học sinh :
Ngời ta bảo rằng Cô giáo là một khuôn đúc và học sinh là sản phẩm do
thầy đúc ra . Do đó , điều trớc tiên là bản thân giáo viên phải rèn cho mình chữ
viết ®óng mÉu , ®óng kÝch thít . Tríc mỈt häc sinh giáo viên phải luôn luôn gơng
mẫu trong chữ viết nhất là viết bảng không đợc cẩu thả , gạch bảng phải luôn
dùng thớt để tạo cho các em tính cẩn thận , sự kiên trì và quan điểm thẩm mỹ .
2- Phải theo dõi sao sát từng đối tợng học sinh :
Trong công tác chủ nhiệm giáo viên phải có một sổ tay theo dõi , phân loại
chữ viết của từng đối tợng học sinh , song song với việc bồi dỡng tri thức giáo
viên phải thờng xuyên nhắc nhở về chữ viết , phải quan tâm đúng mực đối với các
em viết cẩu thả . Muốn thế trong phần truy bài đầu giờ và trớc khi kết thúc tiết
học , giáo viên phải cho cả lớp giơ hay tay lên để kiểm tra sự sạch sẽ , khen gợi
những em giữ gìn sạch đôi tay , vì tay sạch sẽ là vở sạch .
9
3- Vở phải gay gắn sạch sẽ :
Học sinh có tình trạng tì tay lên bàn mà không để ý nên góc vở bị vớng và
bị cong . Cho nên trong những đồ dùng học tập của học sinh , sáng nào giáo viên
cũng phải cho các em để các đồ dùng lên bàn để kiểm tra . Nếu góc vở bị quăn
thì giáo viên phải cho học sinh lấy tay đồ ra và viết cho thẳng .
4- Hớng dẫn rõ qui trình và kích thớt của chữ :
Đối với mẫu chữ viết giáo viên phải cung cấp cho các em quy cách viết các
mẫu chữ , trong các giờ tập viết , phần củng cố phải cho các em nhắc lại . Chẳng
hạn : Chữ K có mấy ô ly , chữ nào có độ cao 5 ô ly , với chữ thờng cỡ vừa ... hoặc
nếu viết chữ cỡ vừa thì chữ nào có độ cao 2 ô ly ... Song song với việc nhắc nhở ,
giáo viên nên kiểm tra , không nên ngồi trên bàn mà phải đi đến từng bàn học
sinh để kiểm tra và phải kiểm tra thờng xuyên liên tục kiên trì .
5- Thờng xuyên kiểm tra đôn đốc dới mọi hình thức :
Giáo dục chữ viết cho học sinh , không cho pháp giáo viên làm việc tuỳ
hứng , nghĩa là thích thì kiểm tra gay gắt có lúc lại xuê xoa qua loa... mà phải có
một thời khoá biểu nhất định , một sự quyết tâm . nếu giáo dục ở lớp mÃi mà học
sinh không có tiến bộ thì giáo viên phải g ặp phụ huynh đề nghị sự hổ trợ của
gia đình .
Hình thức khen thởng cũng là một trong những biện pháp hiệu nghiệm
trong khâu rèn chữ viết cho học sinh .
Những bài viết đẹp và những em giữ vở sạch phải đợc cô giáo phát hiện để
phát huy trớc lớp ngợc lại đối với những em cẩu thả , lời biếng nhất định phải răn
đe .
Thờng xuyên tổ chức thi đua giữa các tổ chức về vở sạch chữ đẹp , tổng
kết theo kỳ , tháng có phát huy khen thởng ( hình thức có thể đợc tặng hoa ...)
Một điều kiện nữa không thể thiếu đợc trong việc rèn chữ cho học sinh là
giáo viên phải thật gần gũi với học sinh để các em vui khi viết bài . Có gì vui
bằng trong giờ tập viết , học sinh thỏ thẻ với cô : Cô ơi con viết thế này đẹp cha
cô , con viết thế này đúng cha cô , viết thế này hở cô , đẹp không cô ... và có vui
thì mới cã häc , häc mµ vui - vui mµ häc ...
III- Phần Kết quả :
Kết quả :
Nh vậy, những năm gần đây tôi cảm thấy phần nào mình có thành công
mỗi khi nhìn lại sản phẩm của học sinh trong lớp . Riêng bản thân tôi viết chữ
không đẹp lại khó đọc nên tôi đà cố gắng rèn cho mình để có một nét chữ đẹp
hơn và tôi nghĩ rằng , viết chữ không hẳn là hoa tay mà trong ®ã muèn ch÷ viÕt
10
đẹp phần lớn là phải biết chịu khó , phải kiên trì chăm chỉ cũng nh học vậy . Một
Cao Bá Quát ngày xa chính là tấm gơng cho bản thân tôi và tôi cũng đà hiểu rằng
muốn học sinh tốt các môn học khác , trớc tiên phải tạo cho các em có một chữ
viết tốt . Muốn thế giáo viên phải thực sự là ngời mẹ thứ hai , tạo đợc sự gần gũi
thơng yêu , động viên các em để các em chịu học và thích học
Trên đây là kinh nghiệm của tôi trong việc rèn chữ viết . Tuy nhiên không
sao tránh khỏi thiếu sót mong sự góp ý của LÃnh đạo và các bạn đồng nghiệp.
Lê thị thu đào Nhon phú 2
Cô tuyến nhon binh 1
Đề tài:
rèn chữ viết cho học sinh lớp một
I- Phần Mở đầu :
Lý do:
11
Chữ viết là biểu hiện phần nào t cách của mỗi con ngời . Vì thế trong nhà
trờng, việc rèn chữ viết cho học sinh là một yếu tố quan trọng tơng đơng với việc
cung cấp kiến thức cho các em. Chơng trình thay sách ngày nay lại chú trọng rất
nhiều đến khâu rèn chữ viết .
Bản thân tôi cũng thấy đợc tầm quan trọng của vấn đề này , nên mấy năm
gần đây tôi cũng đà cố gắng rất nhiều để đạt đợc thành công trong việc rèn chữ
cho học sinh và tôi cũng thấy vấn đề mình áp dụng khá đạt , thế nên tôi xin ghi
lại những gì mình làm đợc để mong rằng kết quả sau này sẽ giúp cho chúng ta
phần nào trong rất nhiều cách giáo dục , đa học sinh đến cái đẹp hoàn mỹ .
Là một giáo viên từ lúc mới ra trêng, nhËn nhiƯm vơ ë mét trêng vïng ven
thµnh phè và tôi đợc phân công giảng dạy lớp Một. Trong lớp có khoản 2/3 học
sinh sách vở lem nhem , bìa cong góc , chữ nghệch ngoạc , tôi băn khoăn trăn trở
nhất định phải tìm ra nguyên nhân và phải làm thế nào để chấm dứt tình trạng
này, để học sinh cẩn thận hơn, nề nếp hơn nhất là khâu chữ viết .
Thật ra, đối với một trờng, nguyên nhân cha mẹ học sinh hầu hết là nông
dân, bản thân không thấy đợc tầm quan trọng việc học, không hiểu đợc rằng rèn
cho các em chữ viết đẹp là tạo đợc nền tảng để con em mình học tốt hơn . Ngoài
ra bản thân họ cũng lo việc đồng áng , ít có thời gian chăm sóc con . Thêm vào đó
, mẫu chữ họ cha nắm rõ quy trình nên việc rèn chữ cho các em quả là một vấn đề
khó .
Đối với chơng trình thay sách ngời giáo viên lại càng chú trọng hơn về
chữ viết . Do đó , chữ viết là một trong những môn học có tầm quan trọng không
nhỏ . Vì thế , bản thân tôi qua sự nổ lực của việc giảng dạy tôi đà rút ra một số
kinh nghiệm cho bản thân , mà theo tôi nếu áp dụng đợc sẽ giúp cho chúng ta
không ít trong quá trình giảng dạy .
II- Phần Hai
I- Nội dung và Phơng pháp tiến hành :
1- Cô giáo phải khuôn mẫu đối với học sinh :
Ngời ta bảo rằng Cô giáo là một khuôn đúc và học sinh là sản phẩm do
thầy đúc ra . Do đó , điều trớc tiên là bản thân giáo viên phải rèn cho mình chữ
viết đúng mẫu , đúng kích thớt . Trớc mặt học sinh giáo viên phải luôn luôn gơng
mẫu trong chữ viết nhất là viết bảng không đợc cẩu thả , gạch bảng phải luôn
dùng thớt để tạo cho các em tính cẩn thận , sự kiên trì và quan điểm thẩm mỹ .
2- Phải theo dõi sao sát từng đối tợng học sinh :
12
Trong công tác chủ nhiệm giáo viên phải có một sổ tay theo dõi , phân loại
chữ viết của từng ®èi tỵng häc sinh , song song víi viƯc båi dỡng tri thức giáo
viên phải thờng xuyên nhắc nhở về chữ viết , phải quan tâm đúng mực đối với các
em viết cẩu thả . Muốn thế trong phần truy bài đầu giờ và trớc khi kết thúc tiết
học , giáo viên phải cho cả lớp giơ hay tay lên để kiểm tra sự sạch sẽ , khen gợi
những em giữ gìn sạch đôi tay , vì tay sạch sẽ là vở sạch .
3- Vở phải gay gắn sạch sẽ :
Học sinh có tình trạng tì tay lên bàn mà không để ý nên góc vở bị vớng và
bị cong . Cho nên trong những đồ dùng học tập của học sinh , sáng nào giáo viên
cũng phải cho các em để các đồ dùng lên bàn để kiểm tra . Nếu góc vở bị quăn
thì giáo viên phải cho học sinh lấy tay đồ ra và viết cho thẳng .
4- Hớng dẫn rõ qui trình và kích thớt của chữ :
Đối với mẫu chữ viết giáo viên phải cung cấp cho các em quy cách viết các
mẫu chữ , trong các giờ tập viết , phần củng cố phải cho các em nhắc lại . Chẳng
hạn : Chữ K có mấy ô ly , chữ nào có độ cao 5 ô ly , với chữ thờng cỡ vừa ... hoặc
nếu viết chữ cỡ vừa thì chữ nào có độ cao 2 ô ly ... Song song với việc nhắc nhở ,
giáo viên nên kiểm tra , không nên ngồi trên bàn mà phải đi đến từng bàn học
sinh để kiểm tra và phải kiểm tra thờng xuyên liên tục kiên trì .
5- Thờng xuyên kiểm tra đôn đốc dới mọi hình thức :
Giáo dục chữ viết cho học sinh , không cho pháp giáo viên làm việc tuỳ
hứng , nghĩa là thích thì kiểm tra gay gắt có lúc lại xuê xoa qua loa... mà phải có
một thời khoá biểu nhất định , một sự quyết tâm . nếu giáo dục ở lớp mÃi mà học
sinh không có tiến bộ thì giáo viên phải g ặp phụ huynh đề nghị sự hổ trợ của
gia đình .
Hình thức khen thởng cũng là một trong những biện pháp hiệu nghiệm
trong khâu rèn chữ viết cho học sinh .
Những bài viết đẹp và những em giữ vở sạch phải đợc cô giáo phát hiện để
phát huy trớc lớp ngợc lại đối với những em cẩu thả , lời biếng nhất định phải răn
đe .
Thờng xuyên tổ chức thi đua giữa các tổ chức về vở sạch chữ đẹp , tổng
kết theo kỳ , tháng có phát huy khen thởng ( hình thức có thể đợc tặng hoa ...)
Một điều kiện nữa không thể thiếu đợc trong việc rèn chữ cho học sinh là
giáo viên phải thật gần gũi với học sinh để các em vui khi viết bài . Có gì vui
bằng trong giê tËp viÕt , häc sinh thá thỴ víi cô : Cô ơi con viết thế này đẹp cha
cô , con viết thế này đúng cha cô , viết thế này hở cô , đẹp không cô ... và có vui
thì mới có học , học mà vui - vui mµ häc ...
13
III- Phần Kết quả :
Kết quả :
Nh vậy, những năm gần đây tôi cảm thấy phần nào mình có thành công
mỗi khi nhìn lại sản phẩm của học sinh trong lớp . Riêng bản thân tôi viết chữ
không đẹp lại khó đọc nên tôi đà cố gắng rèn cho mình để có một nét chữ đẹp
hơn và tôi nghĩ rằng , viết chữ không hẳn là hoa tay mà trong đó muốn chữ viết
đẹp phần lớn là phải biết chịu khó , phải kiên trì chăm chỉ cũng nh học vậy . Một
Cao Bá Quát ngày xa chính là tấm gơng cho bản thân tôi và tôi cũng đà hiểu rằng
muốn học sinh tốt các môn học khác , trớc tiên phải tạo cho các em có một chữ
viết tốt . Muốn thế giáo viên phải thực sự là ngời mẹ thứ hai , tạo đợc sự gần gũi
thơng yêu , động viên các em để các em chịu học và thích học
Trên đây là kinh nghiệm của tôi trong việc rèn chữ viết . Tuy nhiên không
sao tránh khỏi thiếu sót mong sự góp ý của LÃnh đạo và các bạn đồng nghiệp.
Nhơn Phú, ngày 28 tháng 3 năm 2007
Ngời viết
Lê Thị Thu Đào
Cô tuyến nhon binh 1
ẹE TAỉI:
MOT VÀI KINH NGHIỆM TRONG LUYỆN NÓI
CHO HỌC SINH LỚP 1
I- PHẦN MỞ BÀI :
14
1- Lý do chọn đề tài:
Tiếng Việt Tiểu học là mục tiêu hình thành và phát triển ở học sinh
các kỹ năng sử dụng tiếng Việt ( đọc, viết, nghe nói) và cung cấp những
kiến thức sơ giản gắn trực tiếp với việc học Tiếng Việt nhằm tạo ra ở học
sinh năng lực dùng Tiếng Việt để học tập ở Tiểu học và các bậc học cao hơn
, để giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi.
2- Mục đích – Nhiệm vụ:
Chương trình Tiếng Việt Tiểu học đặc biệt coi trọng nhiệm vụ hình
thành và phát triển bốn kỷ năng sử dụng tiếng việt xem đó là một bước thay
đổi cơ bản cách suy nghó bấy lâu chỉ tập trungsự chú ý vào hai kỷû năng Đọc
- Viết .
Từ thực tiễn đời sống cho thấy con người sử dụng ngôn ngữ dạng nói
trong giao tiếp chiếm nhiều thời gian , không gian hoạt động rộng lớn hơn
dạng viết . Do đó , chương trình mới đã chú ý luyện nói cho học sinh lớp 1
thành một mục riêng có vị trí khiêm tốn trong bài dạy vần , tập đọc . Vấn đề
đặt ra là làm sao để thực hiện tốt mục tiêu của chương trình , đảm bảo được
chất lượng dạy học kỷ năng nói cho học sinh lớp 1 .
3- Phương pháp tiến hành :
Trong năm học 2006 – 2007 được sự phân công của Ban giám hiệu
trường, tôi là giáo viên chủ nhiệm lớp 1D .
Qua thực tế giảng dạy gần một năm học , chúng ta thẳng thắn thừa
nhận rằng việc luyện nói cho học sinh lớp 1 chưa đạt kết quả cao .
II- PHẦN KẾT QUẢ NỘI DUNG :
1- Thực trạng đề tài:
- Học sinh còn ảnh hưởng nhiều về tiếng địa phương , các em phát âm
không chuẩn , nói còn chậm , chưa trôi chảy
- Một nguyên nhân là những bài luyện nói ở sách giáo khoa hiện hành
nhất là định hướng ở sách hướng dẫn giáo viên đã không tạo ra được bước
đột phá trong khâu luyện nói .
2- Các biện pháp nâng cao hiệu quả luyện nói :
15
Những bài dạy này các giáo viên nên tuân thủ theo sách hướng dẫn đã
sử dụng phương pháp hỏi - đáp quen thuộc . Giáo viên hỏi, học sinh trả lời .
Sự thụ động của học sinh trong luyện nói đã tạo ra một bức tranh không lấy
gì làm sáng sủa của luyện nói . Cách hỏi trùng lặp , cách trả lời của học sinh
cũng trùng lặp , chưa nói đến sử dụng ngữ điệu cho phù hợp . Các em
thường bắt chước ngữ điệu giáo viên hoặc của em được nói trước , không có
sự giao cảm giữa người nói và người nghe trong hội thoại ví dụ :
Học bài : n , m chủ đề nói về bố mẹ , ba má
Hệ thống câu hỏi :
+ Quê em gọi người sinh ra mình là gì ?
+Nhà em có mấy anh em ? Em là con thứ mấy ?
+ Học sinh có thể kể thêm về bố mẹ mình và tình cảm của mình đối
với bố mẹ cho cả lớp nghe ?
+ Em làm gì để bố mẹ em vừa lòng ?
Hệ thống câu hỏi :
+ Trong tranh vẽ này có những thứ gì ?
+ Ra xếp hàng , đứng trước và đứng sau em là những bạn nào ?
Chúng ta hình dung sau khi học sinh tự trả lời xong các câu hỏi ở trên
thì các em sẽ luyện được gì ? Chắc chắn ở đây hiệu quả của việc luyện nói
không bằng hiệu quả của việc học toán hay đạo đức .
Cứ dạy theo kiểu này học sinh chỉ có việc nghe và trả lời câu hỏi của
cô giáo . Nếu cô không hỏi học sinh sẽ không trả lời và nếu nói khác lời cô
giáo và các bạn trong lớp liệu có được không ?
Sự eo hẹp về thời gian cũng ảnh hưởng đến việc tổ chức lớp học ,
chọn lựa phương pháp dạy .
Từ thực tế giảng dạy và hiệu quả của việc rèn luyện nói , tôi đã đề
xuất các biện pháp sau đây :
3- Vận dụng giải pháp vào thực tế:
a-Tổ chức lớp học : Khác với luyện đọc và viết chữ học sinh tập trung
chú ý cao độ . Nhìn học sinh viết , chúng ta thấy lớp học im lặng , nghiêm
túc thì phần luyện nói đòi hỏi cần không khí lớp học tự nhiên , thoải mái .
16
Các em chuẩn bị hào hứng bước vào một cuộc trò chuyện thật sự . Do vậy
hình thức tổ chức hợp lý nhất là phân lớp thành các tổ , nhóm . các thành
viên trong nhóm , tổ đều tham gia vào các cuộc đàm thoại .Qua thực tế , tổ
chức lớp học theo kiểu này nhiều em được nói hơn tăng 70 80%.
Nơi nào có điều kiện thuận lợi có thể tiến hành luyện nói ở ngoài
trời , không khí thoáng mát tạo tâm lý thoải mái để học sinh nói tự nhiên
hơn .
Kết hợp cho học sinh đóng vai để làm phong phú cuộc hội thoại với
các đối tượng giao tiếp khác nhau .
b- Cần phải quán triệt quan điểm giao tiếp trong luyện nói : Phải chú ý
đến các nhân tố để hình thành cuộc giao tiếp - Hoàn cảnh giao tiếp ; đối
tượng giao tiếp , nội dung giao tiếp ( theo chủ đề của sách giáo khoa ) . Cần
phải trả lời các câu hỏi : Các em nói với ai ? về việc gì trong hoàn cảnh
nào ? Như vậy trên cơ sở các hình vẽ ở sách giáo khoa và các câu hỏi của
giáo viên làm điểm tựa thì thầy cô giáo chịu khó suy nghó xây dựng lại bài
cần dạy giúp các em nói trong một tình huống cụ thể :
Ví dụ : Bài n, m chủ đề nói về bố mẹ, ba má. Thay vì câu hỏi của cô
giáo ở trên. Giáo viên chỉ ra đối tượng giao tiếp . Em hãy nói với các bạn
trong nhóm , tổ về gia đình của mình ? ( gợi ý nói về ba má, anh em, công
việc …) Từ đó học sinh có thể trao đổi thoải mái với nhau . Cô giáo có thể
kiểm tra lại các em về các thông tin nhận biết về gia đình của bạn . Cách
luyện nói này gần với cuộc sống hơn , học sinh nói tích cực hơn .
Qua thực tế áp dụng , tôi cố gắng biên soạn lại bài luyện nói cho phù
hợp với đối tượng - Các em không chỉ được nói nhiều mà hiệu quả được tăng
lên rõ rệt . Các em nói có đối tượng cụ thể , ngữ điệu khi nói phong phú
hơn , không còn chỉ là các câu trả lời - Mà các em có thể kể , có thể hỏi …
c- Vai trò của giáo viên trong luyện nói :
Thầy giáo đóng vai trò quyết định cho sự thành công của luyện nói :
Bởi vì hơn ai hết trong giờ luyện nói thầy giáo không chỉ là người hướng dẫn
, tổ chức lớp mà phải biết lắng nghe cả lớp, từng em để kích thích gợi ý các
em tích cực tham gia vào luyện nói. Từ những bức tranh đơn giản thầy giáo
phải tưởng tượng tạo ra các hoàn cảnh giao tiếp giống như đời sống thực mà
không xa chủ đề của mục luyện nói .
17
Muốn thành công, thầy giáo phải dặn dò các em chuẩn bị bài ở nhà ,
xem các hình vẽ, chủ đề của mục luyện nói. Em có thể tưởng tượng và nói
với người thân trong gia đình với các bạn trong lớp , trong tổ với cô giáo .
Thầy Cô giáo còn là người biết lắng nghe tôn trọng ý kiến các em .
Khi cần thiết mới góp ý , tránh can thiệp thô bạo ngắt lời các em làm cho
các em không còn hào hứng nói . Mỗi lời nói hay , biểu cảm của các em đều
được thầy giáo khuyến khích , biểu dương kịp thời . Thầy giáo nên góp ý về
cách sử dụng từ ngữ chưa chính xác , ngữ điệu chưa phù hợp . Nếu là những
bài mở đầu giáo viên có thể làm mẫu để học sinh bắt chước nhưng cần chú
ý yêu cầu các em sáng tạo trong khi nói .
Thực tế cho thấy nếu thầy cô giáo chuẩn bị công phu thì hiệu quả của
luyện nói được nâng cao . Học sinh không chỉ nói đúng mà nói hay .
Trên đây là một số kinh nghiệm đúc kết qua thực tế giảng dạy ở lớp 1
sách giáo khoa mới , tôi mạnh dạn đưa ra cùng trao đổi với các bạn đồng
nghiệp . Mong có sự trao đổi , thảo luận để tinh thần thay sách theo chương
trình mới , đến được với các em . Hiệu quả của luyện nói cho học sinh được
nâng cao ./.
Quy Nhơn, ngày 25 tháng 3 naờm 2007
Ngửụứi Vieỏt
Nguyeón Thũ Thuyen
Đề tài:
rèn chữ viết cho học sinh lớp một
I- Phần Mở đầu :
Lý do:
Chữ viết là biểu hiện phần nào t cách của mỗi con ngời . Vì thế trong nhà
trờng, việc rèn chữ viết cho học sinh là một yếu tố quan trọng tơng đơng với việc
cung cấp kiến thức cho các em. Chơng trình thay sách ngày nay lại chú trọng rất
nhiều đến khâu rÌn ch÷ viÕt .
18
Bản thân tôi cũng thấy đợc tầm quan trọng của vấn đề này , nên mấy năm
gần đây tôi cũng đà cố gắng rất nhiều để đạt đợc thành công trong việc rèn chữ
cho học sinh và tôi cũng thấy vấn đề mình áp dụng khá đạt , thế nên tôi xin ghi
lại những gì mình làm đợc để mong rằng kết quả sau này sẽ giúp cho chúng ta
phần nào trong rất nhiều cách giáo dục , đa học sinh đến cái đẹp hoàn mỹ .
Là một giáo viên tõ lóc míi ra trêng, nhËn nhiƯm vơ ë mét trờng vùng ven
thành phố và tôi đợc phân công giảng dạy lớp Một. Trong lớp có khoản 2/3 học
sinh sách vở lem nhem , bìa cong góc , chữ nghệch ngoạc , tôi băn khoăn trăn trở
nhất định phải tìm ra nguyên nhân và phải làm thế nào để chấm dứt tình trạng
này, để học sinh cẩn thận hơn, nề nếp hơn nhất là khâu chữ viết .
Thật ra, đối với một trờng, nguyên nhân cha mẹ học sinh hầu hết là nông
dân, bản thân không thấy đợc tầm quan trọng việc học, không hiểu đợc rằng rèn
cho các em chữ viết đẹp là tạo đợc nền tảng để con em mình học tốt hơn . Ngoài
ra bản thân họ cũng lo việc đồng áng , ít có thời gian chăm sóc con . Thêm vào đó
, mẫu chữ họ cha nắm rõ quy trình nên việc rèn chữ cho các em quả là một vấn đề
khó .
Đối với chơng trình thay sách ngời giáo viên lại càng chú trọng hơn về
chữ viêt . Do đó , chữ viết là một trong những môn học có tầm quan trọng không
nhỏ . Vì thế , bản thân tôi qua sự nổ lực của việc giảng dạy tôi đà rút ra một số
kinh nghiệm cho bản thân , mà theo tôi nếu áp dụng đợc sẽ giúp cho chúng ta
không ít trong quá trình giảng dạy .
II- Phần Hai
I- Nội dung và Phơng pháp tiến hành :
1- Cô giáo phải khuôn mẫu đối với học sinh :
Ngời ta bảo rằng Cô giáo là một khuôn đúc và học sinh là sản phẩm do
thầy đúc ra . Do đó , điều trớc tiên là bản thân giáo viên phải rèn cho mình chữ
viết ®óng mÉu , ®óng kÝch thít . Tríc mỈt häc sinh giáo viên phải luôn luôn gơng
mẫu trong chữ viết nhất là viết bảng không đợc cẩu thả , gạch bảng phải luôn
dùng thớt để tạo cho các em tính cẩn thận , sự kiên trì và quan điểm thẩm mỹ .
2- Phải theo dõi sao sát từng đối tợng học sinh :
Trong công tác chủ nhiệm giáo viên phải có một sổ tay theo dõi , phân loại
chữ viết của từng đối tợng học sinh , song song với việc bồi dỡng tri thức giáo
viên phải thờng xuyên nhắc nhở về chữ viết , phải quan tâm đúng mực đối với các
em viết cẩu thả . Muốn thế trong phần truy bài đầu giờ và trớc khi kết thúc tiết
học , giáo viên phải cho cả lớp giơ hay tay lên để kiểm tra sự sạch sẽ , khen gợi
những em giữ gìn sạch đôi tay , vì tay sạch sẽ là vở sạch .
19
3- Vở phải gay gắn sạch sẽ :
Học sinh có tình trạng tì tay lên bàn mà không để ý nên góc vở bị vớng và
bị cong . Cho nên trong những đồ dùng học tập của học sinh , sáng nào giáo viên
cũng phải cho các em để các đồ dùng lên bàn để kiểm tra . Nếu góc vở bị quăn
thì giáo viên phải cho học sinh lấy tay đồ ra và viết cho thẳng .
4- Hớng dẫn rõ qui trình và kích thớt của chữ :
Đối với mẫu chữ viết giáo viên phải cung cấp cho các em quy cách viết các
mẫu chữ , trong các giờ tập viết , phần củng cố phải cho các em nhắc lại . Chẳng
hạn : Chữ K có mấy ô ly , chữ nào có độ cao 5 ô ly , với chữ thờng cỡ vừa ... hoặc
nếu viết chữ cỡ vừa thì chữ nào có độ cao 2 ô ly ... Song song với việc nhắc nhở ,
giáo viên nên kiểm tra , không nên ngồi trên bàn mà phải đi đến từng bàn học
sinh để kiểm tra và phải kiểm tra thờng xuyên liên tục kiên trì .
5- Thờng xuyên kiểm tra đôn đốc dới mọi hình thức :
Giáo dục chữ viết cho học sinh , không cho pháp giáo viên làm việc tuỳ
hứng , nghĩa là thích thì kiểm tra gay gắt có lúc lại xuê xoa qua loa... mà phải có
một thời khoá biểu nhất định , một sự quyết tâm . nếu giáo dục ở lớp mÃi mà học
sinh không có tiến bộ thì giáo viên phải g ặp phụ huynh đề nghị sự hổ trợ của
gia đình .
Hình thức khen thởng cũng là một trong những biện pháp hiệu nghiệm
trong khâu rèn chữ viết cho học sinh .
Những bài viết đẹp và những em giữ vở sạch phải đợc cô giáo phát hiện để
phát huy trớc lớp ngợc lại đối với những em cẩu thả , lời biếng nhất định phải răn
đe .
Thờng xuyên tổ chức thi đua giữa các tổ chức về vở sạch chữ đẹp , tổng
kết theo kỳ , tháng có phát huy khen thởng ( hình thức có thể đợc tặng hoa ...)
Một điều kiện nữa không thể thiếu đợc trong việc rèn chữ cho học sinh là
giáo viên phải thật gần gũi với học sinh để các em vui khi viết bài . Có gì vui
bằng trong giờ tập viết , học sinh thỏ thẻ với cô : Cô ơi con viết thế này đẹp cha
cô , con viết thế này đúng cha cô , viết thế này hở cô , đẹp không cô ... và có vui
thì mới cã häc , häc mµ vui - vui mµ häc ...
III- Phần Kết quả :
Kết quả :
Nh vậy, những năm gần đây tôi cảm thấy phần nào mình có thành công
mỗi khi nhìn lại sản phẩm của học sinh trong lớp . Riêng bản thân tôi viết chữ
không đẹp lại khó đọc nên tôi đà cố gắng rèn cho mình để có một nét chữ đẹp
hơn và tôi nghĩ rằng , viết chữ không hẳn là hoa tay mà trong ®ã muèn ch÷ viÕt
20
đẹp phần lớn là phải biết chịu khó , phải kiên trì chăm chỉ cũng nh học vậy . Một
Cao Bá Quát ngày xa chính là tấm gơng cho bản thân tôi và tôi cũng đà hiểu rằng
muốn học sinh tốt các môn học khác , trớc tiên phải tạo cho các em có một chữ
viết tốt . Muốn thế giáo viên phải thực sự là ngời mẹ thứ hai , tạo đợc sự gần gũi
thơng yêu , động viên các em để các em chịu học và thích học
Trên đây là kinh nghiệm của tôi trong việc rèn chữ viết . Tuy nhiên không
sao tránh khỏi thiếu sót mong sự góp ý của LÃnh đạo và các bạn đồng nghiệp.
Nhơn Bình, ngày 28 tháng 3 năm 2007
Ngời viết
Nguyễn Thị Kim Tun
ĐỀ TÀI:
MỘT VÀI KINH NGHIỆM TRONG LUYỆN NÓI
CHO HỌC SINH LỚP 1
I- PHẦN MỞ BÀI :
1- Lý do chọn đề tài:
Tiếng Việt Tiểu học là mục tiêu hình thành và phát triển ở học sinh
các kỷ năng sử dụng tiếng Việt ( đọc, viết, nghe nói) và cung cấp những
kiến thức sơ giản gắn trực tiếp với việc học Tiếng Việt nhằm tạo ra ở học
sinh năng lực dùng Tiếng Việt để học tập ở Tiểu học và các bậc học cao hơn
, để giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi.
2- Mục đích – Nhiệm vụ:
Chương trình Tiếng Việt Tiểu học đặc biệt coi trọng nhiệm vụ hình
thành và phát triển bốn kỷ năng sử dụng tiếng việt xem đó là một bước thay
21
đổi cơ bản cách suy nghó bấy lâu chỉ tập trungsự chú ý vào hai kỷû năng Đọc
- Viết .
Từ thực tiễn đời sống cho thấy con người sử dụng ngôn ngữ dạng nói
trong giao tiếp chiếm nhiều thời gian , không gian hoạt động rộng lớn hơn
dạng viết . Do đó , chương trình mới đã chú ý luyện nói cho học sinh lớp 1
thành một mục riêng có vị trí khiêm tốn trong bài dạy vần , tập đọc . Vấn đề
đặt ra là làm sao để thực hiện tốt mục tiêu của chương trình , đảm bảo được
chất lượng dạy học kỷ năng nói cho học sinh lớp 1 .
3- Phương pháp tiến hành :
Trong năm học 2005 – 2006 được sự phân công của Ban giám hiệu
trường, tôi là giáo viên chủ nhiệm lớp 1A .
Qua thực tế giảng dạy gần một năm học , chúng ta thẳng thắn thừa
nhận rằng việc luyện nói cho học sinh lớp 1 chưa đạt kết quả cao .
II- PHẦN KẾT QUẢ NỘI DUNG :
1- Thực trạng đề tài:
- Học sinh còn ảnh hưởng nhiều về tiếng địa phương , các em phát âm
không chuẩn , nói còn chậm , chưa trôi chảy
- Một nguyên nhân là những bài luyện nói ở sách giáo khoa hiện hành
nhất là định hướng ở sách hướng dẫn giáo viên đã không tạo ra được bước
đột phá trong khâu luyện nói .
2- Các biện pháp nâng cao hiệu quả luyện nói :
Những bài dạy này các giáo viên nên tuân thủ theo sách hướng dẫn đã
sử dụng phương pháp hỏi - đáp quen thuộc . Giáo viên hỏi, học sinh trả lời .
Sự thụ động của học sinh trong luyện nói đã tạo ra một bức tranh không lấy
gì làm sáng sủa của luyện nói . Cách hỏi trùng lặp , cách trả lời của học sinh
cũng trùng lặp , chưa nói đến sử dụng ngữ điệu cho phù hợp . Các em
thường bắt chước ngữ điệu giáo viên hoặc của em được nói trước , không có
sự giao cảm giữa người nói và người nghe trong hội thoại ví dụ :
Học bài : n , m chủ đề nói về bố mẹ , ba má
Hệ thống câu hỏi :
+ Quê em gọi người sinh ra mình là gì ?
22
+Nhà em có mấy anh em ? Em là con thứ mấy ?
+ Học sinh có thể kể thêm về bố mẹ mình và tình cảm của mình đối
với bố mẹ cho cả lớp nghe ?
+ Em làm gì để bố mẹ em vừa lòng ?
Hệ thống câu hỏi :
+ Trong tranh vẽ này có những thứ gì ?ư1
+ Ra xếp hàng , đứng trước và đứng sau em là những bạn nào ?
Chúng ta hình dung sau khi học sinh tự trả lời xong các câu hỏi ở trên
thì các em sẽ luyện được gì ? Chắc chắn ở đây hiệu quả của việc luyện nói
không bằng hiệu quả của việc học toán hay đạo đức .
Cứ dạy theo kiểu này học sinh chỉ có việc nghe và trả lời câu hỏi của
cô giáo . Nếu cô không hỏi học sinh sẽ không trả lời và nếu nói khác lời cô
giáo và các bạn trong lớp liệu có được không ?
Sự eo hẹp về thời gian cũng ảnh hưởng đến việc tổ chức lớp học ,
chọn lựa phương pháp dạy .
Từ thực tế giảng dạy và hiệu quả của việc rèn luyện nói , tôi đã đề
xuất các biện pháp sau đây :
3- Vận dụng giải pháp vào thực tế:
a-Tổ chức lớp học : Khác với luyện đọc và viết chữ học sinh tập trung
chú ý cao độ . Nhìn học sinh viết , chúng ta thấy lớp học im lặng , nghiêm
túc thì phần luyện nói đòi hỏi cần không khí lớp học tự nhiên , thoải mái .
Các em chuẩn bị hào hứng bước vào một cuộc trò chuyện thật sự . Do vậy
hình thức tổ chức hợp lý nhất là phân lớp thành các tổ , nhóm . các thành
viên trong nhóm , tổ đều tham gia vào các cuộc đàm thoại .Qua thực tế , tổ
chức lớp học theo kiểu này nhiều em được nói hơn tăng 70 80%.
Nơi nào có điều kiện thuận lợi có thể tiến hành luyện nói ở ngoài
trời , không khí thoáng mát tạo tâm lý thoải mái để học sinh nói tự nhiên
hơn .
Kết hợp cho học sinh đóng vai để làm phong phú cuộc hội thoại với
các đối tượng giao tiếp khác nhau .
23
b- Cần phải quán triệt quan điểm giao tiếp trong luyện nói : Phải chú ý
đến các nhân tố để hình thành cuộc giao tiếp - Hoàn cảnh giao tiếp ; đối
tượng giao tiếp , nội dung giao tiếp ( theo chủ đề của sách giáo khoa ) . Cần
phải trả lời các câu hỏi : Các em nói với ai ? về việc gì trong hoàn cảnh
nào ? Như vậy trên cơ sở các hình vẽ ở sách giáo khoa và các câu hỏi của
giáo viên làm điểm tựa thì thầy cô giáo chịu khó suy nghó xây dựng lại bài
cần dạy giúp các em nói trong một tình huống cụ thể :
Ví dụ : Bài n , m chủ đề nói về bố mẹ , ba má. Thay vì câu hỏi của
cô giáo ở trên . Giáo viên chỉ ra đối tượng giao tiếp . Em hãy nói với các
bạn trong nhóm , tổ về gia đình của mình ? ( gợi ý nói về ba má , anh em,
công việc …) Từ đó học sinh có thể trao đổi thoải mái với nhau . Cô giáo có
thể kiểm tra lại các em về các thông tin nhận biết về gia đình của bạn .
Cách luyện nói này gần với cuộc sống hơn , học sinh nói tích cực hơn .
Qua thực tế áp dụng , tôi cố gắng biên soạn lại bài luyện nói cho phù
hợp với đối tượng - Các em không chỉ được nói nhiều mà hiệu quả được tăng
lên rõ rệt . Các em nói có đối tượng cụ thể , ngữ điệu khi nói phong phú
hơn , không còn chỉ là các câu trả lời - Mà các em có thể kể , có thể hỏi …
c- Vai trò của giáo viên trong luyện nói :
Thầy giáo đóng vai trò quyết định cho sự thành công của luyện nói :
Bởi vì hơn ai hết trong giờ luyện nói thầy giáo không chỉ là người hướng dẫn
, tổ chức lớp mà phải biết lắng nghe cả lớp , từng em để kích thích gợi ý các
em tích cực tham gia vào luyện nói . Từ những bức tranh đơn giản thầy giáo
phải tưởng tượng tạo ra các hoàn cảnh giao tiếp giống như đời sống thực mà
không xa chủ đề của mục luyện nói .
Muốn thành công , thầy giáo phải dặn dò các em chuẩn bị bài ở nhà ,
xem các hình vẽ , chủ đề của mục luyện nói . Em có thể tưởng tượng và nói
với người thân trong gia đình với các bạn trong lớp , trong tổ với cô giáo .
Thầy Cô giáo còn là người biết lắng nghe tôn trọng ý kiến các em .
Khi cần thiết mới góp ý , tránh can thiệp thô bạo ngắt lời các em làm cho
các em không còn hào hứng nói . Mỗi lời nói hay , biểu cảm của các em đều
được thầy giáo khuyến khích , biểu dương kịp thời . Thầy giáo nên góp ý về
cách sử dụng từ ngữ chưa chính xác , ngữ điệu chưa phù hợp . Nếu là những
24
bài mở đầu giáo viên có thể làm mẫu để học sinh bắt chước nhưng cần chú
ý yêu cầu các em sáng tạo trong khi nói .
Thực tế cho thấy nếu thầy cô giáo chuẩn bị công phu thì hiệu quả của
luyện nói được nâng cao . Học sinh không chỉ nói đúng mà nói hay .
Trên đây là một số kinh nghiệm đúc kết qua thực tế giảng dạy ở lớp 1
sách giáo khoa mới , tôi mạnh dạn đưa ra cùng trao đổi với các bạn đồng
nghiệp . Mong có sự trao đổi , thảo luận để tinh thần thay sách theo chương
trình mới , đến được với các em . Hiệu quả của luyện nói cho học sinh được
nâng cao ./.
Nhơn Bình, ngày 20 tháng 4 năm 2006
Người Viết
Nguyễn Thị Hạnh
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP LUYỆN NÓI
CHO HỌC SINH LỚP 1
I- PHẦN MỞ BÀI :
1- Lý do chọn đề tài:
Chúng ta biết mục tiêu của môn tiếng việt tiểu học là “ Hình thành và
phát triển ở học sinh các kỷ năng sử dụng tiếng Việt ( đọc , viết , nghe nói )
và cung cấp những kiến thức sơ giản gắn trực tiếp với việc học tiếng việt
nhằm tạo ra ở học sinh năng lực dùng tiếng Việt để học tập ở tiểu học và các
bậc học cao hơn , để giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi ”.
Chương trình tiếng việt tiểu học đặc biệt coi trọng nhiệm vụ hình
thành và phát triển bốn kỷ năng sử dụng tiếng việt xem đó là một bước thay
25
đổi cơ bản cách suy nghó bấy lâu chỉ tập trung sự chú ý vào hai kỷû năng
Đọc- Viết .
Từ thực tiễn đời sống cho thấy con người sử dụng ngôn ngữ dạng nói
trong giao tiếp chiếm nhiều thời gian , không gian hoạt động rộng lớn hơn
dạng viết . Do đó , chương trình mới đã chú ý luyện nói cho học sinh lớp 1
thành một mục riêng có vị trí khiêm tốn trong bài dạy vần , tập đọc . Vấn đề
đặt ra là làm sao để thực hiện tốt mục tiêu của chương trình , đảm bảo được
chất lượng dạy học kỷ năng nói cho học sinh lớp 1 .
Qua thực tế giảng dạy gần một năm học , chúng ta thẳng thắn thừa
nhận rằng việc luyện nói cho học sinh lớp 1 chưa đạt kết quả cao .
Một nguyên nhân là những bài luyện nói ở sách giáo khoa hiện hành
nhất là định hướng ở sách hướng dẫn giáo viên đã không tạo ra được bước
đột phá trong khâu luyện nói . Những bài dạy này các giáo viên nên tuân
thủ theo sách hướng dẫn đã sử dụng phương pháp hỏi - đáp quen thuộc .
Giáo viên hỏi, học sinh trả lời . Sự thụ động của học sinh trong luyện nói đã
tạo ra một bức tranh không lấy gì làm sáng sủa của luyện nói . Cách hỏi
trùng lặp , cách trả lời của học sinh cũng trùng lặp , chưa nói đến sử dụng
ngữ điệu cho phù hợp . Các em thường bắt chước ngữ điệu giáo viên hoặc
của em được nói trước , không có sự giao cảm giữa người nói và người nghe
trong hội thoại ví dụ :
Học bài : n , m chủ đề nói về bố mẹ , ba má
Hệ thống câu hỏi :
+ Quê em gọi người sinh ra mình là gì ?
+Nhà em có mấy anh em ? Em là con thứ mấy ?
+ Học sinh có thể kể thêm về bố mẹ mình và tình cảm của mình đối
với bố mẹ cho cả lớp nghe ?
+ Em làm gì để bố mẹ em vừa lòng ?
Hay bài : en - ên Chủ đề nói : Bên phải , bên trái
Bên trên , bên dưới
Hệ thống câu hỏi :
+ Trong tranh vẽ gì ?
+ Trong lớp bên phải em là bạn nào ?