Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

THƠ NỮ VIỆT NAM SAU 1975 NHỮNG TÌM TÒI VÀ CÁCH TÂN (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.71 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
________________________________________________

LÊ THÙY NHUNG

THƠ NỮ VIỆT NAM SAU 1975
NHỮNG TÌM TÒI VÀ CÁCH TÂN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2021


Cơng trình được hồn thành tại:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN PHƯỢNG
PGS. NGUYỄN VĂN LONG

Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn
Viện Văn học
Phản biện 2: PGS.TS Biện Minh Điền
Trường Đại học Vinh
Phản biện 3: TS. Trần Hạnh Mai
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án


cấp Trường họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm…

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc Gia, Hà Nội
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


1

MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Tìm tịi và cách tân trong văn học khơng chỉ là địi hỏi tinh thần của công
chúng, của thời đại trước những tác động, biến đổi của thời đại ấy, mà còn là nhu cầu
tự thân để nghệ thuật tồn tại, thoát khỏi lối mịn. Phát hiện ra những tìm tịi và cách
tân trong văn học là cần thiết, giúp chúng ta có được cái nhìn rõ nét hơn về đặc điểm
và sự vận động của văn học qua mỗi giai đoạn, đồng thời mở ra những hướng nghiên
cứu văn học mới.
1.2. Sau 1975, thơ nữ có những thay đổi lớn trong diện mạo và tạo nên những
cuộc tranh luận về đổi mới thơ khá sôi nổi. Đa số ý kiến cho rằng, vị thế của thơ nữ
đang dần được khẳng định với sự xuất hiện của đội ngũ thơ nữ đông đảo và những
thể nghiệm độc đáo, mới lạ. Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến trái chiều, thậm chí xung
đột, phản ứng gay gắt trước một số hiện tượng thơ có đổi mới táo bạo. Từ những
tranh luận ấy, việc chỉ ra sự tìm tịi và cách tân cụ thể trong thơ nữ sau 75 sẽ góp
phần giúp người đọc, người nghiên cứu có cái nhìn đánh giá khách quan hơn về diện
mạo và đóng góp của thơ nữ cho sự phát triển của thơ Việt Nam đương đại.
1.3. Trong xu thế hội nhập của đời sống văn hóa tinh thần, sự phát triển của các
phong trào nữ quyền trên thế giới có tác động đáng kể tới sự phát triển của văn học
nghệ thuật nước ta. Đặc biệt với thơ nữ sau 75, sự tác động ấy càng đậm nét hơn khi
âm hưởng nữ quyền trở thành một trong những mạch nguồn cảm hứng chủ yếu, ảnh

hưởng mạnh mẽ tới sự đổi mới của cái tơi trữ tình và một số thể nghiệm hình thức
nghệ thuật. Nó góp phần tạo nên những quan niệm, xu hướng, diện mạo riêng của thơ
nữ sau 1975.
1.4. Đa số những cơng trình nghiên cứu thơ nữ Việt Nam sau 75 hiện nay thường
được nghiên cứu theo hướng tổng quát về đặc điểm thơ, hoặc nhận xét chung trong
những thay đổi của nền thơ, hoặc đi vào đặc điểm, phong cách của nhà thơ, nhóm nhà
thơ. Đã đến lúc chúng ta cần có những cơng trình nghiên cứu bao qt được những
tìm tịi và cách tân trong thơ nữ Việt Nam sau 75 để thấy được đổi mới cụ của thể bộ
phận thơ này trên con đường hiện đại hóa thơ Việt.
Cho đến khi thực hiện đề tài này, những tranh luận về thơ nữ sau 75 chưa phải đã
chấm dứt, đặc biệt ở những hiện tượng thơ mang tính thời sự. Chúng tơi mong muốn
kết quả nghiên cứu khơng chỉ góp thêm góc nhìn về những tìm tịi và cách tân của bộ


2

phận thơ nữ mà còn giúp nhận diện sâu sắc hơn sự chuyển mình, thành tựu nghệ thuật
và gợi thêm hướng nghiên cứu khác về bộ phận thơ này.
2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung vào những tìm tịi và cách tân của thơ nữ sau 1975 trên một số
phương diện nội dung (cảm hứng trữ tình, cái tơi trữ tình) và hình thức nghệ thuật
(cấu trúc, hình ảnh, ngơn ngữ, giọng điệu).
2.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận án tập trung khảo sát một số hiện tượng thơ nữ sau 75 tiêu biểu sau :
Thế hệ nhà thơ nữ trưởng thành từ kháng chiến: Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Phan Thị
Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ.
Thế hệ nhà thơ nữ bắt đầu xuất hiện sau 75: Phạm Thị Ngọc Liên, Lê Thị Mây,
Nguyễn Thị Hồng Ngát, Đoàn Thị Lam Luyến, Dư Thị Hoàn, Lê Khánh Mai, Vũ Thị
Huyền.

Thế hệ nhà thơ nữ xuất hiện từ nửa cuối thập niên 90 đến nay: Phan Huyền Thư,
Nguyễn Phan Quế Mai, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Ngọc Tư, Từ Huy,
Ng.anhanh, Lữ Thị Mai, Như Quỳnh de Prelle, Nguyễn Thị Thúy Hạnh.
Cụ thể hơn, khi nghiên cứu những hiện tượng này, chúng tôi đi vào khảo sát một
số tác phẩm tiêu biểu (Danh mục tham khảo/ III. Các tác phẩm khảo sát)
Luận án cũng sử dụng một số tác phẩm giai đoạn trước 75 và một số tác phẩm của
các nhà thơ nam sau 75 để việc đối chiếu so sánh thuyết phục hơn.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Nhận diện, lí giải những tìm tịi và cách tân của thơ nữ Việt Nam từ sau 1975 đến
nay trên một số phương diện của nội dung và nghệ thuật. Đánh giá ý nghĩa của sự đổi
mới thơ nữ sau 75 với sự phát triển của thơ Việt, đồng thời khẳng định vị trí và
những đóng góp của các nhà thơ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xác định quan niệm tìm tịi và cách tân trên cơ sở lí luận, đồng thời nhìn lại tình
hình nghiên cứu về những tìm tịi và cách tân trong thơ nữ sau 75 để có cơ sở tiếp cận
đối tượng nghiên cứu.
Nhận diện khái quát bức tranh diện mạo của thơ nữ Việt Nam sau 75 qua các
chặng đường nối tiếp, song hành giữa các thế hệ nhà thơ, những quan niệm thơ và
những xu hướng cách tân thơ.


3

Tập trung phân tích những tìm tịi, cách tân của thơ nữ sau 75 trên phương diện
cảm hứng và cái tơi trữ tình. Chỉ ra những tìm tịi và cách tân cụ thể trên các phương
diện cấu trúc, hình ảnh, ngơn ngữ, giọng điệu.
Những tìm tịi, cách tân của thơ nữ sau 75 được khảo sát và đối chiếu so sánh với thơ
Việt nói chung, thơ nữ nói riêng ở những giai đoạn trước 1975, với thơ nam giới cùng
thời để nhận ra sự tiếp nối, đổi mới riêng trong sáng tạo nghệ thuật của thơ nữ.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp hệ thống cấu trúc, phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng
thể loại, phương pháp loại hình, phương pháp liên ngành, phương pháp so sánh đối
chiếu.
5. ĐÓNG GĨP CỦA LUẬN ÁN
(1) Luận án là cơng trình khoa học chuyên sâu về những đóng góp của thơ nữ
Việt Nam sau 1975. Từ những kết quả nghiên cứu về tìm tịi cách tân trong thơ nữ
sau 75 đã có, luận án góp thêm cái nhìn rõ nét hơn về sự đổi mới diện mạo thơ trên
tiến trình vận động, phát triển của thơ Việt Nam hiện đại.
(2) Luận án khái quát những đổi mới của thơ nữ sau 75 trên phương diện chuyển
đổi của cảm hứng, cái tôi trữ tình, lí giải những yếu tố tác động, thơi thúc sự tìm tịi,
cách tân ở các nhà thơ nữ. Từ sự nhận biết ảnh hưởng của ý thức nữ quyền, đề tài
nghiên cứu sâu hơn về đặc điểm, vẻ đẹp riêng trong thơ nữ.
(3) Luận án chỉ ra những tìm tịi, cách tân hình thức của thơ nữ sau 75 ở cấu trúc,
hình ảnh, ngơn ngữ, giọng điệu. Từ đó giúp người đọc hiểu hơn về sự thay đổi tư duy
nghệ thuật và nỗ lực kiến tạo, đổi mới thơ của các nhà thơ nữ.
(4) Kết quả nghiên cứu của luận án góp thêm hướng tiếp cận, kiến giải về những
đóng góp của thơ nữ Việt Nam sau 75, đưa đến những đánh giá phù hợp về sự phát
triển đa chiều của thơ Việt trong đời sống hôm nay.
(5) Bổ sung thêm tư liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy một số tác phẩm thơ nữ
sau 75 trong nhà trường cũng như việc nghiên cứu thơ ca trữ tình sau 75.


4

Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tìm tịi và cách tân trong thơ
1.1.1. Quan niệm về tìm tịi và cách tân
Từ những định nghĩa về tìm tịi và cách tân trong Từ điển tiếng Việt, Từ điển tiếng
Pháp (Larousse.com), Từ điển tiếng Anh (Vdict.com) có thể hiểu:

Tìm tịi là sự khám phá, kiếm tìm ra giá trị mới, phá bỏ thế tĩnh tại của hiện hữu
sáng tạo. Nó phụ thuộc chủ yếu vào ý thức chủ quan của người sáng tạo.
Cịn cách tân, theo nghĩa khái qt nó tương đồng với nghĩa của từ đổi mới. Về từ
loại, cách tân là từ Hán Việt nên có thể mang nét nghĩa khái quát cao hơn so với từ
đổi mới (từ thuần Việt). Nếu cách tân thường được dùng nhiều hơn trong lĩnh vực
văn học nghệ thuật thì đổi mới thường dùng bao trùm cho lĩnh vực, bình diện rộng
hơn. Nhiều ý kiến cho rằng cách tân nghiêng về thủ pháp nghệ thuật nhưng thực ra
thủ pháp nghệ thuật chỉ là một bình diện cịn cách tân bao hàm căn bản hơn về hệ tư
tưởng, quan niệm... Cách tân được biểu hiện ra ở nhiều mức độ, cấp độ, bình diện
khác nhau trong cùng một trào lưu, một phương pháp. Ở mức độ hẹp, cách tân có thể
làm thay đổi cơ bản một hệ hình văn học. Ở mức độ rộng, cách tân bao hàm sự thay
đổi căn bản các giai đoạn văn học.
Tìm tịi và cách tân là hai vấn đề khơng thể tách rời. Nếu tìm tịi là hành động tất
yếu của sự khám phá, đi tìm cái mới thì cách tân chính là kết quả khám phá, là cái
mới, cái chất lượng, mang đến những giá trị mới hơn cái cũ. Ngược lại, nếu cách tân
là hoạt động sáng tác tất yếu thì tìm tịi là một trong những điều kiện của cách tân, dù
không phải bất cứ sự tìm tịi nào cũng đem đến những cách tân bởi nó cũng có thể tạo
ra cái khác mà khơng phải cái mới. Chỉ khi nào sự tìm tịi tạo ra được giá trị nghệ
thuật mới, lúc đó văn học tất yếu có sự cách tân.
Mỗi thời đại, mỗi giai đoạn văn học, sự tìm tịi và cách tân sẽ tạo ra những giá trị
mới đáp ứng đòi hỏi văn học phù hợp tâm thức thời đại, đồng thời sẽ đem đến những
kết tinh thành tựu của thời đại, giai đoạn đó.
1.1.2. Tìm tịi cách tân trong thơ và trong thơ Việt Nam hiện đại
Từ đặc trưng thể loại có thể thấy tìm tịi và cách tân trong thơ thường có sự thống
nhất, hài hịa giữa ba phương diện cơ bản: thứ nhất, thơ làm mới quan niệm về thơ,
chất thơ, từ đó vị thế nhà thơ được xác lập; thứ hai, thơ khai thác và khám phá các
cung bậc cảm xúc mới lạ và độc đáo, từ đó nhận ra những hình tượng nghệ thuật mới,
trong đó có cái tơi trữ tình; thứ ba, thơ ln có xu hướng tự tìm đến những hình thức
nghệ thuật mới làm cho liên tưởng, tưởng tượng trong thơ đổi khác.



5

Trong thơ Việt Nam hiện đại, sự tìm tịi và cách tân thể hiện qua 3 giai đoạn:
Đầu thế kỉ XX, thơ có sự chuyển đổi hệ hình từ thơ cổ điển sang thơ mới mà trung
tâm là thay đổi cái tơi trữ tình từ thời đại cái ta sang thời đại cái tôi. Cuộc canh tân
này đi vào lịch sử văn học với sự ra đời của phong trào Thơ Mới. Trong đó, đổi mới
căn bản nhất vẫn là ở cái tôi cá nhân với cảm xúc và cách thụ cảm thế giới mới. Thực
chất, đó là sự tự vận động, tự cách tân thành các xu hướng để đi xa hơn trên con
đường hiện đại và tiệm cận với khuynh hướng thơ tượng trưng siêu thực.
Giai đoạn 45-75, thơ chuyển đổi căn bản từ nội dung cái tôi trữ cá nhân sang cái
tôi công dân chiến sĩ với những tình cảm, cảm xúc về quê hương, đất nước. Tuy
nhiên, ở những chặng sau (45-75), một số nhà thơ đơ thị miền Nam sớm có những
tìm tịi và cách tân hướng vào thế giới bên trong, thế giới nhiều phức tạp, những cách
tân mặt hình thức thì có xu hướng đi theo hướng trào lưu hiện đại chủ nghĩa. Đó cũng
là sự thay đổi phù hợp với yêu cầu của thời đại.
Sau 1975, tìm tịi và cách tân là cuộc chạy tiếp sức, là nỗ lực chung của nhà thơ. Ở
thế hệ nhà thơ trước cách mạng, họ vẫn tiếp tục có những tìm tịi âm thầm quyết liệt.
Sau nhiều năm âm thầm viết, đến cuối những năm 80, trong một hồn cảnh thuận lợi
họ có cơ hội trình bày những thể nghiệm đó một cách mạnh mẽ và tự tin trước cơng
chúng. Những người giữ vai trị quan trọng tạo nên những cú hích phải kể đến là Trần
Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm... Tiếp nối là thế hệ nhà thơ xuất hiện từ những năm 90 như
Nguyễn Quang Thiều, Dư Thị Hoàn, Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc. Xu
hướng cách tân trở thành trào lưu mạnh mẽ trong sáng tác của họ mà nổi bật lên là
những cây bút nữ như Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh Nguyễn Phan Quế Mai, Trang
Thanh, Ly Hoàng Ly, nguyễn Ngọc Tư... Họ góp phần làm cho trào lưu cách tân thơ
phát triển với nhiều thể nghiệm mới lạ, mở ra các hướng tìm tịi mặc dù khơng phải
khơng có những hiện tượng thơ có xu hướng đổi mới quá đà, cực đoan gây ra những
tranh cãi gay gắt.
1.2. Tình hình nghiên cứu về những tìm tịi và cách tân trong thơ nữ Việt

Nam sau 1975
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy số lượng bài viết nghiên về sự tìm tịi và cách
tân trong thơ nữ sau 75 khá phong phú, tập trung chủ yếu vào hai hướng: một là
những nghiên cứu chỉ ra đóng góp chung của bộ phận thơ nữ sau 75, hai là nghiên
cứu những đóng góp cụ thể qua những hiện tượng thơ ở một tác giả/ nhóm tác giả/
nhóm tác phẩm. Vậy, chúng ta cũng cần có thêm những nghiên cứu chun sâu và
tồn diện về tìm tòi, cách tân của thơ nữ từ sau 75 đến nay.


6

Chương 2. KHÁI QUÁT DIỆN MẠO THƠ NỮ VIỆT NAM SAU 1975
2.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa và văn học
Sự kiện 30/4/1975 là một bước ngoặt lịch sử tạo nên những thay đổi lớn cho nước
ta trên mọi lĩnh vực. Hịa chung khơng khí chiến thắng vang dội của đất nước, thơ
tiếp tục đi vào mạch cảm hứng sử thi, khẳng định con đường đi lên của cách mạng.
Song, do tác động từ bối cảnh của lịch sử, xã hội, nền văn học nói chung, thơ nói
riêng phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức mới. Văn học có chiều hướng
chững lại, nhiều cây bút cịn bị rơi vào trạng thái hẫng hụt, khơng có định hướng.
Những dấu hiệu đổi mới xuất hiện chưa thực sự trở thành phong trào rầm rộ, còn
nhiều hạn chế mặc dù văn học vẫn vận động theo quán tính. Mãi đến nửa đầu những
năm 80, khi nhu cầu đổi mới dần trở thành sự bức thiết của đời sống văn học thì thơ
có sự chuyển hướng mạnh mẽ từ cảm hứng sử thi sang đời tư thế sự.
Thành công của Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam mở ra cơng cuộc đổi
mới tồn diện cho đất nước. Tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng sự thật đươc phát
huy mạnh mẽ trong đời sống văn hóa xã hội. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên tinh
thần dân chủ đem lại những đổi mới quan trọng, căn bản trong văn học từ đề tài, chủ
đề, cái tôi đến các thể nghiệm hình thức nghệ thuật, giúp các nhà văn có cơ hội đi sâu
khám khá hiện thực nhiều chiều. Ở vị thế mới, con người cá nhân cũng khơng phải
nén lại hay hịa tan với cộng đồng mà được giải phóng và nhận thức lại đúng với ý

nghĩa, giá trị của mình.
Từ những năm 90 trở đi con đường đổi mới ấy có đơi lúc quanh co, chững lại
nhưng nó vẫn đang được tiếp tục theo xu hướng mới. Các nhà văn vẫn tiếp tục phát
huy sự nhạy bén và bắt kịp xu thế phát triển thời đại để đem đến sự đổi mới và tạo
nên diện mạo mới, luồng sinh khí mới cho văn học.
Sự xuất hiện đông đảo của đội ngũ thơ nữ một phần do ảnh hưởng của các phong
trào đấu tranh giải phóng con người, đấu tranh vì bình đẳng hay quyền lợi của phụ nữ
trong xã hội và một phần do ý thức phái tính, nữ quyền thúc đẩy. Sự tiếp nhận nền
văn hóa phương Tây, các trào lưu tư tưởng mới của văn học thế giới cũng đã kích
thích các trào lưu đổi mới của thơ Việt, mở ra tầm nhìn văn hóa cho người sáng tác
nữ và tạo nên chuyển biến trong cảm hứng, giọng điệu của thơ.
2.2. Nhìn chung về thơ nữ Việt Nam sau 1975
2.2.1. Thơ nữ sau 1975 - sự song hành, tiếp nối các thế hệ
Chặng đường đầu tiên, từ 1975 đến những năm 80, đội ngũ thơ nữ chủ yếu vẫn là
những gương mặt từng trưởng thành từ kháng chiến. Trong số đó, Ý Nhi vinh dự


7

nhận được giải thưởng Cikada vì những bài thơ mang bảo vệ cho tính bất khả xâm
phạm của đời sống. Xuân Quỳnh thì được đánh giá là người dự báo trước khuynh
hướng của những nhà thơ nữ đổi mới, là hiện tượng rất quan trọng của nền thơ chúng
ta. Còn Lâm Thị Mỹ Dạ với những vần thơ tình dịu ngọt nhà thơ không chỉ nhận
được những giải thưởng cao quý về thơ ca mà nhiều tác phẩm còn được dịch, xuất
bản ở Mỹ...
Chặng đường thứ hai, cuối những năm 80 đến những năm 90, bên cạnh nỗ lực đổi
mới của thế hệ nhà thơ trước, sự xuất hiện của thế hệ mới tạo nên sắc diện mới cho
thơ với nhiều phong cách lạ, độc đáo như: Vũ Thị Huyền khẳng định mình trong thi
đàn với sự lặng lẽ, ý vị và trầm lắng đến lạ; Dư Thị Hoàn gây chú ý với một hình
thức thơ là lạ, tồn những bài ngắn, câu ngắn, khước từ thể cách và rất nhiều vần

điệu; thơ nữ hải ngoại, có trường hợp đi rất xa, gây tranh cãi như Nguyễn Thị Hoàng
Bắc với tinh thần phản kháng mạnh mẽ... Họ góp phần đưa đến cho thơ tiếng nói
mới, tiếng nói của ý thức nữ quyền, địi hỏi được giải phóng, địi quyền thể hiện tiếng
nói của phái mình.
Chặng đường thứ ba, từ cuối năm 90 đến nay, thơ nổi bật là sự xuất hiện của thế
hệ nhà thơ nữ trẻ. Họ là những người có nhiều cơ hội tiếp xúc với các luồng tư tưởng
văn học thế giới, có điều kiện thuận lợi để thể nghiệm sáng tạo nên tìm tịi và cách
tân thơ nữ chặng này cũng được đẩy xa hơn, nhanh hơn và độc đáo hơn. Từ cách viết,
cách đặt tên tập thơ đến cách đưa tác phẩm đến công chúng bạn đọc cũng rất mới, lạ
như: trình diễn thơ ở nước ngoài, in thơ song ngữ, viết bài quảng bá thơ... Tiêu biểu
như Vi Thùy Linh, nhà thơ trẻ được Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Pháp mời thực
hiện đêm thơ riêng tại Paris; Nhóm Ngựa trời làm poster quảng bá thơ; Ly Hồng Ly
trình diễn thơ ở Pháp với những tấm hình xếp như tổ ong màu xám... Với bản lĩnh tự
tin, sự chủ động táo bạo các nhà thơ đã khám phá nhiều thể nghiệm mới lạ. Bởi thế,
nhiều người xem Vi Thùy Linh là người chuyển động bánh xe ý thức tính nữ trong
thơ Việt sau đổi mới; Phan Huyền Thư là hiện tượng thơ có biểu tượng thơ độc đáo
“nối dài sự sống cho chữ”; Ly Hoàng Ly là người mang nhiều hơi thở đương đại với
thể nghiệm nghệ thuật trình diễn (performance), sắp đặt (installation)...
Thơ ca miền Nam cũng trở nên sôi động hơn với những tên tuổi mới, thể nghiệm
mới như Thanh Xuân, Phương Lan, Lynh Bacardi, Khương Hà… và đem đến cho
diện mạo thơ Việt sự đa dạng, độc đáo.




×