Tải bản đầy đủ (.doc) (197 trang)

Đâu là đặc trưng thẩm mĩ của văn xuôi Việt Nam sau 1975?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (776.88 KB, 197 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Văn học Việt Nam kể từ sau 1975 đã bước sang một thời kì mới, với
sự bừng nở của văn xuôi. Đặc biệt là từ giữa thập kỉ 80, khi ý thức văn hoá mới
hình thành, hệ hình giá trị biến đổi thì văn học đã thực sự chuyển sang một
hình thái khác trước đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử văn học
dân tộc. Văn xuôi đóng vai trò chủ đạo trong bước ngoặt của dòng chảy hiện
đại ấy. Tuy vậy, cho đến nay tình hình nghiên cứu văn xuôi thời kì này đang
còn hết sức bề bộn. Thực trạng ấy, trước hết có nguyên nhân từ chính sự phức
tạp của thực tiễn văn học. Sự đổi mới diễn ra sôi nổi song cũng rất phức tạp,
vận động tiếp diễn còn trải qua hết thế kỉ XX và chưa ngưng nghỉ trong những
năm đầu thế kỉ XXI này. Mặt khác, nhận thức về lí thuyết phương pháp nghiên
cứu càng ngày càng được đổi mới. Sự đa dạng của phương pháp đem lại sinh
khí mới cho nghiên cứu đồng thời cũng đặt ra nhiều thử thách và cần có thời
gian thử nghiệm. Có thể nói, văn xuôi Việt Nam sau 1975 vẫn đang là một đối
tượng cần được tiếp tục nghiên cứu trên nhiều phương diện.
1.2. Sáng tạo văn học là sáng tạo ra những giá trị thẩm mĩ. Văn học đổi
mới, tất nhiên các giá trị thẩm mĩ không thể không thay đổi. Sự đổi mới của
văn học Việt Nam sau 1975 nói chung, văn xuôi nói riêng càng chứng tỏ mạnh
mẽ cho quy luật đó. Vì vậy, muốn nắm bắt được đặc trưng của văn xuôi thời kì
văn học này không thể không nghiên cứu hệ thống thẩm mĩ mới của nó.
Tiếp cận văn xuôi Việt Nam sau 1975 trên phương diện thẩm mĩ là một
hướng nghiên cứu mới. Bản thân sự đang dạng của văn xuôi thời kì này đòi hỏi
chúng ta phải cởi mở, linh hoạt trong quan điểm nghiên cứu. Các khái niệm,
phạm trù lí thuyết thẩm mĩ vốn đã được định hình từ lâu trong lịch sử cần phải
được bổ sung, phong phú thêm để đáp ứng thực tế đó. Nghiên cứu sự đa dạng
5
thẩm mĩ của văn xuôi sau 1975, như vậy cũng sẽ tạo ra những cơ hội tìm tòi,
vận dụng, qua đó nâng cao sự hiểu biết cũng như tích cực hơn trong thử
nghiệm, cập nhật những tri thức lí thuyết mới.
ở phương diện thực tiễn nghiên cứu, mặc dù việc nắm bắt những phẩm chất


thẩm mĩ mới tất yếu đã được tiến hành trong quá trình đánh giá, khái quát về
bản chất đổi mới của văn xuôi Việt Nam sau 1975. Có khi việc phân tích
những biểu hiện thẩm mĩ mới của văn xuôi thời kì này đã được chú ý ở những
khía cạnh nhất định. Nhưng cho đến nay chưa có công trình nào đi vào nghiên
cứu chuyên biệt sự chuyển đổi hệ thống thẩm mĩ của văn xuôi Việt Nam sau
1975.
Hơn nữa, mọi nỗ lực nhằm trả lời câu hỏi Đâu là đặc trưng thẩm mĩ của
văn xuôi Việt Nam sau 1975? không chỉ có ý nghĩa với quá khứ văn học mà còn
giúp ra nhận thức cái bây giờ, đang tiếp diễn của xu hướng thẩm mĩ hiện tại
trong văn xuôi, từ đó góp phần tìm lời giải cho những câu hỏi lớn của văn học
đương đại, của thị hiếu và hoạt động tiếp nhận thẩm mĩ hiện đại.
1.3. Văn xuôi Việt Nam sau 1975 có mặt ở hầu hết các chương trình giáo
dục: từ Trung học Cơ sở, Trung học Phổ thông đến Cao đẳng, Đại học chuyên
ngành Ngữ văn hoặc có liên quan như Việt Nam học... Những kết quả nghiên
cứu đã có vẫn cần được tiếp tục mở rộng, đào sâu để phục vụ tốt hơn cho các
nhiệm vụ giáo dục nói trên. Như vậy, về nhu cầu ứng dụng, nghiên cứu đặc
trưng thẩm mĩ của văn xuôi thời kì này là rất lớn, đòi hỏi người học, người
nghiên cứu và giảng dạy đối tượng văn học này phải có thêm những góc nhìn
về đặc điểm, thành tựu của một thời kì văn học đang còn mang tính thời sự;
qua đó, tích cực hoá hoạt động đối chiếu, kiểm nghiệm, điều chỉnh, làm giàu
thêm những kinh nghiệm, những tri thức lí luận trên cơ sở một đối tượng ứng
dụng mới.
6
Từ những lí do trên, có thể khẳng định việc nghiên cứu đề tài Sự đa dạng
thẩm mĩ của văn xuôi Việt Nam sau 1975 là có tính cấp thiết cả về thực tiễn
và lí luận.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Vấn đề Sự đa dạng thẩm mĩ của văn xuôi Việt Nam sau 1975 là một đề tài
nghiên cứu mới. Văn xuôi Việt Nam sau 1975 đã được nghiên cứu ở những
phương diện tổng quan. Những nghiên cứu ở cấp độ cụ thể chủ yếu về thi

pháp tác giả, tác phẩm. Có một số chuyên luận, luận văn, bài nghiên cứu trực
tiếp bàn đến đặc trưng thẩm mĩ của văn xuôi giai đoạn này nhưng chỉ ở phạm
vi từng vấn đề cục bộ.
2.1. Văn xuôi Việt Nam sau 1975 đã được quan tâm nghiên cứu trên
những phương diện tổng quát và sự đa dạng, những đổi mới hệ thống giá
trị của nó đã bước đầu được đề cập đến.
Đời sống văn học đã trải qua hơn ba mươi năm sau ngày giải phóng thống
nhất đất nước. Văn xuôi trở thành một bộ phận chủ lưu trong dòng chảy đổi
mới kể từ sau 1975. Tính đa dạng của văn xuôi đã được đề cập đến ở nhiều
phương diện.
Năm 1995, trong Hội thảo Việt Nam nửa thế kỉ văn học, trong tham luận
Bước tiếp chặng đường nửa thế kỉ văn học cách mạng Việt Nam, Diệp Minh
Tuyền đã mạnh mẽ khẳng định: “Đổi mới văn học đích thực là quá trình đa
dạng hoá văn học”[293;277]. Tuy nhiên, đa dạng hoá ra sao thì tác giả tham
luận này chưa nói rõ.
Nguyễn Văn Long trong bài Về cách tiếp cận để đánh giá văn học Việt
Nam sau Cách mạng tháng Tám khái quát: “Từ sau tháng 4 – 1975, nhất là từ
giữa thập kỉ 80 trở lại đây, những biến đổi to lớn của đời sống xã hội đã đưa
đến sự thay đổi các thang chuẩn quan trọng khi nhìn nhận các giá trị của cuộc
7
sống và của cả văn học nghệ thuật.”, “Con người được mô tả trong tất cả tính
đa dạng, đa chiều của nó đã tạo thành nét chính trong sự định hướng về giá trị
văn học của công chúng hôm nay. Nói khác đi, tinh thần dân chủ và cảm hứng
nhân bản là những đặc điểm nổi bật của văn học thời kì đổi mới.”[294;22].
Trong một bài viết khác gần đây hơn, nhà nghiên cứu tiếp tục chỉ ra những
đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ sau 1975: “Văn học vận động theo
hướng dân chủ hoá”, “Sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên cơ sở tinh thần nhân
bản là nền tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo, bao trùm của nền văn học từ
sau 1975”, “Văn học phát triển phong phú, đa dạng, hướng tới tính hiện đại”.
Ông đã đề cập đến sự đa dạng của văn học ở các bình diện “đa dạng về đề tài,

phong phú về thể loại, nhiều tìm tòi về thủ pháp nghệ thuật, đa dạng về phong
cách và khuynh hướng thẩm mĩ.”[217;16]. Từ đó, tác giả đã bàn cụ thể hơn về
đặc điểm của văn xuôi, cho rằng văn xuôi sau 1975 có “khuynh hướng nhận
thức lại”, “Khám phá đời sống muôn vẻ trong cái hằng ngày, trong các quan
hệ thế sự và đời tư” và nhận định về những đổi mới của văn xuôi đã “mở rộng
quan niệm về hiện thực đi liền với đổi mới quan niệm nghệ thuật về con
người, đổi mới nghệ thuật trần thuật và ngôn ngữ, giọng điệu”[217;18-19].
Từ sự phân tích lịch sử ý thức văn hoá của văn học cách mạng Việt Nam
sau 1945, Trần Đình Sử nhận định: “Trong thời kì đổi mới, xây dựng đất nước
trong điều kiện hoà bình, mở rộng giao lưu, kinh tế thị trường các giá trị cộng
đồng dân tộc vẫn còn nguyên ý nghĩa. Nhưng mặt khác hệ thống giá trị của văn
học cách mạng thời kì qua không còn đáp ứng đầy đủ nhu cầu văn hoá mở rộng
đa dạng của thời bình.”[348;307]. Ông cho rằng “văn học sau 1975, nhất là sau
1987 có một sự bùng nổ về ý thức cá tính nhằm lập lại thế cân bằng giữa ý thức
cá nhân và ý thức cộng đồng. Sự tiến bộ của văn học là một quá trình không
ngừng làm giàu mãi lên những phẩm chất mới, không ngừng khơi sâu, mở rộng
thêm quan niệm về con người và hiện thực.”[294;35].
8
Nguyễn Thị Bình trong bài Mấy nhận xét về nhân vật của văn xuôi Việt
Nam sau 1975 đưa ra nhận định về sự đa dạng của văn xuôi từ góc độ quan
niệm nghệ thuật: “Từ năm 1986 trở đi, sự đổi mới văn xuôi mới thật sự diễn
ra ở bề sâu với một quan niệm đa dạng, nhiều chiều về đời sống.”[294;219].
Cũng tác giả này trong luận án Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam sau 1975 đã đề cập đến tính nhiều khuynh hướng của văn xuôi đổi mới
trong so sánh với văn xuôi trước 1975: “Văn xuôi từ sau 1975 dần dần xuất
hiện tính nhiều khuynh hướng do những tư tưởng khác nhau về hiện thực.”,
“Một quan niệm đa dạng và nhiều chiều về con người cũng phù hợp với tinh
thần tư duy của thời đại khoa học và tạo điều kiện cho văn học nước ta hoà
nhập với văn học thế giới.”[28;23-86]. Đôi chỗ, tác giả luận án có gợi đến sự
đa dạng thẩm mĩ: “một quan niệm của thời đại có khả năng dung nạp nhiều

giá trị thẩm mĩ khác nhau, nhiều yếu tố cách tân, cải biến, kể cả một số yếu tố
vốn lạ lẫm với kinh nghiệm truyền thống.”, “các nhà văn đã bước đầu xác lập
được một hệ thống tiêu chí giá trị phù hợp với con người trong thời đại
mới”[28;42-86].
Nguyên Ngọc, trong bài Văn xuôi Việt Nam hiện nay – lôgic quanh co của
các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng, đã phân tích dòng chảy
của văn xuôi sau 1975 qua những điểm mốc cách tân, vừa tổng kết vừa đặt ra
vấn đề cho tương lai văn học, ông viết “Văn học đang muốn trở nên đa dạng
hơn. Đang có những cố gắng tìm cách nói mới để soi rọi được hiện thực xã
hội ngày càng trở nên hết sức phức tạp.” [217;180].
Như vậy, mặc dù tính cách tân của văn xuôi trong vận động chung của văn
học Việt Nam sau 1975 đã được đánh giá tổng quát theo những hướng tiếp cận
khác nhau, sự đa dạng cũng đã được đề cập đến, song hầu như chưa có trực tiếp
bàn đến đặc trưng đa dạng hoá, với những phẩm chất thẩm mĩ cụ thể.
9
2.2. Hướng nghiên cứu thẩm mĩ, sự chuyển đổi các phạm trù thẩm mĩ, đã
xuất hiện trong những phân tích về vị thế, tính chất của cái bi và cái hài.
Trong bài viết Nhìn lại những bước đi, lắng nghe những tiếng nói, La
Khắc Hoà đã so sánh và chỉ ra sự khác biệt giữa văn học trước và sau 1975:
“Trước 1975, văn học sử thi đặt ra những vấn đề mang tầm vóc lịch sử, liên
quan tới vận mệnh và sự sống còn của cả dân tộc. Nó bổ đôi thế giới, chia thế
giới thành hai nửa địch và ta đối đầu với nhau như nước với lửa, sống với
chết.”, “Khi tiếng nói sử thi lắng xuống, thì tiếng nói thế sự vang lên.”, “Văn
học sau 1975 nói thật to cái sai, cái xấu và cả cái ác trong nội bộ chúng ta,
giữa chúng ta với nhau.”[217;61-62]. Nhà nghiên cứu đã chỉ ra những điểm
đổi mới của văn học sau 1975 ở những phạm trù thẩm mĩ cụ thể: “Không nên
nghĩ, văn học sau 1975 chỉ nói tới cái phàm tục dơ dáng, méo mó nghịch dị.”,
“Sau 1975, văn học nói rất to về vẻ đẹp phồn thực của cuộc đời trần
thế.”[217;63]. Nhà nghiên cứu cho rằng trước 1975, văn học sử thi nói tới cái
đẹp, cái hùng là để khẳng định sự hợp lí tuyệt đối của tồn tại, khác với văn

học sau 1975, khi tiếng nói thế sự vang lên đãi làm nổi bật sự vô lí, phi lí hiện
đang tồn tại trên đời. Từ những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, tác giả bài
viết đã khái quát hết sức sâu sắc: “Mọi thiết chế xã hội được bày ra, tất thảy
đều chật hẹp hơn khát vọng nhân bản miên viễn của nhân loại. Cái bi, cái hài
của cõi nhân sinh có cả ở đấy, mọi sự thanh cao giữa cõi đời trần tục. Càng đi
tìm cái đẹp, cái đẹp càng tuột khỏi tầm tay, và ta thì hoá thành ma quỷ hoà
trộn vào môi trường tồn tại của chính bản thân mình. Cho nên, dù viết về cái
méo mó, nghịch dị, tà nguỵ ma quái, hay cái đẹp, cái xinh, thì văn học thế sự
sau 1975 vẫn là tiếng nói thể hiện khát vọng đổi mới xã hội của nhân dân.”,
“Văn học đổi mới không thể cất lên thành tiếng hát. Cái vô lí, phi lí, chất văn
xuôi và vẻ đẹp của đời sống phồn tạp chỉ có thể hoá thân vào tiếng cười trào
tiếu, giễu nhại để văn học thế sự biến thành tiếng nói nghệ thuật.”, “Sau 1975,
10
văn học thế sự chuyển tiếng nói thành tiếng cười trào tiếu, giễu nhại. Tiếng
cười giễu nhại, trào tiếu mở đường cho văn xuôi phát triển, tạo môi trường để
văn xuôi nói to hơn thơ.”[217;64-66-69]. Như vậy, sự so sánh lịch sử thẩm mĩ
đã đưa đến những nhận định thuyết phục, khá toàn diện về hệ thống thẩm mĩ
mới của văn học sau 1975 nói chung, văn xuôi nói riêng. Từ bài viết này, vấn
đề đa dạng hoá thẩm mĩ đã được xới xáo, gợi mở.
Phong Lê, trong bài Văn học Việt Nam trước và sau 1975 – nhìn từ yêu
cầu phản ánh hiện thực trực diện hơn khi đề cập đến những biểu hiện thẩm mĩ
của văn học đổi mới trong sự so sánh lịch sử. Tác giả đưa ra định đề “Cái hài
bên cái bi và một giai đoạn mới của văn học” để khái quát đặc trưng thẩm mĩ
nổi bật của văn học sau 1975 nói chung, văn xuôi nói riêng. Ông viết: “Thế
nhưng dẫu toàn bộ nền văn học mới đã chuyển sang âm điệu nghiêm trang, thì
cuộc sống, trong lẽ tồn tại bình thường của nó lúc nào cũng cần có cái hài và
tiếng cười.”. Ông cho rằng sự “nghiêm trang” của văn học cách mạng “dần
dần trở thành không tự nhiên”, bởi “cái cười, nhu cầu cười” là một nhu cầu
bình thường của cuộc sống: “Nhu cầu trở lại bình thường ấy dường như đã
diễn ra vào thập niên cuối của thế kỉ XX, tính từ công cuộc đổi mới...”. Phong

Lê cũng đã nói đến một “hệ thẩm mĩ mới”, và theo ông cái hài và cái bi chính
là một cặp tạo nên sự cân đối, hài hoà cho hệ thẩm mĩ mới ấy: “Nhưng bên
cái hài còn cái bi? Cũng đã quá lâu trong văn học chúng ta vắng thiếu hẳn cái
bi, mà chỉ ưu tiên cho cái mực thước, nghiêm trang, trong khi nó chính là sự
tồn tại hai mặt và nhiều mặt của cuộc sống con người; và do vậy, nó cũng có
quyền chính đáng được tồn tại. Nếu có cái bi, ta chỉ cho phép nó tồn tại ở
dạng bi kịch lạc quan. Nhưng bi còn là buồn, là thất vọng, là thất bại. Ta sợ
con người vì thế mà nhụt chí. Nhưng cuộc sống lúc nào cũng vậy, nếu có cả
vui và buồn thì cái buồn vẫn cứ tồn tại...”[217;94-95].
Cái bi và cái hài cũng đã được Nguyễn Thị Bình nói đến như một trong
11
những biểu hiện của “xu hướng nhạt dần chất sử thi tăng dần chất tiểu thuyết”
của văn xuôi sau 1975: “Nhiều người nhận xét rằng văn xuôi nước ta từ 1945
– 1975 né tránh cái bi, kể cả cái bi hùng, bi tráng. Điều đó có lí do chính đáng
ở hoàn cảnh lịch sử cụ thể và phần nào cả ở một quan niệm còn hẹp hòi về
văn học. Thực tế, cảm hứng sử thi, nhìn nhận, đánh giá hiện thực theo tiêu chí
cộng đồng cũng khó có chỗ đứng cho những cái bi.”. Theo đó, tác giả này nói
đến “bi kịch của cá nhân bị những lực lượng giả danh cộng đồng đè bẹp”, “bi
kịch khủng hoảng niềm tin”, “bi kịch của nghệ thuật chân chính không tìm
được tri âm”, “bi kịch hạnh phúc”[28;103]. Còn cái hài được Nguyễn Thị
Bình lưu ý là cái hài đời, không phải chất hài hước.
Nói đến sự đổi mới cái nhìn đối với chiến tranh, Trần Đình Sử từng cho
rằng: “Văn học đã nói nhiều tới tính chính nghĩa, tính anh hùng, tính cách
mạng của cuộc chiến tranh nhưng chưa có gì đáng kể về tính tàn bạo, tính huỷ
diệt, bi thảm của nó, những tính chất không chỉ thể hiện ở cái chết nơi chiến
trận, mà còn mở rộng thành cái chết trong tâm hồn… Có thể nói các tác giả đã
lộn trái cuộc chiến tranh ra, để ta được nhìn vào cái phía trong bị che khuất,
để lấp một chỗ trống chưa được lấp”[289].
Nhà văn Hồ Phương bàn đến “sự trở về nguyên lí: “Văn học là nhân học””
với sự khai thác cái bi trong văn học sau 1975: “Để đi sâu vào số phận con

người, không ít tác giả đã chăm chú viết về các bi kịch cá nhân nằm trong bi
kịch chung của dân tộc trong cuộc chiến. Qua những bi kịch ấy, tính cách và bản
ngã của con người đã được bộc lộ rõ”, “càng đi sâu vào con người, văn học ta
càng gần tới bản chất của cuộc sống, do đó tính nhân văn cũng cao
hơn.”[294;134].
Tôn Phương Lan đã gián tiếp nói đến cái bi trong văn xuôi sau 1975 trong
sự so sánh với cái hùng trong văn học chiến tranh như một sự đổi mới về
12
hướng tiếp cận đối với hiện thực: “Cái hào hùng của chiến tranh không còn là
đối tượng duy nhất để quan sát và miêu tả. Tinh thần của cuộc chiển tranh
như là cái cốt lõi làm nên tính tư tưởng của nhiều tác phẩm sáng giá và điều
đó không hề hạn chế việc các nhà văn có thể đi sâu vào những mất mát, đau
thương của dân tộc, của các số phận người dân.”[293;425].
Có ý kiến lại cho rằng không nên tuyệt đối hoá khi đem cái bi ra để đối lập
với thẩm mĩ của văn học chiến tranh. Chẳng hạn như ý kiến của Nguyễn Tri
Nguyên trong bài Cân bằng và hướng nội – một xu hướng của văn học thời kì
đổi mới: “nhà văn trình bày cái ngày thường và nỗi đau của con người trong
tương quan với chủ nghĩa anh hùng từ cái nhìn của những vấn đề xã hội hiện
thời (tác phẩm của Lê Lựu, Triệu Bôn, Nguyễn Trí Huân, Chu Lai, Khuất
Quang Thuỵ...) (...) Khuynh hướng tìm sự cân bằng và hướng tới sự hài hoà
trong sự phát triển của văn học, không có nghĩa là, trong chiến tranh người ta
môi tả cái hùng, còn trong thời bình thì mô tả cái bi, hoặc cường điệu cái bi.
Khuynh hướng này đòi hỏi mô tả cuộc sống con người trong chiến tranh, trung
thực và có tính nghệ thuật, trên con đường dẫn tới chủ nghĩa anh hùng cũng
như phải trải qua những trạng huống bi kịch.”[293;202].
Cái hài trong văn xuôi đổi mới cũng đã được chú ý. Tiêu biểu là nhận định
của Lã Nguyên trong tiểu luận Những dấu hiệu của Chủ nghĩa Hậu hiện đại
trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài.
Nhà nghiên cứu đã đặt ra vấn đề khái quát về bản chất của văn học đổi mới từ
phạm trù “hậu hiện đại”: “muốn khái quát quy luật vận động của văn học Việt

Nam sau 1975, có lẽ phải tìm đến một số phạm trù mĩ học mang ý nghĩa tổng
thể. Một phạm trù mang ý nghĩa tổng thể như thế, tôi nghĩ, giờ đây chỉ có thể là
phạm trù “hậu hiện đại”. Từ một cách tiếp cận như thế, Lã Nguyên đã phát biểu
quan điểm về những biểu hiện độc đáo của văn xuôi sau 1975: “Có thể gọi
Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn của những câu chuyện về cái “trớ trêu”. Từ trong
13
chiều sâu mạch văn, người đọc thấy toát lên một tinh thần cốt lõi: “trớ trêu” vừa
là chuyện cực kì tàn nhẫn, vừa là chuyện nực cười: nực cười trước cái vô lí, phi
lí gợi ra cảm giác về cái vô nghĩa của đời sống. Nguyễn Huy Thiệp có truyện
ngắn Đời thế mà vui. Tôi nghĩ, những cái nhan đề như “Nực cười”, hoặc “Đời
thế mà vui” hoàn toàn phù hợp với nội dung có dễ đến quá nửa số truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp. ý tôi muốn nói, phạm trù thẩm mĩ trung tâm trong sáng
tác của Nguyễn Huy Thiệp là cái hài hước, nghịch dị. Đây là chỗ khác nhau cơ
bản giữa Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài so với các nhà văn đổi mới văn
học theo hướng phản sử thi.”[136]. Như vậy, từ cái hài và cái phi lí, nhà nghiên
cứu đã chỉ ra hai khuynh hướng thẩm mĩ cơ bản của văn xuôi sau 1975. Một lần
nữa, nhà nghiên cứu đã lột tả đặc trưng thẩm mĩ của văn xuôi sau 1975 và gợi ra
vấn đề sự tương tác thẩm mĩ giữa các phạm trù khác nhau. Cùng với hướng tiếp
cận này, Đào Tuấn ảnh đã có những lí giải thuyết phục về cơ sở xuất hiện của
yếu tố hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam khi tiến hành so sánh tương đồng
với văn xuôi Nga. Từ đó, tác giả của bài viết Những yếu tố Hậu hiện đại trong
văn xuôi Việt Nam qua so sánh với văn xuôi Nga nhận định: “Tính “suồng sã”
chính là “đích danh thủ phạm” gây nên sự bất bình, phản kháng của người đọc
cùng thời (kể cả người đọc lí tưởng – nhà lí luận, phê bình), vốn quen với nền
văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa đoan trang không biết cười, đối với các
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài.”[10].
Cái hài trong văn xuôi Việt Nam cũng đã được tìm hiểu trong luận văn
Tiếng cười trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Thị Thuý
Hằng. Tác giả luận văn đã bàn đến cái hài trên cơ sở các vấn đề: tiếng cười
trong truyền thống văn học dân tộc; tiếng cười và cảm hứng phê phán; tiếng

cười và nhu cầu đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người, tư tưởng; tiếng
cười và nghệ thuật trần thuật. Tác giả kết luận rằng tiếng cười “phản ánh
khát vọng dân chủ và quy luật phát triển theo hướng dân chủ hoá của văn
14
học, xác lập tư thế mới của nhà văn và bạn đọc”, “Bằng tiếng cười, văn xuôi
nói chung, truyện ngắn nói riêng đã phản ánh một trình độ nhận thức đời
sống có chiều sâu, những trăn trở mang tinh thần công dân tích cực trước
tình trạng tha hoá của con người.”[115;123]. Tuy nhiên, cái hài – tiếng cười
đã không được tiếp cận trong quan điểm đa dạng hoá thẩm mĩ, vì thế những
sắc thái và ý vị sâu sắc của cái hài trong tương tác với các phẩm chất thẩm mĩ
khác chưa được chú ý làm rõ.
Tóm lại, các phạm trù thẩm mĩ cơ bản tạo nên phẩm chất thẩm mĩ mới
của văn xuôi Việt Nam sau 1975 bước đầu đã được đề cập. Có một số công
trình đã chuyên biệt đi vào nghiên cứu các phạm trù thẩm mĩ song chưa đặt
trong cái nhìn về bản chất đa dạng hoá của hệ thống thẩm mĩ mới. Các ý
kiến chủ yếu xoay quanh hai phạm trù cái bi và cái hài như là sự khác biệt
giữa văn xuôi trước và sau 1975. Có ý kiến đã đẩy đến việc xem xét những
yếu tố thẩm mĩ độc đáo từ cái hài và cái phi lí. Nhìn chung, hệ thống thẩm
mĩ mới của văn xuôi sau 1975 vẫn chưa được tiếp cận nghiên cứu một cách
chuyên biệt và toàn diện.
Chúng tôi sẽ kế thừa các kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài để
tiến tới làm rõ Sự đa dạng hoá thẩm mĩ của văn xuôi Việt Nam sau 1975.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án lấy văn xuôi Việt Nam sau 1975 làm đối tượng khảo sát. Có thể
xem toàn bộ văn học sau 1975 là khách thể nghiên cứu của luận án và cũng có
thể quan niệm văn xuôi sau 1975 là cấp độ khách thể hẹp hơn của đề tài. Đối
tượng nghiên cứu của luận án là hệ giá trị thẩm mĩ mới của văn xuôi Việt
Nam sau 1975 với những biểu hiện cụ thể ở các phạm trù cái đẹp, cái cao
cả, cái bi, cái cảm thương, cái hài, cái phi lí.

15
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi chọn các tác phẩm thuộc hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn
của các tác giả tiêu biểu cho văn xuôi Việt Nam từ sau 1975, nhất là kể từ sau
1986 cho đến khoảng 2006, làm đối tượng khảo sát chính. Đó là những tác
phẩm đạt giải hoặc những tác phẩm được dư luận chú ý, đánh giá cao. Các
mốc thời gian 1986, 1991 hoặc 1995 cơ bản đã được thống nhất như là những
điểm phân chặng vận động của văn học nói chung, văn xuôi sau 1975 nói
riêng. Mốc 2006 là thời điểm trọn vẹn hai mươi năm kể từ khi bắt đầu thời kì
đổi mới và cũng là điểm dừng bao quát phù hợp với quy phạm thời gian hoàn
thành luận án. Tiểu thuyết và truyện ngắn không phải toàn bộ nội hàm của khái
niệm văn xuôi. Nhưng rõ ràng, đây là hai thể loại trung tâm làm nên diện mạo
của văn xuôi Việt Nam sau 1975. Ngoài ra còn có kí sự, tuỳ bút... những thành
tố góp phần tạo nên vận động đổi mới. Chúng tôi không loại trừ song chỉ mở
rộng khảo sát đến chúng trong những trường hợp cần thiết, ở những phẩm chất
thẩm mĩ mà các thể loại này có đóng góp quan trọng.
Thực tiễn văn học luôn phong phú, đa dạng hơn hệ thống lí thuyết về văn
học, nhất là văn học ở những giai đoạn diễn ra chuyển biến mạnh mẽ. Nghiên
cứu sự đa dạng thẩm mĩ của văn xuôi Việt Nam sau 1975 tất nhiên cũng gặp
phải những khó khăn trên phương diện lí thuyết. Bởi lẽ, những phẩm chất
thẩm mĩ mới cần phải được định danh bằng các phạm trù lí thuyết; trong khi,
một mặt có những phạm trù lí thuyết phổ biến, với nội hàm vốn đã được định
hình từ lâu trong lịch sử (như cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài), trên thực tế
vận dụng, đã bộc lộ những hạn chế so với sự đa dạng, cái mới mẻ của thực
tiễn, mặt khác có những phạm trù chưa được sử dụng phổ biến, chưa được
nghiên cứu thấu đáo nên việc vận dụng vào thực tiễn sẽ gặp nhiều trở ngại
(như cái cảm thương, cái phi lí). Với thực trạng này, để có thể thực hiện được
nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi lựa chọn hướng xử lí như sau: 1/Đối với
16
những phạm trù đã phổ biến, chúng tôi sẽ linh hoạt trong việc cập nhật, bổ

sung sao cho phù hợp với phẩm chất thẩm mĩ của đối tượng nghiên cứu;
2/Đối với những phạm trù còn chưa phổ biến, chúng tôi sẽ cố gắng nắm bắt
trên cơ sở những nhận định đã có với các trường hợp ứng dụng đã được tiến
hành. Như vậy, việc nghiên cứu đề tài cụ thể này cũng là một dịp để thử
nghiệm trong khả năng có thể góp phần làm sáng tỏ thêm các khái niệm từ thực
tiễn.
Chúng tôi quan niệm đặc trưng thẩm mĩ của một đối tượng nào đó được
biểu hiện ra ở các phạm trù thẩm mĩ và ở mối tương tác, chuyển hoá giữa các
phạm trù trong hệ thống thẩm mĩ.
Để thấy được sự đổi mới thẩm mĩ của văn xuôi sau 1975, không thể không
đặt nó trong cái nhìn so sánh lịch sử. Vì vậy, việc đối chiếu với đặc trưng thẩm
mĩ của văn học trước 1975 sẽ được thực hiện theo mục tiêu cụ thể của từng vấn
đề.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục tiêu của đề tài
Phân tích, khái quát về sự đa dạng thẩm mĩ của văn xuôi Việt Nam sau
1975 theo các phạm trù thẩm mĩ và tương tác, chuyển hoá giữa các phạm trù.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát các tác phẩm văn xuôi tiêu biểu từ sau 1975 đến 2006; phân
tích, khái quát các phẩm chất thẩm mĩ nổi bật.
- Xác định các khái niệm công cụ: đa dạng thẩm mĩ, cái đẹp, cái cao cả,
cái bi, cái cảm thương, cái hài, cái phi lí.
- Trình bày các luận điểm về sự đa dạng hoá thẩm mĩ của văn xuôi Việt
Nam sau 1975.
5. Phương pháp nghiên cứu
17
- Phương pháp phân tích thẩm mĩ: Để làm rõ sự đa dạng thẩm mĩ của văn
xuôi Việt Nam sau 1975, không thể không phân tích những phẩm chất thẩm
mĩ của nó. Phương pháp phân tích thẩm mĩ có thể được vận dụng đối với
nhiều cấp độ của đối tượng và chỉ có thể được tiến hành khi kết hợp với các

phương pháp khác.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Thi pháp học hiện đại đã được ứng
dụng nghiên cứu thành công ở Việt Nam. Văn học, qua sự cắt nghĩa thi pháp đã
bộc lộ được bản chất sáng tạo trong tính quan niệm, giá trị sâu sắc của bản thể
văn chương. Những biểu hiện của thi pháp tác phẩm, tác giả, lịch sử văn học... là
căn cứ để xác thực những biểu hiện thẩm mĩ của văn xuôi Việt Nam sau 1975.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Nghiên cứu sự đa dạng cần đồng thời
với một cái nhìn về hệ thống thẩm mĩ mới của văn xuôi Việt Nam sau 1975.
Cái nhìn hệ thống cũng sẽ giúp chúng tôi lí giải sự tương tác, chuyển hoá giữa
các phẩm chất thẩm mĩ.
Ngoài ra chúng tôi sử dụng các phương pháp khác như so sánh, phân loại,
thuyết minh,… như những thao tác thường xuyên.
6. Những đóng góp mới của luận án
(1) Lần đầu tiên phân tích trực tiếp sự đa dạng thẩm mĩ của văn xuôi Việt
Nam sau 1975. Từ đó, chỉ ra những biểu hiện nổi bật của văn xuôi Việt Nam
sau 1975 ở từng phạm trù thẩm mĩ, qua đó khẳng định về bản chất đổi mới của
nó. Qua việc nghiên cứu hệ thống thẩm mĩ của văn xuôi đem đến những cơ sở
mới cho việc lí giải sự đổi mới cùng vận động tiếp diễn của văn học Việt Nam
kể từ sau 1975.
(2) Bước đầu hệ thống hoá các khái niệm lí thuyết về thẩm mĩ và góp
phần làm rõ hơn các khái niệm đó trong quá trình vận dụng vào phân tích một
đối tượng cụ thể.
18
(3) Kết quả nghiên cứu có thể dùng cho việc nghiên cứu, học tập và giảng
dạy bộ môn lí luận văn học, văn học Việt Nam hiện đại.
7. Giới thiệu bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận án được cấu trúc thành 4 chương:
- Chương 1 (Từ trang 19 đến trang 46): Sự thay đổi hệ thống giá trị
thẩm mĩ trong văn học Việt Nam sau 1975;

- Chương 2 (Từ trang 47 đến trang 95): Các sắc điệu của cái đẹp và cái
cao cả trong văn xuôi Việt Nam sau 1975;
- Chương 3 (Từ trang 96 đến trang 137): Các hình thái của cái bi và cái
cảm thương trong văn xuôi Việt Nam sau 1975;
- Chương 4 (Từ trang 138 đến trang 185 ): Những biểu hiện của cái hài
và cái phi lí trong văn xuôi Việt Nam sau 1975.
19
Chương 1
SỰ THAY ĐỔI HỆ THỐNG GIÁ TRỊ THẨM MĨ
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM SAU 1975
1.1. Bối cảnh lịch sử – xã hội và nhu cầu thay đổi hệ thống giá trị
1.1.1. Bối cảnh lịch sử – xã hội mới
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã thành một dấu mốc, để từ đây một thời
kì mới trong lịch sử dân tộc bắt đầu. Đất nước hoà bình, đời sống xã hội vận
động trong tính “bất thường” của thời hậu chiến, từng bước tiến tới lộ trình
phát triển toàn diện, “bình thường” của một xã hội hiện đại.
Sau khi chiến tranh chấm dứt, Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng
Cộng sản Việt Nam (1976) đã chỉ ra đường lối: “Có chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc
ta mới có kinh tế hiện đại do đó bảo đảm cho đất nước ta vĩnh viễn độc lập tự
do và ngày càng phát triển phồn vinh.”[64, 41]. Đại hội cũng đề ra phương
hướng, nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch nhà nước 5 năm (1976 - 1980): xây
dựng một bước cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình
thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước với bộ phận chủ yếu là cơ cấu công -
nông nghiệp, cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao
động. Trên thực tế, một mặt, do nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến
tranh tàn phá liên miên, cộng thêm chính sách cấm vận của Mĩ; mặt khác, do
những hạn chế trong chủ trương cải tạo, xây dựng kinh tế cho nên nhìn chung
thời kì này kinh tế - xã hội đất nước chưa thoát khỏi tình trạng khủng hoảng.
Đời sống văn hoá - văn học cũng không nằm ngoài thực tiễn đó.
Đến năm 1982, tại Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt

Nam, đường lối xây dựng chủ nghĩa đã có sự điều chỉnh để phù hợp hơn với
điều kiện mới. Trong kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), Đảng chủ trương đẩy
mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển thêm một bước và sắp xếp lại cơ cấu
20
kinh tế, nhằm đạt được sự ổn định tình hình kinh tế - xã hội, đáp ứng những
nhu cầu cấp bách, thiết yếu nhất của đời sống nhân dân. Tuy nhiên, một sự
đổi mới thực sự chỉ có thể dựa trên một đường lối phát triển kinh tế – xã hội
có sự thay đổi toàn diện, sâu sắc trong bản chất vận hành của quy luật đời
sống. Vì thế, tư tưởng xây dựng nền văn hoá mới, con người mới được quán
triệt, song về cơ bản vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ, lạc hậu, giáo điều.
Chỉ đến Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1986) với những chủ trương đổi mới toàn diện, đồng bộ từ kinh tế, chính trị
đến tư tưởng, xã hội thì văn hoá - văn học mới có một bước chuyển biến hệ
trọng, một thời kì đổi mới thực sự. Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lí của Nhà nước là một quyết sách đúng đắn, có tác động
mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có việc hình thành một
hệ hình giá trị văn hoá mới phù hợp với quy luật vận động của đời sống, đáp
ứng nhu cầu bức thiết của con người trong thời đại mới. Lần đầu tiên chính
sách xã hội được xem xét một cách tổng thể và toàn diện gắn liền với chính
sách kinh tế.
Nhìn chung, kể từ 1986, qua các kì Đại hội, đường lối phát triển kinh tế xã
hội không ngừng được củng cố, bổ sung để đưa đất nước phát triển xứng tầm
với các quốc gia trên khu vực và trên thế giới. Điều đó xuất phát từ nhu cầu từ
thực tiễn xã hội, những vận động tất yếu của cuộc sống. Trên phương diện
tổng thể, định hướng phát triển một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc gắn liền với sự phát triển chung của xã hội, trong đó con người phải được
giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện
cá nhân đã được nhận thức và biểu hiện thành những biến đổi thực tế. Điều đó

đã diễn ra đồng thời với con đường kế thừa và phát huy những giá trị truyền
21
thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh
hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân
chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm
mĩ ngày càng cao; và thành tựu đổi mới cũng đã cho thấy đó là hệ quả của
việc kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và toàn xã hội, sự phát huy
dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Như vậy, sau 1975, trải qua thế kỉ XX bối cảnh lịch sử – xã hội Việt Nam
tuy có những thăng trầm nhất định, song sự hình thành và phát triển một đời
sống xã hội hiện đại đã ngày một hiện hình rõ nét. Tính hiện đại ấy, suy cho
cùng, được thể hiện ở hệ thống giá trị mới như một thang chuẩn tiến bộ cho
sự sống của con người.
1.1.2. Nhu cầu thay đổi hệ thống giá trị trong đời sống
Sự thay đổi toàn diện đời sống xã hội tất yếu dẫn đến sự đổi thay hệ thống
giá trị của đời sống. Trên thực tế bối cảnh lịch sử – xã hội Việt Nam từ sau
1975 cho đến những năm đầu thế kỉ XXI, sự đổi thay ấy là hệ quả của vận
động tất yếu trên nhiều phương diện.
Từ chiến tranh chuyển sang hoà bình, hệ giá trị của đời sống tất yếu
đổi thay. Nguyên Ngọc từng phát biểu: “Trong chiến tranh, mọi quan hệ xã
hội và con người dồn lại và thu hẹp vào một quan hệ duy nhất: sống – chết.
Người ta phải sống phi thường, phi thường có thể là cao cả, nhưng phi thường
cũng đồng thời là triệt tiêu đi bao nhiêu quan hệ bình thường mà vô cùng
phong phú và phức tạp của con người, đẩy tất cả các quan hệ ấy về phía sau.
(…) Ngọn lửa chiến tranh thiêu cháy cả những nhỏ nhen, nhiêu khê của cuộc
sống thường ngày… Hoà bình thì khác hẳn. Hoà bình tức là trở lại đối mặt
với cái bình thường hằng ngày, cái bình thường mà muôn thủa, tất cả những
nhiêu khê của cuộc sống bị che lấp trong chiến tranh bây giờ thức dậy, vây
22
quanh con người từng giờ ở khắp mọi nơi.”[217;169-170]. Nếu như trong

chiến tranh, các giá trị truyền thống thuần tuý kết tinh trong ý chí cộng đồng,
sức mạnh tập thể, giai cấp, lí tưởng… trở thành hạt nhân quy định mọi chuẩn
mực giá trị của đời sống thì bước sang thời bình, bên cạnh những giá trị đó
còn có giá trị sống của cá nhân, cá thể. Nếu như trong bối cảnh chiến tranh,
con người tìm thấy giá trị của mình trong giá trị xã hội thì trong hoà bình con
người có nhu cầu được cân bằng giữa giá trị xã hội với giá trị tự nhiên, bản
năng, vô thức. Giá trị đời sống trở nên cực kì đa dạng khi nhu cầu về sự sống
cá nhân nổi lên trong tương quan với vận mệnh của cộng đồng. Theo đó, hạnh
phúc cá nhân, nhu cầu vật chất, quyền được phát triển tự do, được khẳng định
tài năng, nhân cách cá nhân… trở thành những yếu tố quan trọng trong hệ giá
trị của đời sống.
Từ kinh tế tập trung, bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường, hệ giá
trị của đời sống tất yếu đổi thay. Kinh tế thị trường, với quy luật vận hành
của nó đã tác động đến toàn bộ đời sống xã hội. Tự do cạnh tranh, thương mại
hoá các lĩnh vực đời sống xã hội, hiệu quả kinh tế trở thành thước đo năng lực
con người... đều có những tác động tích cực và tiêu cực đến ý thức xã hội.
Trong tác động tích cực của nó, kinh tế thị trường khiến người ta buộc phải ý
thức cao hơn về chất lượng đích thực của cuộc sống, phải quan tâm đến
những nhu cầu, thị hiếu khác nhau của con người. Kinh tế thị trường cũng tạo
ra tính thực dụng trong quan niệm về giá trị đời sống. Tiền bạc len lỏi vào
mọi quan hệ xã hội. Tâm lí sòng phẳng, lạnh lùng xuất hiện phổ biến trong
quan hệ người với người. Sự phân hoá xã hội cũng trở nên mạnh mẽ hơn
trong sự phát triển của kinh tế thị trường. Sự hình thành các đô thị hiện đại,
nhu cầu sống thị dân hiện đại, trí thức hiện đại... được tích cực hoá trong xu
thế tất yếu của thương mại hoá. Và khi giá trị kinh tế trở thành tiêu chí thì an
sinh xã hội luôn có nguy cơ, sự phát triển bền vững được đặt ra. v.v... Có thể
23
nói, ở các mặt tích cực và tiêu cực, quy luật kinh tế thị trường đã tác động
mạnh đến sự hình thành hệ hình giá trị của đời sống. Mặt tích cực thì đã rõ,
nhưng với mặt tiêu cực, xã hội ngày càng cần đến những chuẩn mực đạo đức,

đạo lí truyền thống.
Từ quan hệ hầu như chỉ khép kín trong hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa đến chủ trương mở cửa, hội nhập toàn diện với thế giới, tất yếu
nảy sinh nhu cầu thay đổi hệ giá trị của đời sống. Đặc điểm đa dạng hoá
các loại hình giá trị được hình thành nhanh chóng và rõ nét chính ở sự tiếp
xúc, hội nhập ngày càng sâu sắc với thế giới của nền văn hoá Việt Nam. Sự
sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu không những đã
không khiến chúng ta lạc hướng mà còn đã tạo ra những chuyển biến quan
trọng trong thái độ đối với các giá trị văn hoá, tư tưởng phong phú của thế
giới, đặc biệt là phương Tây hiện đại. Đường lối phát triển kinh tế – xã hội,
đường lối ngoại giao đúng đắn trong bối cảnh quốc tế ngày càng tăng cường
hội nhập, liên kết đa chiều, đa phương được xác định đã tác động lớn đến sự
hình thành hệ hình giá trị mới trong đời sống. Sự mở mang đối sánh, sự du
nhập ngày càng phong phú các trào lưu tư tưởng triết học, mĩ học... đã giúp
cho trình độ ý thức xã hội không ngừng được nâng cao. Nhận thức về giá trị
của cuộc sống con người, cả trên phương diện cá nhân lẫn phương diện xã
hội, cả quá trình nhận thức lại quá khứ, truyền thống lẫn hiện tại, tương lai...
đã ngày càng thoát khỏi ý thức hệ giáo điều, lạc hậu để bồi đắp tiềm lực văn
hoá, bản lĩnh văn hoá theo hướng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tóm lại, bối cảnh lịch sử - xã hội mới từ sau 1975, nhất là từ 1986 đã tất yếu
tạo ra sự thay đổi hệ thống giá trị đời sống. Một hệ giá trị toàn diện, đa dạng đáp
ứng nhu cầu nhiều mặt của đời sống con người, phù hợp với sự phát triển hiện
đại của xã hội Việt Nam đã và tiếp tục được sinh thành. Đây là tiền đề thiết yếu
tạo ra sự thay đổi hệ thống giá trị thẩm mĩ trong văn học, sự đổi mới văn học.
24
1.2. Đổi mới Văn học – sự hình thành hệ thống giá trị thẩm mĩ mới
1.2.1. Vận động đổi mới
Văn học Việt Nam trong thế kỉ XX đã diễn ra 3 dấu mốc đổi mới lớn lao.
Đầu thế kỉ XX, văn học thoát khỏi phạm trù trung đại qua giai đoạn giao thời
1900 – 1930 và bước hẳn sang một nền văn học hiện đại, nhập vào dòng chảy

chung của văn học thế giới với những thành tựu mang tính cách mạng trong
giai đoạn 1930 – 1945. Cách mạng tháng Tám thành công (1945) mở ra một
giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc, văn học đã làm một cuộc “đổi đời” và bền
bỉ gắn với sứ mạng cổ vũ chiến đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong suốt 30
năm (1945 – 1975). Đại thắng mùa xuân 1975 đã chấm dứt một giai đoạn lịch
sử đau thương của dân tộc, để từ đây đất nước bước vào một chặng đường mới,
khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, từng bước phát triển theo quy luật
của đời sống hoà bình. Sau 1975, văn học đã làm một cuộc đổi mới trọng đại,
cái mốc 1986 đã trở thành một điểm khởi đầu mới chưa từng có cho một dòng
chảy sâu rộng cho đến hết thế kỉ XX và tiếp diễn đương đại sang đầu thế kỉ
XXI. Mỗi cuộc đổi mới như thế cũng đồng thời với sự thay đổi của hệ thống
giá trị thẩm mĩ.
Không tác rời dòng chảy chung văn học dân tộc, trong thế kỉ XX, cho đến
trước 1975, văn xuôi đã trải qua 2 cuộc đổi mới. Đầu thế kỉ XX, “khi nước ta
đã trở thành một bộ phận của thế giới hiện đại, khi thành thị Việt Nam đang tư
sản hoá, thì vấn đề đổi mới văn học, đưa văn học vào quỹ đạo chung của văn
học thế giới đã trở thành yêu cầu cấp bách”[292;207], văn xuôi đã thoát khỏi sử
truyện. Sự đổi mới diễn ra trong sự hình thành một đội ngũ nhà văn mới. Tư
tưởng văn học phương Tây du nhập vào đã dần thay thế các thể loại có tính
chức năng của văn học trung đại. Và mọi điều kiện văn hoá - xã hội đã hội tụ
đủ cho sự ra đời một quan niệm văn học mới. Văn học quốc ngữ phát triển gắn
25
với cuộc sống thành thị và công chúng thành thị. Văn học không còn nhằm
“trước thư lập ngôn”, thể hiện“tâm”, “chí”, “đạo”, di dưỡng tính tình và giáo
dục con cháu. Quan niệm mới này chỉ có thể có được khi viết văn được quan
niệm là một nghề, viết để sinh nhai. Trạng thái tâm lí đô thị “đòi hỏi ở văn học
đời sống bình thường, hàng ngày, rất “văn xuôi”. Nó không chỉ ảnh hưởng, tác
động, mà thực sự là bẻ lái cho cả nền văn học.”[292;210]. Sự đổi mới trong
nửa đầu thế kỉ XX cũng đã cho thấy một quá trình thế tục hoá, đại chúng hoá.
Đáng chú ý là cho đến trước những năm 30, ở những điểm khởi sự, trong văn

xuôi đã xuất hiện cái bi trong tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách và cái
hài trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Có thể xem đây là biểu hiện của hai
nhu cầu tinh thần cơ bản, chứng thực cho quy luật hài hoà trong vận động thẩm
mĩ hiện đại. Những điều kiện được hình thành trong giai đoạn giao thời đã tạo
ra một sự bùng phát - đỉnh điểm đổi mới mang tính cách mạng của văn học
Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám: Văn học hiện thực phê phán, Văn học
lãng mạn với Thơ mới và Tự lực văn đoàn. Thời kì Mặt trận Dân chủ (1936 –
1939) là một minh chứng điển hình cho sự chín muồi điều kiện đổi mới và vận
động tự thân của ý thức văn học. Riêng trong lĩnh vực văn xuôi, có thể nói đến
sự đa dạng mà ít nhất theo tiêu chí phương pháp sáng tác người ta đã khái quát
thành 2 khuynh hướng hiện thực phê phán và lãng mạn với những tên tuổi lớn
như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Thạch Lam,
Nguyên Hồng,… Quá trình hiện đại hoá văn học ở đầu thế kỉ XX cũng diễn ra
sự kế thừa các phạm trù thẩm mĩ truyền thống và sự xuất hiện các phạm trù
thẩm mĩ mới. Sự đa dạng của các phẩm chất thẩm mĩ trong văn xuôi đầu thế kỉ
XX đã đặt nền tảng cho sự phát triển đa dạng hoá thẩm mĩ về sau này.
Tính bước ngoặt của sự đổi mới văn học trong giai đoạn 1945 – 1975 đã
được các nhà nghiên cứu khẳng định. Nếu như văn học trước 1945 cho thấy sự
phong phú, đa dạng bắt nguồn từ sự giao tranh, khai mở của một quá trình sinh
26
thành phức tạp của tính hiện đại thì kể từ sau 1945 sự phong phú, đa dạng của
văn học trong bước đường đổi mới đã diễn ra từ sự kế thừa, phát huy những
tiền đề và cả những đỉnh cao phù hợp với quan hệ mới của văn nghệ đối với sự
nghiệp cách mạng của toàn dân tộc, trong tính bất thường của văn học thời
chiến. Sự phong phú, đa dạng của văn học 1945 – 1975 có cơ sở từ sự thay đổi
lớn trong quan niệm văn học mang tính đặc thù. Sự phát hiện ra con người
quần chúng đã “bẻ lái” vận động văn học theo khuynh hướng sử thi: “Đó
không chỉ là kỉ nguyên biến con người nô lệ thành con người tự do, làm chủ
vận mệnh mình, mà còn là thời đại biến con người nhỏ bé, rời rạc, yếu đuối
trong xã hội cũ thành con người của dân tộc, của đoàn thể, của sự nghiệp

chung.”, “Cách mạng đã mở ra một chân trời mới bao la cho con người tự vươn
lên khẳng định mình. Chỉ trong sự nghiệp chung đó, con người mới cảm thấy
hạnh phúc, tự do, có tầm quan trọng và có ý nghĩa. Người ta vào cách mạng
như đi trẩy hội. Cái chung lấn át cái riêng, đời sống chính trị lấn át đời sống
hằng ngày. Hay nói cách khác, đời sống chung được cảm nhận như là đời sống
riêng của mỗi người.”[348;225-226]. Văn học nói chung, văn xuôi nói riêng đã
tập trung thể hiện những giá trị thẩm mĩ theo quan niệm ấy. Vẻ đẹp cao cả, cái
anh hùng trở thành đặc trưng thẩm mĩ bao trùm toàn bộ văn học Việt Nam
1945 – 1975.
Khách quan mà nói rằng, không phải thiếu đi cái hài, cái bi như trong văn
học trước 1945 mà văn học cách mạng trở nên nghèo nàn. Hoàn toàn có thể
nói đến sự đa dạng của văn học sử thi. Có nhiều biểu hiện để chúng ta nhận
diện đặc điểm về khuynh hướng sử thi, lãng mạn, lí tưởng anh hùng cách
mạng trong văn xuôi. Chẳng hạn, có thể nói đến khuynh hướng phê phán như
một cách biểu hiện của cảm hứng ngợi ca trong văn xuôi từ sau 1945: phê
phán cách nhìn sai trái đối với quần chúng như Đôi mắt của Nam Cao; phê
phán những suy nghĩ lệch lạc đối với vai trò của quần chúng đến biểu dương
27
sự tỉnh ngộ như trong một số sáng tác của Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu,
Bùi Hiển, Phan Tứ, Nguyễn Kiên, Vũ Thị Thường... Thái độ ca ngợi quần
chúng cũng rất phong phú với những hình tượng đám đông sôi động, hào
hứng, đầy sức mạnh của công nhân, nông dân, bộ đội, dân công…: Xung kích
(Nguyễn Đình Thi), Vùng mỏ (Võ Huy Tâm), Con trâu (Nguyễn Văn Bổng),
Truyện và kí sự (Trần Đăng), Cửa biển (Nguyên Hồng), Vỡ bờ (Nguyễn Đình
Thi), Bão biển (Chu Văn), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu),… Hình
tượng nhân vật anh hùng rất phong phú trong Đất nước đứng lên (Nguyên
Ngọc), Hòn Đất (Anh Đức), Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi), Rừng xà nu
(Nguyễn Trung Thành)… Sự phong phú của văn xuôi cách mạng còn biểu
hiện ở những vận động qua việc phản ánh cuộc sống và con người ở những
vùng miền khác nhau: “văn học cách mạng đã làm giầu cho văn học dân tộc

bằng vô vàn vẻ đẹp hiện thực của đất nước và con người Việt Nam”[348;384];
ở những biến chuyển qua các chặng sáng tác khác nhau: “Từ quan niệm con
người quần chúng trong văn học thời chống Pháp, với những hình tượng tập
thể còn khá giản đơn, tuy sinh động và mới mẻ ở buổi đầu, đến thời kì chống
Mĩ nhận thức về nhân dân đã đạt tới chiều sâu mới và hình tượng nhân dân là
một thành công đáng kể.”, “văn học thời chống Mĩ đã sáng tạo những hình
tượng con người mang được dấu ấn, tầm vóc, tư tưởng và ý chí của thời đại
ấy. Con người sử thi trong văn học thời kì này với hai phương diện nổi bật là
chủ nghĩa anh hùng và vẻ đẹp tâm hồn, là một đóng góp của văn học vào việc
khám phá con người, đề cao sức mạnh và vẻ đẹp của con người Việt
Nam.”[216;43].
Tuy nhiên, không khó để chúng ta có thể nhận thấy một đặc điểm là: sự
phong phú của văn học 1945 – 1975 nói chung, văn xuôi nói riêng chủ yếu là
những sắc thái khác nhau của cái cao cả, chưa phải là sự đa dạng của các
phạm trù thẩm mĩ - đặc trưng tạo nên bản chất đổi mới trong văn xuôi Việt
28
Nam sau 1975.
Cuộc đổi mới chưa thực sự vượt ngưỡng ở khoảng mươi năm đầu sau
tháng 4/1975. Chặng đường này thường được định tính là “thập kỉ chuyển
mình”, “trượt theo quán tính cũ”, “khoảng chân không trong văn học”, “thời
gian khởi động”, “quán tính của văn học thời chiến”, “một giai đoạn văn học
mang tính giao thời”… “Hậu chiến”, một khái niệm cay nghiệt của lịch sử
thường rõ ràng ở điểm bắt đầu và lờ đi cái điểm kết thúc, khó lòng trở thành
một định tính giá trị của đổi mới. Những Vùng trời của Hữu Mai, Những tầm
cao của Hồ Phương, Dòng sông phẳng lặng của Tô Nhuận Vĩ,… Miền cháy,
của Nguyễn Minh Châu, Năm 75 họ đã sống như thế của Nguyễn Trí Huân,
Cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy,… cho thấy về cơ bản, trong mươi năm
đầu sau 1975, văn xuôi vẫn chưa ra khỏi “cái vòng kim cô” của thẩm mĩ văn
học 1945 - 1975. Tất nhiên, có những dấu hiệu thẩm mĩ mới đã rõ hơn trong
Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Những khoảng cách còn lại, Đứng trước

biển, Cù Lao Tràm (Nguyễn Mạnh Tuấn), Những người đi từ trong rừng ra
(Nguyễn Minh Châu)… Đến đầu những năm 80 với Bến quê của Nguyễn
Minh Châu, Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Thời xa vắng của Lê
Lựu thì ý thức đổi mới đã chủ động rõ rệt. Chính những tác phẩm này đã
khiến cái mốc 1986 trở nên tương đối, nếu muốn xem đó là thời điểm thực sự
của cuộc đổi mới trọng đại trong văn xuôi. Nguyễn Khải với Cha và con và... ,
Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người đã nghiêng hẳn sang khuynh hướng
thế sự, tự vấn: “Đọc lại những trang viết của tôi một thời mà tiếc cho những
năm tháng đã sống vất vả, sống nguy hiểm, sống hào hùng rút lại chỉ còn là
những bài báo nhạt nhẽo, không có một chi tiết nào là thật, không có một
khung cảnh nào day dứt, gợi nhớ, không có một gương mặt nào cám dỗ, ám
ảnh (…) Nhà văn biết sống với thời cuộc nhưng còn phải biết tách ra khỏi
thời cuộc để nhận ra cái sẽ còn lấp lánh lâu dài của nhiều tình tiết trong thời
29

×