Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

tri an khoi 9 địa lý 6 hoàng quanh thiều thư viện tư liệu giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.39 KB, 99 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Câu chuyện con nhện và phật Quan Âm.</b>



Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vơ số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu
có con nhện chăng tơ, mỗi ngày đều ngập trong khói hương và những lời cầu đảo, nhện dần có Phật tính. Trải nghìn năm tu
luyện, nhện đã linh.


Một ngày, bỗng Phật dạo đến ngôi miếu nọ, thấy khói hương rất vượng, hài lịng lắm. Lúc rời miếu, ngài vơ tình ngẩng đầu
lên, nhìn thấy nhện trên xà.


Phật dừng lại, hỏi nhện: “Ta gặp ngươi hẳn là có duyên, ta hỏi ngươi một câu, xem ngươi tu luyện một nghìn năm nay có
thật thông tuệ chăng. Được không?”


Nhện gặp được Phật rất mừng rỡ, vội vàng đồng ý. Phật hỏi: “Thế gian cái gì quý giá nhất?”


Nhện suy ngẫm, rồi đáp: “Thế gian q nhất là những gì khơng có được và những gì đã mất đi!”. Phật gật đầu, đi khỏi.
Lại một nghìn năm nữa trơi qua, nhện vẫn tu luyện trên thanh xà trước miếu Quan Âm, Phật tính của nhện đã mạnh hơn.
Một ngày, Phật đến trước miếu, hỏi nhện: “Ngươi có nhớ câu hỏi một nghìn năm trước của ta khơng, giờ ngươi đã hiểu nó
sâu sắc hơn chăng?”


Nhện nói: “Con cảm thấy trong nhân gian quý nhất vẫn là “khơng có được” và “đã mất đi” ạ!”
Phật bảo: “Ngươi cứ nghĩ nữa đi, ta sẽ lại tìm ngươi.”


Một nghìn năm nữa lại qua, có một hơm, nổi gió lớn, gió cuốn một hạt sương đọng lên lưới nhện. Nhện nhìn giọt sương,
thấy nó long lanh trong suốt sáng lấp lánh, đẹp đẽ quá, nhện có ý u thích. Ngày này nhìn thấy giọt sương nhện cũng vui,
nó thấy là ngày vui sướng nhất trong suốt ba nghìn năm qua. Bỗng dưng, gió lớn lại nổi, cuốn giọt sương đi. Nhện giây khắc
thấy mất mát, thấy cô đơn, thấy đớn đau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Nhện nghĩ tới giọt sương, đáp với Phật: “Thế gian này cái quý giá nhất chính là cái khơng có được và cái đã mất đi.”
Phật nói: “Tốt, nếu ngươi đã nhận thức như thế, ta cho ngươi một lần vào sống cõi người nhé!”


Và thế, nhện đầu thai vào một nhà quan lại, thành tiểu thư đài các, bố mẹ đặt tên cho nàng là Châu Nhi. Thoáng chốc Châu


Nhi đã mười sáu, thành thiếu nữ xinh đẹp yểu điệu, duyên dáng. Hơm đó, tân Trạng Ngun Cam Lộc đỗ đầu khoa, nhà vua
quyết định mở tiệc mừng sau vườn ngự uyển.


Rất nhiều người đẹp tới yến tiệc, trong đó có Châu Nhi và Trường Phong cơng chúa. Trạng Ngun trổ tài thi ca trên tiệc,
nhiều tài nghệ khiến mọi thiếu nữ trong bữa tiệc đều phải lòng. Nhưng Châu Nhi không hề lo âu cũng không ghen, bởi nàng
biết, chàng là mối nhân duyên mà Phật đã đưa tới dành cho nàng.


Qua vài ngày, tình cờ Châu Nhi theo mẹ lên miếu lễ Phật, cũng lúc Cam Lộc đưa mẹ tới miếu. Sau khi lễ Phật, hai vị mẫu
thân ngồi nói chuyện. Châu Nhi và Cam Lộc thì tới hành lang tâm sự, Châu Nhi vui lắm, cuối cùng nàng đã có thể ở bên
người nàng yêu, nhưng Cam Lộc dường như quá khách sáo.


Châu Nhi nói với Cam Lộc: “Chàng cịn nhớ việc mười sáu năm trước, của con nhện trên xà miếu Quan Âm chăng?”


Cam Lộc kinh ngạc, hỏi: “Châu Nhi cô nương, cơ thật xinh đẹp, ai cũng hâm mộ, nên trí tưởng tượng của cơ cũng hơi q
nhiều chăng?”. Nói đoạn, chàng cùng mẹ chàng đi khỏi đó.


Châu Nhi về nhà, nghĩ, Phật đã an bài mối nhân duyên này, vì sao khơng để cho chàng nhớ ra chuyện cũ, Cam Lộc vì sao lại
khơng hề có cảm tình với ta? Vài ngày sau, vua có chiếu ban cho Trạng Nguyên Cam Lộc sánh duyên cùng công chúa


Trường Phong, Châu Nhi được sánh duyên với thái tử Chi Thụ. Tin như sấm động giữa trời quang, nàng không hiểu vì sao
Phật tàn nhẫn với nàng thế.


Châu Nhi bỏ ăn uống, nằm khô nhắm mắt nghĩ ngợi đau đớn, vài ngày sau linh hồn nàng sắp thoát khỏi thân xác, sinh mệnh
thoi thóp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Và giây khắc ấy Phật xuất hiện, Phật nói với linh hồn sắp lìa thể xác Châu Nhi: “Nhện, ngươi đã từng nghĩ ra, giọt sương
(Cam Lộc) là do ai mang đến bên ngươi chăng? Là gió (Trường Phong) mang tới đấy, rồi gió lại mang nó đi. Cam Lộc thuộc
về cơng chúa Trường Phong, anh ta chỉ là một khúc nhạc thêm ngắn ngủi vào sinh mệnh ngươi mà thơi.


Cịn thái tử Chi Thụ chính là cái cây nhỏ trước cửa miếu Quan Âm đó, anh ta đã ngắm ngươi ba nghìn năm, yêu ngươi ba


nghìn năm, nhưng ngươi chưa hề cúi xuống nhìn anh ta. Nhện, ta lại đến hỏi ngươi, thế gian này cái gì là quý giá nhất?”
Nhện nghe ra sự thật, chợt tỉnh ngộ, nàng nói với Phật: “Thế gian này cái quý nhất không phải là thứ khơng có được và đã
mất đi, mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ!”


Vừa nói xong, Phật đã đi mất, linh hồn Châu Nhi quay lại thân xác, mở mắt ra, thấy thái tử Chi Thụ định tự sát, nàng vội đỡ
lấy thanh kiếm…


Câu chuyện đến đây là hết, bạn có hiểu câu cuối cùng mà nàng Châu Nhi nói khơng?


“Thế gian này cái q nhất khơng phải là thứ khơng có được và đã mất đi, mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ!”
Trong suốt đời ta, sẽ gặp hàng nghìn hàng vạn loại người.


Để u một người thì khơng cần cố gắng, chỉ cần có “duyên” là đủ.
Nhưng để tiếp tục yêu một người thì phải cố gắng.


Tình yêu như sợi dây, hai người cùng kéo hai đầu, chỉ cần một người kéo căng hoặc bỏ lơi, tình yêu ấy sẽ căng thẳng hoặc
chùng xuống.


Vậy khi bạn đi kiếm người ở đầu kia dây, hãy cân nhắc. Hoặc bạn có quá nhiều sợi dây tình cảm, hoặc bạn cứ liên tục tìm
cái mới, hoặc khi dây đã đứt, bạn khơng cịn can đảm hay lịng tin, tình u để đi tìm một tình u mới nữa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Bởi bạn cịn cơ hội, một lần nữa, gặp người biết rằng bạn quý giá.


Có muốn nghe tơi kể câu chuyện ấy lần nữa không, ngày xưa, trước miếu Quan Âm…


<i>Trên đây là một câu truyện mà tác giả đã ứng dụng một trong những nguyên lý cơ bản của Phật giáo để gửi đến đọc giả </i>
<i>một thông điệp một thái độ sống. Vậy Phật giáo là gì và nó chứa đựng những chân lý nào có thiết thực cho đời sống của con</i>
<i>người chúng ta không? Nếu bạn cảm thấy câu truyện vừa rồi là hay có ích cho bạn thì hãy đừng bỏ qua cơ hội đọc tập sách </i>
<i>nhỏ này, tơi hi vọng sau khi đọc nó ban sẽ tự tìm được cho mình một câu trả lời cho cuộc sống của bạn. </i>



<i>Thay cho lời lựa cuốn sách này tôi đã kể lại cho bạn nghe một câu truyện mà tơi đã nghe bởi vì tất cả nội dung trong cuốn </i>
<i>sách này không phải là do tôi sáng tác mà chỉ là tôi bỏ công đi sư tầm lại để mọi người cùng đọc mà thôi. Chúc các bạn có </i>
<i>nhiều niềm vui và nhiều điều an lạc trong cuộc sống</i>


<i>Các tài liệu đã sử dụng là của các trang (thuvienhoasen,nhasachquangduc,thuvienthuongchieu và nhiều trang web khác)</i>
<i><b>Chắc nhiều bạn ln tự hỏi đạo phật là gì? Nhiều người chợt nghĩ tới mấy ông sư ở trong chùa gõ mõ hoặc ơm cái</b></i>
<i><b>bình đi lang thang ngồi đường. Đạo phật có phải chỉ là như vậy khơng?</b></i>


<b>Chương I: Đạo Phật Là Gì?</b>



Khi bạn tìm hiểu về đạo Phật tức là bạn đang tìm hiểu về con người thật của mình, về bản chất của tâm trí chính bạn.
Thay vì đề cao một thực thể cao cả siêu nhiên nào đó, Phật giáo chủ trương tập trung vào những vấn đề thực tiễn của con
người, cách hướng dẫn cuộc sống, cách điều hòa thân tâm và tạo một đời sống an bình hạnh phúc cho con người. Nói cách
khác, Phật giáo luôn nhấn mạnh những vấn đề mang tính thực nghiệm và khả thi trong hiện tại hơn là những quan điểm
mang tính luận lý, xa rời thực tế. Thật ra, chúng ta cũng không nên xem Phật giáo như là một tôn giáo mang nặng màu sắc
tín ngưỡng theo cách hiểu của phương Tây. Giáo lý đạo Phật vừa sâu sắc vừa thực tế vượt hẳn những ngành khoa học, triết
học hay tâm lý học thế tục.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Sự phát triển đơn thuần của khoa học kỹ thuật không thể làm thỏa mãn dục vọng của con người hay giải quyết được
mọi vấn đề của cuộc sống. Giáo lý đạo Phật giúp bạn nhận ra khả năng giải thoát mọi khổ đau vốn sẳn có nơi tự tâm của mỗi
người. Bạn học hiểu đạo Phật là bạn học hiểu chính thân tâm bạn để rồi tự bạn giải quyết mọi vấn đề khúc mắc trong cuộc
sống tình cảm và xã hội phức tạp hàng ngày của chính bạn. Dù bạn là người có thiên hướng tơn giáo hay thiên hướng chủ
nghĩa vật chất thì điều quan trọng là bạn phải nên tìm hiểu tâm lý bạn vận hành như thế nào. Căn nguyên của mọi khổ đau
cũng phát xuất từ chính nội tâm bạn. Nếu bạn khơng nhận thức được điều này thì khi một số điều nhỏ nhặt trong cuộc sống
thay đổi, bạn sẽ cảm thấy bối rối và thậm chí dẫn đến khổ đau. Do bị dấn sâu vào thế giới của cảm giác, bạn không nhận
chân được nguyên nhân sâu xa của mọi khổ não của cuộc đời chính là tính tham ái của tự tâm bạn.


Dù bạn có thể phản đối những gì tơi đang nói hay bạn có thể nói với tơi rằng, bạn khơng tin những điều tơi nói thì sự
thật vẫn là sự thật. Ở phương Tây, có rất nhiều người tun bố "tơi khơng phải là một tín đồ của bất kỳ giáo phái nào". Họ
rất hãnh diện là họ không đặt niềm tin ở bất kỳ điều gì khác ngồi lý trí của bản thân mình. Tuy nhiên, đây khơng phải là vấn


đề của niềm tin mà là vấn đề thực tế của cuộc sống. Dù muốn hay khơng muốn thì đơi khi bạn cũng bị dẫn dắt bởi lịng tham
dục của chính bạn hay bạn khơng thể tự làm chủ được mình. Chẳng hạn, ý định đầu tiên của con người khi chế tạo xe hơi và
máy bay là để con người có được nhiều thời gian hơn để ngơi nghỉ. Thế nhưng, ngược lại con người trong xã hội hiện đại
ngày càng bị cuốn hút vào cuộc sống tất bật, xơ bồ, ít có thời gian ngơi nghỉ. Vì tham vọng, con người bị dính vào thế giới
hưởng thụ bị động của chính sự sáng tạo của họ. Con người càng ngày càng giới hạn không gian và thời gian để sống và tìm
hiểu thế giới nội tâm của mình. Đây là một vấn đề lớn của xã hội hiện đại. Bạn ít khi tìm thấy sự thỏa mãn hay thanh thản
trong cuộc sống hàng ngày. Sự thật thì niềm tin và sự an bình đến từ nội tâm bạn chứ không phải đến từ sự vật bên ngồi.
Tuy vậy, cũng có một số người thông minh và họ nhận thức được rằng vật chất khơng đảm bảo hồn hảo một đời sống hạnh
phúc thật sự, và họ đã đi tìm kiếm niềm vui tinh thần trong thế giới nghệ thuật hay ở hình thức tôn giáo.


Một điều mà bạn nên để ý là, khi đức Phật nói về khổ đau, Ngài khơng chỉ đơn giản nói về những hiện tượng đau khổ
bên ngồi như bệnh tật hay những tình huống khó khăn của cuộc sống; mà Ngài còn hàm ý rằng, tính tham dục khơng cùng
của tâm cũng chính là khổ đau. Dù bạn sở hữu bao nhiêu, dù bạn thành đạt đến đâu đi nữa, bạn cũng không bao giờ cảm
thấy thỏa mãn. Chính tham vọng đã đưa đẩy con người đi đến sự không từ bất cứ hành động nào để đạt mục đích như mong
muốn, và cũng chính điều này đã đưa đẩy đến sai lầm và đau khổ trong cuộc sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

tâm của bạn để nhận rõ từng tâm lý một, ngăn ngừa sự phát khởi và tăng trưởng của chúng. Nếu bạn khơng hiểu rõ tâm trí
bạn thì bạn ln bị dẫn dắt bởi những tâm lý vị kỷ đầy tham sân si để rồi đi đến hành động thiếu sáng suốt, và đây chính lằ
điều khiến bạn ln cảm thấy bất an.


Hàng ngày, chúng ta hầu như thường hành động một cách thiếu ý thức. Chúng ta ăn nhưng khơng biết mình đang ăn,
chúng ta uống mà khơng biết mình đang uống... Hãy thử nghiệm bằng cách ý thức rõ những tâm lý, tình cảm, hành động và
lời nói hàng ngày của bạn, bạn sẽ giảm thiểu được rất nhiều khổ đau cho chính bạn và cho mọi người xung quanh. Tôi


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i><b>Khi bạn đã tìm hiểu về đạo phật rồi thì việc cần phải biết giáo chủ của tôn giáo này là ai? Đây là nhận xét của những </b></i>
<i><b>nhà khoa học danh tiếng trên thế giới về Đức Phật lịch sử</b></i>


<b>Chương II Đức Phật Trong Cái Nhìn Của Các Nhà Khoa Học</b>






<b>"Tơn giáo của tương lai sẽ là một tơn giáo tồn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy </b>
<b>phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm </b>
<b>tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó". </b>
<b>(Albert Einstein) </b>


1. Nhân cách vĩ đại của Ðức Phật.


Ðức Phật là hiện thân của tất cả các đức hạnh mà Ngài thuyết giảng. Trong thành quả của suốt 45 năm dài hoằng pháp, Ngài
đã chuyển tất cả những lời nói của Ngài thành hành động; không nơi nào Ngài buông thả cái yếu đuối của con người hay dục
vọng thấp hèn. Luân lý, đạo đức căn bản của Đức Phật là toàn hảo nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến. [Giáo sư Max
<b>Miller, Học giả người Ðức]</b>


Không một lời thô bạo nào được thấy thốt ra từ nơi Đức Phật trong cơn tức giận, chưa từng có một lời thơ bạo được thấy
trên môi Đức Phật kể cả trong lúc tình cờ. [- Tiến Sĩ S. Radhakrishnan]


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Các bạn thấy rõ Ngài là một nhân vật đơn giản, chân thành, đơn độc, một mình tự lực phấn đấu cho ánh sáng, một nhân vật
sống chứ không phải là thần kỳ, tơi cảm thấy có một Người, đó là Ngài. Ngài đã gửi bức thơng điệp cho nhân loại hồn vũ.
Có nhiều tư tưởng tuyệt diệu hiện đại của chúng ta rất gần gũi tương đồng với thông điệp của Ngài, tất cả những đau khổ,
bất mãn trong cuộc sống, theo Ngài dạy: là do lịng ích kỷ. Lịng ích kỷ có ba dạng: Một là tham vọng thỏa mãn cảm giác;
-Hai là tham vọng muốn bất tử; - Ba là tham vọng thành cơng và trần tục. Con người trước khi có thể trở nên thanh tịnh,
người đó phải ngưng sống theo giác quan hoặc cho riêng chính mình. Rồi con người đó mới trở thành một bậc đại nhân. Ðức
Phật, qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, năm trăm năm trước Chúa Christ, đã dạy con người đức tính vị tha. Trong một số chiều
hướng Ngài rất gần gũi với chúng ta hơn, và đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Ðức Phật cũng tỏ ra sáng suốt hơn Chúa
Christ trong sự quan tâm phục vụ con người và ít mơ hồ đối với vấn đề trường tồn bất tử của kiếp nhân sinh. [- H.G. Wells]
Tôi càng ngày càng cảm thấy đức Thích Ca Mâu Ni gần gũi nhất trong tính cách và ảnh hưởng của Ngài, Ngài là Ðường lối,
là Chân lý và là Lẽ sống. [- Giám mục Milman]


<b>2. Trí tuệ siêu việt của Đức Phật.</b>



Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, Đức Phật tun bố sự giải thốt, mỗi con người có thể đạt được do chính bản thân mình
trong đời sống của mình trên thế giới mà khơng cần đến sự giúp đỡ của Thượng đế hay thánh thần nào. Ngài nhấn mạnh về
giáo lý như lòng tự tin, thanh tịnh, nhã nhặn, giác ngộ, an lạc và lòng thương yêu nhân loại. Ngài cũng nhấn mạnh đến sự
cần thiết của kiến thức, vì khơng có trí tuệ thì siêu linh nội tâm không xâm nhập trong đời sống của Ngài được. [- Giáo Sư
<b>Eliot, "Phật giáo và Ấn Ðộ giáo"]</b>


Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả
kiến thức của các "Thần linh và Người". Kiến thức của Ngài rất rõ ràng và độc lập không liên can gì đến thần thoại và hoang
đường. Tuy nhiên, nơi đây lại cịn cho thấy một hình thức vững vàng, tự nó biểu lộ được một cách rõ ràng và hiển nhiên để
cho con người có thể theo Ngài. Vì lý do đó, Đức Phật khơng địi hỏi phải tin nhưng hứa hẹn kiến thức. [- George Grimm,
<b>"Giáo Lý của Đức Phật"]</b>


Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Đức Phật khuyến dụ, khẩn cầu và kêu gọi con người không nên làm hại một sanh
mạng, không nên dâng lời cầu nguyện, lời ca tụng, hay hy sinh (sanh mạng) cho các Thần linh. Với tất cả tài hùng biện trong
sự thuyết giảng của Ngài, đấng Vô Thượng Sư có lần hùng hồn tuyên bố là Thần linh, nói cho đúng, cũng cần đến sự giải
thốt cho chính họ. [Giáo Sư Rhys Dadis]


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

lịng xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi những lời Ngài dạy, trỗi dậy bởi ánh sáng trí tuệ của chính mình. [- Tiến Sĩ Oldenburg,
<b>Một học giả Ðức]</b>


Dường như người thanh niên bất diệt, hiền lành, ngồi khoanh chân trên hoa sen thanh tịnh với bàn tay phải dơ lên như
khuyên nhủ như trả lời: "Nếu con muốn thoát khỏi sự đau khổ và sợ hãi, con hãy luyện tập trí tuệ và từ bi". [Anatole
<b>France]</b>


Sự khác biệt giữa Đức Phật và một người bình thường giống như sự khác biệt giữa một người bình thường và một người mất
trí. [- Một Văn Hào]


Nếu chúng ta hỏi, chẳng hạn, có phải vị trí một hạt nhân điện tử lúc nào cũng giữ nguyên không thay đổi, chúng ta phải trả
lời "khơng"; nếu chúng ta hỏi có phải vị trí của một hạt nhân điện tử thay đổi theo thời gian, chúng ta phải trả lời "không";
nếu chúng ta hỏi có phải hạt nhân đó đang di động, chúng ta phải trả lời "không". Ðức Phật cũng đã giải đáp như vậy khi có


người hỏi tình trạng bản ngã của con người sau khi chết; nhưng những câu trả lời như trên không phải là những câu trả lời
quen thuộc theo truyền thống khoa học ở thế kỷ 17 và 18. [J.Robert Oppenheimer]


Nếu một vấn đề nào đó cần được đề ra, vấn đề đó phải được giải quyết trong hài hòa và dân chủ theo đường lối dạy bảo của
Đức Phật. [- Tổng thống Nehru]


<b>3. Cống hiến của Đức Phật với nhân loại</b>


Trong thế giới giông tố và xung đột, hận thù và bạo lực, thơng điệp của Đức Phật sáng chói như vầng thái dương rực rỡ. Có
lẽ khơng bao giờ thông điệp của Ngài lại thiết yếu hơn như trong thời đại của thế giới bom nguyên tử, khinh khí ngày nay.
Hai ngàn năm trăm năm qua đã tăng thêm sanh khí và chân lý của thơng điệp này. Chúng ta hãy nhớ lại bức thông điệp bất
diệt này và hãy cố gắng thi triển tư tưởng và hành động của chúng ta trong ánh sáng giáo lý của Ngài. Có thể chúng ta phải
bình thản đương đầu cả đến với những khủng khiếp của thời đại ngun tử và góp phần nhỏ trong việc khuyến khích nghĩ
đúng (Chánh tư duy) và hành động đúng (Chánh nghiệp). [Tổng thống Nehru]


Trên quả địa cầu này, Ngài đem ý nghĩa những chân lý giá trị trường cửu và thúc đẩy đạo đức tiến bộ không chỉ cho riêng
Ấn độ mà cho cả nhân loại. Ðức Phật là một nhà đạo đức vĩ đại kỳ tài chưa từng thấy có trên hồn vũ. [Albert Schweizer,
<b>một nhà lãnh đạo triết học Tây Phương]</b>


Sự thanh tịnh của tâm linh và lòng thương yêu tất cả sinh vật đã được dạy dỗ bởi Đức Phật. Ngài khơng nói đến tội lỗi mà
chỉ nói đến vơ minh và điên cuồng có thể chữa khỏi bởi giác ngộ và lịng thiện cảm. [- Tiến Sĩ Radhakrisnan, "Ðức Phật
<b>Cồ Ðàm"]</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Khi chúng ta đọc những bài thuyết giảng của Đức Phật, chúng ta cảm kích bởi tinh thần hợp lý của Ngài. Con đường đạo
đức của Ngài ngay trong quan điểm đầu tiên là một quan điểm thuần lý. Ngài cố gắng quét sạch tất cả những màng nhện
giăng mắc làm ảnh hưởng đến cái nhìn và định mệnh của nhân loại. [Tiến Sĩ S.Radhakrisnan, "Ðức Phật Cồ Ðàm"]
Ðức Phật là người cha nhìn thấy đàn con đang vui chơi trong ngọn lửa thế tục nguy hiểm, Ngài dùng mọi phương tiện để
cứu các con ra khỏi ngôi nhà lửa và hướng dẫn chúng đến nơi an lạc của Niết bàn. [- Giáo sư Lakshimi Narasu, "Tinh
<b>Hoa Của Phật giáo"]</b>



<b>4. Giáo pháp của Đức Phật</b>


Ðọc một chút về Phật giáo là đã biết rằng hai ngàn năm trăm trước đây, người Phật tử đã hiểu rõ xa hơn và đã được thừa
nhận về những vấn đề tâm lý hiện đại của chúng ta. Họ đã nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và đã tìm thấy câu trả lời.
<b>[-Tiến Sĩ Graham Howe]</b>


Phật giáo chưa bao giờ ép ai theo dù dưới hình thức nào - hoặc ép buộc ý tưởng và niềm tin đối với người khơng thích, hoặc
bằng bất cứ một sự tâng bốc nào, bằng lừa gạt hay ve vãn, hầu đoạt được thắng lợi để gia nhập vào quan điểm riêng tư của
mình. Những nhà truyền giáo của đạo Phật không bao giờ thi đua để dành người quy nạp vào Ðạo như nơi chợ búa. [- Tiến
<b>sĩ G. P. Malasekara]</b>


Chỉ nói về Phật giáo thơi, ta có thể xác nhận là tơn giáo này thốt khỏi tất cả cuồng tín. Phật giáo nhằm tạo trong mỗi cá
nhân một sự chuyển hóa nội tâm bằng cách tự chiến thắng lấy mình. Nhờ đến sức mạnh và tiền bạc hay cả đến sự chinh phục
để tác động mọi người vào đạo thì sao? Ðức Phật chỉ rõ một con đường giải thoát duy nhất để cho cá nhân tự quyết định nếu
muốn theo tôn giáo này.. [- Giáo Sư Lakshmi Nasaru, "Tinh Hoa của Phật giáo"]


Không thể cho rằng Phật giáo bị suy yếu, ngay hiện tại, vì Phật giáo bắt nguồn trên những nguyên tắc cố định chưa bao giờ
bị sửa đổi. [- Gertrude Garatt]


Mặc dù người ta có thể được thu hút từ ngun thủy bởi sự khống đạt của tơn giáo này nhưng người ta chỉ có thể tán dương
giá trị thực sự của Phật giáo khi người ta phán xét kết quả tạo ra của tôn giáo này thông qua đời sống của chính mình từ ngày
này qua ngày khác. [- Tiến Sĩ Edward Conze, Một học Giả Phật giáo Tây Phương]


Phật giáo là một tơn giáo tự giác, ít lễ nghi. Một hành động được thực thi với chính sự suy tư thì tự nó đã điều kiện hóa để
khơng cịn là một nghi lễ. Phật giáo nhìn bề ngồi có vẻ nhiều nghi lễ nhưng thực ra khơng phải như vậy. [- Tiến sĩ


<b>W.F.Jayasuriya, "Tâm lý và Triết lý Phật giáo"]</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Trên những giải đất mênh mông của thế giới, vận mệnh nhân loại vẫn cịn tồn tại. Rất có thể trong sự tiếp xúc với khoa học
Tây phương và cảm hứng bởi tinh thần lịch sử, giáo lý căn bản của Ðức Cồ Ðàm được phục hưng và thuần khiết, có thể


chiếm một vị trí phần lớn trong hướng đi của vận mệnh nhân loại. [- H.G.Well]


Lý thuyết của Phật pháp vẫn đứng vững ngày nay không bị ảnh hưởng bởi tiến trình của thời gian và sự tăng trưởng kiến
thức, vẫn giữ nguyên như lúc ban đầu bầy tỏ. Dù cho kiến thức khoa học tăng tiến đến thế nào trên chân trời trí óc của con
người, trong phạm vi Giáo pháp (Dhamma) cũng vẫn có chỗ để thừa nhận và đồng hóa các khám phá xa hơn nữa. Về


phương diện thu hút của lý thuyết nầy không dựa vào các khái niệm giới hạn của các tư tưởng sơ khai, về phương diện khả
năng cũng không bị lệ thuộc vào những phủ định của tư tưởng. [- Francis Story, "Phật giáo, Một Tôn Giáo Thế Giới"]
Phật giáo là một phương thức làm sao để đạt được lợi lạc cao nhất từ cuộc sống. Phật giáo là một tơn giáo của trí tuệ mà ở
đấy kiến thức và thông minh chiếm ưu thế. Ðức Phật không thuyết giảng để thâu nạp tín đồ mà là để soi sáng người nghe. [-
<b>Một Văn Hào Tây Phương"]</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<b>Chương III Lịch sử Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni</b>


(từ Thành đạo đến nhập Niết bàn)


<b>Gia Tuệ</b>


<b>A- Dẫn nhập</b>


Ðức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lịng từ vơ hạn mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật
chất để cầu đạo giải thoát. Và cũng với đại tâm đại nguyện ấy, sau khi chứng được đạo quả Vô thượng Bồ đề, Ngài đã dâng
hết thời gian cho cơng cuộc hoằng hóa độ sanh. Ðức Thế Tơn đã chu du khắp đất nước Ấn Ðộ thời xa xưa ấy, từ cực Bắc
dưới chân núi Himalaya (núi Hy Mã Lạp) đến cực Nam bên ven sông Gange (sông Hằng).


<b>B- Nội dung</b>


Ðức Thế Tôn đã dành những tuần lễ đầu tiên để chiêm nghiệm đến giáo pháp thậm thâm vi diệu mà Ngài đã chứng đắc, và
thọ hưởng pháp lạc mà quả phúc giải thoát mang đến. Pháp Cú kinh số 153, 154 đã ghi lại một trong những Phật ngôn đầu
tiên mà Ngài đã thốt lên trong thời gian này:



<i>Lang thang bao kiếp sống</i>
<i>a tìm nhưng khơng gặp</i>
<i>Người xây dựng nhà này</i>


<i>Khổ thay, phải tái sanh</i>
<i>Ơi! Người làm nhà kia</i>


<i>Nay ta đã thấy ngươi</i>
<i>Ngươi không làm nhà nữa</i>


<i>Ðòn tay ngươi bị gãy</i>
<i>Kèo cột ngươi bị tan</i>
<i>Tâm ta được tịch diệt</i>
<i>Tham ái thảy tiêu vong.</i>


<i> (Bản dịch của HT Thích Minh Châu)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Ðức Phật cũng đã để lại cho thế gian một bài học luân lý đạo đức đẹp đẽ, đó là sự tỏ lịng tri ân sâu xa đối với cây bồ đề che
nắng che mưa cho Ngài trong suốt thời gian tầm đạo. Ðức Thế Tôn đã đứng cách một khoảng xa để chiêm bái đại thọ suốt
trong một tuần. Sau này, nơi đây Vua Asoka (A Dục) dựng lên một tháp kỷ niệm gọi là Animisalocana Cetiya, nay vẫn cịn.
Ðức Thế Tơn đã suy nghĩ đến giáo lý giải thốt sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh cao thượng, siêu lý luận, ly dục, vơ
ngã mà Ngài đã chứng đắc; cịn chúng sanh thì ln chìm sâu vào ái dục, định kiến, chấp ngã, với nhiều thủ trước... làm thế
nào để con người dễ dàng chấp nhận giáo lý ấy. Và rồi, với trí tuệ của bậc giác ngộ, Ðức Thế Tơn đã quan sát thế gian và
thấy rằng: "Có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời; có hạng độn căn, lợi căn; có hạng thiện tánh, ác tánh;
có hạng dễ giáo hóa, khó giáo hóa... Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, sanh ra dưới nước, lớn lên dưới
nước, không vươn lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước; có loại sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên
khỏi mặt nước, không bị nước thấm ướt..." (Trung Bộ I). Và như vậy, với hình ảnh những cành sen vươn ra khỏi mặt nước,
những cành ở lưng chừng, những cành ở sâu trong lòng nước v.v..., đã gợi lên trong Thế Tôn về căn cơ bất đồng của mọi
người. Có những căn cơ thấp như cánh sen ở đáy hồ, có những căn cơ trung bình như những cánh sen ở lưng chừng nước,
cũng có những căn cơ cao có thể tiếp thu trọn vẹn giáo pháp của Ngài như những cành sen đã nhô ra khỏi mặt nước.



Dù sống trong nghiệp quả bất đồng, mỗi chúng sanh đều có hạt giống giác ngộ, như hoa sen dù sống trong bùn tanh hôi, vẫn
tỏa hương thơm ngát.


Với ba lần thỉnh cầu và phát khởi thiện nguyện hộ trì giáo pháp của Phạm Thiên, Ðức Thế Tơn quyết định gióng lên tiếng
trống pháp và bắt đầu thực hiện sứ mạng của mình. Ngài tuyên bố với thế gian, với loài người, với cõi trời và với tất cả, con
đường đạo cứu khổ và diệt khổ, con đường dẫn tới cõi bất sanh bất diệt, cõi Niết bàn đã được khai mở: "Cửa bất tử rộng mở,
<i>Cho những ai chịu nghe..."</i> (Trung Bộ I). Và bánh xe pháp đã bắt đầu chuyển vận.


<b>I- Bài pháp đầu tiên - ngôi Tam bảo được hình thành - sự khởi đầu của Giáo hội Phật giáo</b>


Sau khi quyết định truyền bá đạo lý cứu khổ cho mn lồi, Ðức Phật dùng tuệ nhãn quan sát thế gian xem ai là người có cơ
duyên để hóa độ trước, và Ngài nghĩ ngay đến hai vị thầy cũ của mình là Alara Kàlama (A-la-ra Ka-la-ma) và Uddaka


Ramaputta (Uất Ðầu Lam Phất) , nhưng cả hai đã qua đời cách đó khơng lâu. Ðức Thế Tơn nghĩ đến năm người bạn đồng tu
khổ hạnh đã rời bỏ Ngài trước kia, đang ở tại vườn Nai (Lộc Uyển) - Benares (Ba La Nại) và lên đường đi đến đó.


<i><b>1)- Bài pháp đầu tiên: Tại đây, bài pháp đầu tiên, bài giảng về Tứ diệu đế (Tứ thánh đế) được Ðức Thế Tôn chỉ bày rõ ràng.</b></i>
Nghe xong, Tôn giả Kodanna (Kiều Trần Như) chứng quả Tu Ðà Hoàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Ðể đánh dấu sự kiện đáng ghi nhớ này, về sau người ta đã biểu trưng nó với hình ảnh bánh xe với 2 con nai hai bên. Hai con
nai biểu tượng cho địa điểm thuyết pháp (Lộc Uyển) và bánh xe Dhamma Cakka tức là bánh xe pháp (Pháp luân). Cả đầu đề
bài kinh được giảng là: Dhamma Cakkappavattana, có nghĩa là Chuyển Pháp Luân (chuyển bánh xe pháp).


<i><b>2)- Nội dung kinh Chuyển Pháp Luân: Ðức Thế Tôn mở đầu bằng lời khuyên các tu sĩ không nên mắc vào hai cực đoan: </b></i>
một là đam mê thú vui dục lạc thế gian, vì nó giả tạm, nhất thời, tầm thường, ngăn cản mọi tiến bộ tâm linh; cực đoan thứ
hai là khổ hạnh ép xác, nó làm mỏi mệt tinh thần, mê mờ trí tuệ. Và Ngài khuyến tấn họ nên theo con đường trung đạo dẫn
tới một cuộc sống thanh tịnh, trí tuệ, sáng suốt, giải thốt tối hậu. Ðó là con đường đạo tám nhánh - Bát chánh đạo: 1-


<i>Chánh tri kiến: thấy biết chân chánh. 2- Chánh tư duy: suy nghĩ chân chánh. 3- Chánh ngữ: nói năng chân chánh. 4- Chánh </i>


<i>nghiệp: hành động chân chánh. 5- Chánh mạng: sinh sống chân chánh. 6- Chánh tinh tiến: siêng năng chân chánh. 7- Chánh </i>
<i>niệm: nhớ nghĩ chân chánh. 8- Chánh định: tập trung tư tưởng chân chánh.</i>


Và Bốn thánh đế được Ðức Phật giảng tiếp theo, đó là chân lý về sự Khổ (Khổ đế), chân lý về nguyên nhân của sự Khổ (Tập
đế), chân lý về sự diệt Khổ (Diệt đế) và chân lý về con đường diệt Khổ (Ðạo đế).


Sau khi nghe Ðức Thế Tơn giảng bài pháp thứ hai có đầu đề Anttalakkhana Sutta bàn về thuyết Vơ ngã (khơng có cái ta),
rằng năm uẩn là vơ thường, nếu ai thốt khỏi tham ái thì ra khỏi tái sanh, được giải thốt; năm Tơn giả Kodanna (Kiều Trần
Như), Bhadhya (Bạt Ðề) , Vappa (Ðề Bà) , Mahanama (Ma Ha Nam) và Asaji (Ác Bệ) lần lượt chứng quả A La Hán.


Bấy giờ là tháng Vesàkha (giữa tháng 4 và 5 dương lịch), đầu mùa kiết hạ, Giáo hội của Ðức Thế Tôn an cư mùa mưa đầu
tiên tại đây.


<i><b>3)- Giáo hóa Yasa (Da Xá): Gần Benarès, có con trai của một người triệu phú tên là Yasa. Chán cuộc đời xa hoa phú quý </b></i>
tầm thường vô vị của thế gian, chàng tìm đến Ðức Phật; sau khi nghe pháp đã xin xuất gia và chẳng bao lâu chứng quả vị A
La Hán. Cha của Yasa trên đường đi tìm con cũng đến vườn Nai thính pháp và xin quy y. Ông trở thành đệ tử tại gia đầu tiên
của Ðức Phật. Tại nhà của Yasa, mẹ và vợ của chàng cũng quy y Tam bảo. Bốn người bạn thân của Yasa là Vimàla (Tỳ Ma
La), Subhàhu (Tu Bà Hầu), Punnaji (Phú Lan Ca Na) và Gavàmpati (Già Bà Bạt Ðế) cũng như hơn 50 bạn khác từ các gia
đình và địa phương gần xa nghe tin Yasa xuất gia, cũng lạy cha mẹ, từ giã gia đình xin theo chân Ðức Phật, và sau một thời
gian đều đắc Thánh quả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

các Tỳ kheo, chánh pháp toàn thiện ở phần đầu, phần giữa cũng như phần cuối, cả trong ý tứ và lời văn. Hãy tuyên bố về
cuộc sống toàn thiện và thanh tịnh... Chính Như Lai cũng đi, Như lai sẽ đi về hướng Uruvela (Ưu Lâu Tần Loa) ở


Sanànigàma để hoằng dương giáo pháp. Hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí, hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu, hãy mang
lại sự tốt đẹp cho người khác; được vậy, là các ơng đã hồn tất nhiệm vụ" (Mahavagga - Ðại Phẩm 19, 20).


Ðức Phật không khuyên tất cả mọi người nên rời bỏ đời sống gia đình để xuất gia, trở thành người sống không nhà cửa,
không tài sản, sự nghiệp. Một người cư sĩ cũng có thể sống đời cao đẹp thích ứng với giáo pháp và đắc quả Thánh. Cha mẹ
và vợ của Yasa là những người tu tại gia đầu tiên bước theo dấu chân của Ðức Phật, tất cả đều tiến triển đầy đủ về tinh thần


và thành tựu đạo quả Tu Ðà Hoàn.


Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, Ðức Phật và 60 người học trò chứng quả A La Hán tổ chức thành một Tăng đoàn những
tu sĩ khất thực, khơng có trụ xứ nhất định, khơng có của cải vật chất nào khác ngồi tấm áo vàng che thân và một bình bát để
khất thực ni thân. Trong mưa nắng, trong sương gió, làng mạc hay phố thị, rừng núi hay đồng hoang đều có dấu chân của
những con người thuyết giảng về đạo lý cứu khổ và đời sống thánh hạnh, và tự mình nêu gương sáng về cuộc sống thanh
tịnh và giải thốt. Ðó là sự nghiệp, là nội dung chủ yếu của Tăng đồn đầu tiên do Ðức Thế Tơn đích thân thành lập và chỉ
đạo.


Có thể nói, đây là sự khởi đầu của Giáo hội Phật giáo.
<b>II- Hóa độ rộng lớn và cùng khắp</b>


Sứ mạng hóa độ - con đường giáo hóa của Ðức Thế Tơn thật vơ cùng nặng nề và khó khăn, nhưng với lịng bi mẫn rộng sâu,
tinh thần bình đẳng triệt để và một ý chí dũng mãnh vơ song, Ðức Thế Tơn đã tùy theo căn cơ của mọi người mà dùng nhiều
phương tiện thiện xảo giáo hóa, như một bậc y vương đã tùy bệnh mà cho thuốc, đã hoàn thành sứ mạng thiêng liêng một
cách viên mãn và đã đề ra một con đường giáo dục thật mới lạ trong lịch sử nhân loại.


<i><b>1)- Cảm hóa ba anh em ông Kassapa (Ca Diếp) - giáo chủ thần lửa: Sau khi 60 vị Tỳ kheo mỗi người đi về một hướng, </b></i>
Ðức Thế Tôn cũng đi về hướng Uruvela. Dọc đường, trong một khu rừng nhỏ, Ðức Phật đãả hóa độ cho 30 thanh niên đang
vi đùa cùng vợ của họ và một kỹ nữ ở trong rừng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Sau đó, Ðức Phật đã đến Gàya Sirà (rừng Thệ Ða) cách Uruvela khơng xa lắm. Chính nơi đây, Ðức Thế Tôn đã thuyết giảng
kinh Adittapariyàya Sutta (bài kinh với chủ đề: Thế gian là tòa nhà cháy rực bằng ngọn lửa tham, sân, si, sanh, già, bệnh,
chết, sầu bi, khổ não và thất vọng). Các Tỳ kheo có mặt đều đắc quả A La Hán.


Khi vừa thốt ly gia đình để tầm đạo, Ðức Phật có lúc đã ngụ tại Pàndavapabbata. Vua Bimbisàra (Tần Bà Sa La - Bình Sa
Vương) lấy làm cảm kích trước tướng mạo oai nghi và tư cách trang nghiêm, sang trọng, khiêm tốn, đã cho người dò hỏi lai
lịch. Sau khi biết được chí nguyện của vị Thái tử đầy hùng tâm này, đức Vua xin Ngài hãy trở lại viếng thăm vương quốc
Magadha (Ma Kiệt Ðà) do vua cai trị, khi chứng đạo quả.



Nhớ lời hứa xưa, Ðức Thế Tôn cùng trên 1.000 đệ tử A La Hán từ Gàya đến Ràjagaha (Vương Xá) , thủ phủ của vương quốc
Magadha giàu mạnh. Và tại đây, Vua Bimbisàra hiểu được giáo pháp cao diệu liền chứng Sơ quả và xin quy y Tam bảo,
cùng dâng cúng tinh xá rộng lớn có tên là Veluvanàràma (Trúc Lâm tinh xá) gần thành Ràjagaha. Có thể coi đây là tự viện
đầu tiên ra đời, và Vua Bimbisàra là vị thí chủ đầu tiên trong hàng vua chúa. Tại tinh xá yên tĩnh này, Ðức Phật và đại chúng
đã nhập hạ một lần 3 năm liên tiếp và 3 hạ khác, xa cách nhau.


<i><b>2)- Thâu nhận Sàriputta (Xá Lợi Phất) và Moggallàna (Mục Kiền Liên): Gần Ràjagaha có một làng tên Upatissa, cịn có </b></i>
tên là Nàlaka, Sàriputta - một chàng trai thơng minh - là người ở làng này. Vì xuất thân ở một gia đình quyền quý nhất làng,
nên chàng còn được gọi là Upatissa.


Cùng với người bạn thân ở làng Kolita tên gọi Moggallàna, có chung một nhận thức rằng tất cả những thú vui vật chất đều
tạm bợ, trống rỗng và vô vị. Hai chàng trai quyết định từ bỏ gia đình, lang thang đi tìm chân lý và thọ giáo với đạo sĩ


Sàsajaya, người có rất nhiều đồ đệ. Nhưng do khơng thỏa mãn với giáo lý của vị thầy hữu danh này và sau đó là nhiều đạo sĩ
khác, cả hai chia tay nhau và thề hẹn rằng: Nếu ai tìm ra con đường đạo giải thoát trước, sẽ cho người kia hay.


Trong một dịp bất ngờ, ngài Sàriputta đã xúc động mạnh trước phong thái giải thoát, trầm tĩnh, siêu phàm đang đi trì bình
một cách thong dong để giáo hóa mọi người ở thành Ràjagaha của ngài Assaji (Ác Bệ hay Mã Thắng hoặc Thuyết Thị). Cho
rằng đây hẳn là bậc A La Hán, hay cũng là người đang trên con đường dẫn đến đạo giác ngộ, Sàriputta đã đợi cơ hội và liền
đảnh lễ, thưa hỏi: "Kính bạch Tơn giả! Các căn của Ngài thật bình thản, an tịnh. Màu da của Ngài thật trong sáng. Vì sao
Ngài thốt ly thế tục? Ai là đạo sư của Ngài? Giáo lý của Ngài là gì?".


Trước những câu hỏi chân thật, khiêm tốn và sự khẩn khoản yêu cầu của Sàriputta, ngài Assaji đã đọc tóm tắt giáo lý mà
Ngài đã học ở Ðức Thế Tôn bằng bài kệ: "Các pháp do nhân duyên sanh, Duyên ấy Như Lai đã chỉ rõ, Và dạy phương tiện
<i>để chấm dứt, Ðó là giáo pháp của bậc Ðại Sa môn"</i>.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Theo lời giao hẹn, Sàriputta liền thông tin cho bạn thân. Moggallàna cũng đã chứng Sơ quả. Do lời tha thiết yêu cầu của cả
hai, Ðức Phật đã nhận hai ơng vào Tăng đồn tại tinh xá Veluvana với câu nói đơn giản: "Etha, Bhikkhave! (Hãy đến đây,
các Tỳ kheo!). Nửa tháng sau, Sàriputta chứng quả A La Hán, nhân nghe bài kinh Vedanà Pariggha mà Ðức Phật giảng cho
đạo sĩ Dìghnakha (Trường Trảo). Ngài Moggallàna đã chứng quả ấy trước đó một tuần.



Với cơ duyên lớn, Ðức Phật đã triệu tập Tăng chúng và tuyên bố hai vị là Thượng thủ trong Tăng đồn.


Từ đấy, hai Ngài thường thay mặt Thế Tơn để hướng dẫn Tăng chúng. Ðây là thời điểm đánh dấu sự phát triển lớn mạnh của
Giáo hội Phật giáo, dưới sự lãnh đạo của Ðức Thế Tôn.


<b>III- Ðức Phật và thân quyến</b>


<i><b>1)- Vua Suddhodana (Tịnh Phạn Vương): Hay tin người con yêu dấu trí tuệ đã thành đạo và đang thuyết pháp giáo hóa nổi</b></i>
danh tại Ràjagaha, đức Vua Suddhodana nóng lịng gặp mặt, liền tức tốc sai nhiều sứ giả đến thỉnh Ðức Phật về


Kapilavatthu. Nhưng chín lần ra đi là chín lần sứ giả đều ở xin xuất gia với Ðức Phật. Vị sứ giả thứ mười là Kàludàyi (Ca
Lưu Ðà Di), vốn là bạn thân của Ðức Phật khi còn là Thái tử, đến nơi nghe pháp cũng xin xuất gia và cũng chứng Thánh quả
như những vị sứ giả trước, nhưng ông Kàludàyi đã chuyển đến Ðức Phật lời yêu cầu được gặp mặt của vị vua già yếu.


Sau hai tháng, Ðức Thế Tôn và đại chúng đã về đến Kapilavatthu. Trước đạo phong của Ðức Phật, Vua Suddhodana đã cúi
đầu kính lễ lần thứ ba. Và sau khi Ðức Thế Tôn thuyết pháp lần thứ nhất, đức Vua đã chứng Sơ quả, và đạt quả thứ hai
(Sakkadagami - Tư Ðà Hàm) khi nghe bài pháp kế tiếp. Lần thứ ba, khi nghe bài pháp có tên Dhammapala Jàtaka (Trì Pháp
Túc Sanh truyện, số 447), đức Vua đắc quả Anagami (A Na Hàm). Với bài pháp này, di mẫu Pajapati Gotami đã chứng Sơ
quả.


Sau này trên giường bệnh, Vua Suddhodana lại được Ðức Phật về thăm và giảng pháp cho nghe. Ðức Vua sau 7 ngày tận
hưởng pháp lạc do đắc quả A La Hán, đã băng hà trong định tĩnh. Năm ấy, Ðức Phật ở tuổi 40 và đang an cư lần thứ năm.
Cũng trong hạ thứ năm này, Giáo hội Ni được thành lập. Và ở hạ thứ bảy, Ðức Phật đã lên cung trời Tusita (Ðao Lợi) thuyết
pháp độ chư Thiên và Hoàng hậu Maya.


<i><b>2)- Yasodhara(Da Du Ðà La): Sau khi Thái tử rời bỏ cung vàng, Công chúa Yasodhara cũng bỏ hết đồ trang sức, mặc y </b></i>
vàng của người tu sĩ, và trong khoảng 6 năm trường, đã thủy chung, tận tình ni dạy đứa con độc nhất Ràhula đến tuổi lớn
khôn.



</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Sau khi Vua Suddhodana qua đời, di mẫu Pajapati xuất gia làm Tỳ kheo ni, Công chúa cũng được xuất gia và đắc quả A La
Hán sau đó. Trong hàng Ni chúng, Cơng chúa là người có thần thơng bậc nhất. Bà nhập Niết bàn năm 78 tuổi. Trong kinh
Apadana còn ghi lại những câu kệ do bà giảng thuyết.


<i><b>2)- Ràhula (La Hầu La): Ràhula sinh ra đúng ngày mà Thái tử quyết định thoát ly thế tục. Cậu bé trưởng thành trong cảnh </b></i>
không cha, được ông nội và mẹ nuôi dưỡng. Khi lên bảy tuổi, cũng đúng vào ngày thứ 7 Ðức Thế Tôn lưu lại quê nhà,
Ràhula luôn luôn quấn quýt bên chân Ðức Phật, nũng nịu đòi gia tài như lời mẹ dặn. Ðức Phật quyết định giao "Thất thánh
<i>tài"</i> (1) cho cậu bé bằng cách nhận cậu vào Tăng đoàn và giao cho ngài Sariputta dạy dỗ.


Thật khó tưởng tượng một cậu bé lên bảy có thể sống đời sống cao thượng của bậc xuất trần thượng sĩ. Nhưng Sa di Ràhula
vừa thông minh đặc biệt, vừa biết vâng lời chuyên cần tu học. Kinh ghi rằng mỗi sáng, vị Sa di trẻ này dậy thật sớm, bốc
một nắm cát tung lên và nguyện: "Mong rằng ngày hôm nay ta học được nhiều như bao nhiêu cát đây...".


Một trong những bài kinh nổi tiếng mà Ðức Phật đích thân dạy cho Ràhula là bài Ambalatthika Rahulovada Sutta (kinh Giáo
Giới La Hầu La), nhấn mạnh về tầm quan trọng của sự chân thật, phương pháp phản tỉnh để diệt trừ mọi ý niệm, lời nói,
hành động bất thiện.


Năm lên 18 tuổi, một lần cùng Ðức Phật đi khất thực, phong độ và oai nghi quý phái của hai vị tu sĩ xem tựa như thớt ngự
tượng dõng dạc cùng đi với tượng con ngoan hiền, như thiên nga của vua dắt con lội trên mặt hồ trong ngự uyển, như hổ
chúa oai phong cùng hùm con lẫm liệt. Cả hai Ngài đều có thân hình vơ cùng đẹp đẽ, cả hai đều thuộc dòng dõi quý tộc từ
khước ngai vàng cất bước ra đi. Trong lúc chiêm ngưỡng Thế Tôn, Ràhula nảy lên ý niệm nghĩ về thân hình đẹp đẽ của mình
và Ðức Phật. Biết được ý tưởng đó, Ðức Thế Tơn đã nói bài kệ bất hủ "N’etam mama (cái này không phải của ta);


N’eso’ham’asmi (cái này không phải là ta); Na me so attà (cái này không phải tự ngã của ta)" - xem Anattalakkhana Sutta,
bài II.


Và sau khi nghe kinh Cùla Ràhulovàda Sutta, Ràhula chứng quả A La Hán. Ngài nhập diệt trước cả Ðức Phật và ngài


Sàriputta. Ngài nổi tiếng là người tôn trọng kỷ luật. Bạn bè thân gọi Ngài " Ràhula may mắn", vì đời Ngài có được hai diễm
phúc: là con của Ðức Phật và chứng ngộ được chơn lý; như trong kinh Theragàthà (Trưởng Lão Tăng Kệ), Ngài đã đề cập


đến điều ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<i>Phật không ban cho Ngài những bộ y mà thiện tín dâng cho Ðức Phật; 2- Không ban cho Ngài những vật thực mà thiện tín </i>
<i>dâng cho Ðức Phật; 3- Cho phép không ở chung tịnh thất với Ðức Phật; 4- Không cho phép Ngài đi theo đến nơi thí chủ chỉ</i>
<i>thỉnh Ðức Phật; 5- Ðức Phật hoan hỷ đến nơi mà thí chủ chỉ thỉnh Ngài đến; 6- Hoan hỷ cho phép Ngài tiếp dẫn những </i>
<i>người từ phương xa đến ra mắt Phật; 7- Hoan hỷ cho Ngài thưa hỏi mỗi khi có điều hồi nghi; 8- Hoan hỷ giảng lại bài </i>
<i>pháp mà Ðức Phật giảng khi Ngài không có mặt.</i>


Ðược Ðức Phật chấp thuận với ý nghĩa của nó, và giữa đại chúng, ơng được cử làm thị giả Ðức Thế Tơn suốt 25 năm trường
sau đó. Ơng làm cơng việc của mình thật tận tụy. Kinh ghi rằng, đêm đêm Ðại đức Ananda tay cầm gậy, tay cầm đuốc đi
chung quanh tịnh thất của Ðức Phật 9 lần, để Ngài khỏi bị quấy rầy.


Tôn giả Ananda có một trí nhớ tốt lạ lùng: ơng ghi nhớ khơng bỏ sót tất cả các bài pháp của Ðức Phật, cũng như của một số
các đệ tử lớn của Ngài, mà ơng được nghe qua. Khi có một Bà La Môn hỏi Tôn giả nhớ được bao nhiêu bài kinh, Tôn giả trả
lời là được 82.000 bài của Ðức Phật và 2.000 bài của các Tôn giả khác thuyết.


Ðức Phật đã tán thán 5 đức hạnh của Tôn giả Ananda là học uyên bác, trí nhớ tuyệt hảo, kiên định, săn sóc chu đáo và ứng
xử tốt.


Mãi sau khi Ðức Thế Tôn nhập diệt, Tôn giả Ananda mới chứng quả A La Hán, trước một ngày Ðại hội kết tập kinh điển lần
thứ nhất xảy ra, trong khi nghiêng mình nằm xuống. Kinh sách ghi rằng, Ngài là vị A La Hán độc nhất đắc quả ngoài lúc đi,
đứng, nằm, ngồi. Tôn giả mất năm 120 tuổi.


<b>IV- Di mẫu Maha Majàpati Gotami xuất gia - Giáo hội Ni giới ra đời</b>


Ðược gọi là Maha Pajàpati (Ma Ha Ba Xà Ba Ðề) bởi vì các nhà tiên tri thời bấy giờ cho rằng về sau bà sẽ cầm đầu một đám
đông người. Con trai bà là Nandà (Nan Ðà), em một cha khác mẹ với Thái tử Siddhattha, cũng được Ðức Thế Tôn độ cho
xuất gia khi chàng trai này đang tổ chức 3 đại lễ quan trọng: kết hôn, phong tước và khánh thành cung điện mới.


Tuy cơng bố rằng nữ giới cũng có thể chứng 4 Thánh quả (bà Maha Pajàpati đã chứng Sơ quả, như đã nói ở trước), nhưng


con đường tu hành sống khơng gia đình, khép mình vào khn khổ của giáo pháp và giới luật, cũng như sứ mạng hoằng hóa
độ sanh thật lắm gian nan, khó nhọc. Với bản tánh mềm yếu và dễ cảm xúc, phụ nữ khó đảm đương nổi trách nhiệm thiêng
liêng, cao cả lẫn nặng nề của một sứ giả Như Lai. Vì thế mà sau khi Vua Suddhodana băng hà, di mẫu dù ba lần bạch xin
xuất gia, Ðức Thế Tôn vẫn từ chối không nêu lý do.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

người nữ trong Tăng đoàn. Khi nghe Ananda thuật lại 8 điều ấy, bà Maha Pajàpati cùng các vị trong đoàn đều hoan hỷ đồng
ý, và thế là Giáo hội Ni giới được thành lập.


Khi ưng thuận cho Ni giới được gia nhập vào Giáo hội, Ðức Phật cũng đã lưu ý đại chúng nhiều vấn đề. Ngài dạy rằng:
"Này Ananda, trong ngôi nhà nào nhiều nữ giới và ít đàn ơng thì ăn trộm dễ lọt vào. Cũng dường như thế, nếu hàng phụ nữ
sống trong pháp và luật của Như Lai thì giáo pháp thiêng liêng khó duy trì lâu. Cũng như người đắp đê bên một hồ nước
rộng lớn cho nước không tràn qua, ta cũng vậy, chế ra Bát kỉnh pháp cho các Tỳ kheo ni để họ tuân thủ trọn đời".


Trong một tổ chức xã hội quy mô nào, ta cũng thấy vì tơn trọng và bảo vệ quyền lợi của một giới, một đối tượng cá biệt nào
đó, mà ở trong những ngun tắc sống, làm việc ln có những khoản ưu tiên dành riêng cho họ.


Ðức Phật đã không làm giảm suy giá trị của hàng phụ nữ, mà còn là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thành lập
một đoàn thể, một tổ chức, một giáo hội cho nữ giới với đầy đủ pháp và giới luật. Ấn Ðộ đương thời với nhiều tơn giáo,
nhưng khơng có một đồn thể nữ giới nào được sinh hoạt như vậy.


Ít lâu sau, bà Tỳ kheo ni Maha Pajàpati đắc A La Hán. Kinh Therigàthà (Trưởng lão Ni kệ) còn ghi rất nhiều tên và các bài
kệ do các Tỳ kheo ni chứng Thánh quả sáng tác.


<b>V- Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða) - những người chống đối</b>


Mặc dầu gia công kiến tạo hạnh phúc giải thoát cho mọi người với một chủ ý tuyệt đối tinh khiết và hoàn toàn bất vụ lợi,
cũng như khơng có một sự phân biệt nào giữa giàu nghèo, quyền quý, mạt hạng, trí thức hay u mê, Ðức Phật luôn phải


đương đầu với nhiều sự đối nghịch mãnh liệt trên con đường chu du hoằng hóa. Ngài bị chỉ trích nghiêm khắc, bị đối xử tàn
tệ, chửi mắng và tấn công một cách tàn bạo. Kẻ đối nghịch là những người theo các hệ thống tôn giáo chủ trương những


nghi thức dị đoan, tạo ra phong tục vơ ích, có hại đến xã hội và ngăn chặn sự tiến bộ của tinh thần, hoặc là những kẻ có tham
vọng thấp hèn, vị kỷ. Trong ấy, Devadatta là một điển hình lớn nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

và chỉ một mảnh vụn làm chân Ngài rỉ máu, và lương y Jìvaka (nhà giải phẫu đại tài của thành Rajàgaha) đã có mặt liền sau
đó. Mưu đồ bất thành, Devadatta lại chuốc rượu mạnh cho voi dữ Nàlàgin và xua nó chạy thẳng đến ngay Ðức Phật, nhưng
voi cũng bị đức từ bi của Thế Tơn cảm hóa.


Dần dần mất hết uy tín, dư luận lên tiếng mạnh mẽ, Vua Ajàtasattu bỏ rơi, Devadatta chuyển qua một mưu toan có vẻ hịa
bình hơn. Ơng nêu ra 5 yêu cầu đối với sự sinh hoạt của Tăng đoàn, với nội dung rằng: Tỳ kheo phải sống trọn đời trong
rừng, phải sống dưới gốc cây, mặc vải vụn lượm ở nghĩa địa, sống bằng khất thực và ăn chay trọn đời. Ðức Phật đã đưa ra
câu trả lời rất tự do dân chủ, không bắt buộc một cá nhân nào phải tuân theo điều ấy.


Cuối đời khơng cịn một ai ủng hộ, Devadatta rơi vào những ngày đen tối. Lâm bệnh trầm kha, với lịng ăn năn vơ hạn, ơng
mong muốn được gặp Ðức Thế Tơn lần cuối cùng, nhưng khơng cịn kịp nữa, chỉ thốt ra câu quy y Phật và trút hơi thở sau
cùng.


Tuy có một người đệ tử, một người con như vậy, nhưng Ðức Phật chỉ khuyên can mà khơng bao giờ chỉ trích ơng. Ngài cịn
thọ ký rằng, với đạo hạnh ban đầu, với lòng ăn năn khi hấp hối, Devadatta sẽ trở thành một vị Ðộc Giác Phật với danh hiệu
Atthissara, ở một tương lai xa xôi.


<b>VI- Những đại hộ pháp</b>


<i><b>1)- Anathapindika (Cấp Cô Ðộc): Vị thí chủ quan trọng nhất thời Ðức Phật tại tiền phải kể đến là ông Sudatta (Tu Ðạt), </b></i>
người Savatthi (Xá Vệ). Chuyên làm từ thiện xã hội, nuôi dưỡng chu cấp cho những người quan quả cô đơn, nên ông lại
được mọi người tặng cho danh hiệu Trưởng giả Anathapindika (Cấp Cô Ðộc - giúp đỡ, trợ cấp cho những người cô đơn, hiu
quạnh). Một lần có việc, ơng đến thành Ràjagaha, nghe anh rể đang chuẩn bị hơm sau đón Ðức Phật quang lâm. Danh từ
Phật - Buddha (người tỉnh giác) khiến ông cảm thấy có một sự thay đổi lạ lùng trong lòng. "Văn kỳ thinh" đã lâu, nay lại sắp
được "kiến kỳ hình", nhưng khơng thể chờ đợi đến ngày mai; như có một chuyện gì thơi thúc, ngay đêm khuya, ông băng
rừng đến nơi Sìtavara ra mắt Ðức Phật và được cảm độ từ ấy.



</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

nghiêm trì ngũ giới. Công đức cao hơn giữ giới là thiền quán và từ bi tâm. Nhưng công đức tối thượng phải là phát triển tuệ
giác, thể nhập chơn như, thấy được thật tướng của các pháp - Vipassanà (Minh sát tuệ), Tăng Chi IV.


Cũng từ gia đình ơng trưởng giả này, Ðức Phật đã giảng bài pháp phân chia 7 loại vợ trong cuộc sống kiến tạo hạnh phúc gia
đình lứa đơi. Một bài pháp rất tinh tế, thiết thực; một bài học giáo dục đầy tâm lý cho cả xã hội ngày nay và mai sau.


<i><b>2)- Visàkhà: Vị nữ thí chủ lớn nhất phải đề cập đến đầu tiên là bà Visàkhà, con gái triệu phú Dhananjaya và bà Summanà </b></i>
Devi; ông nội bà cũng là triệu phú tên Mendaka. Bà xây cúng tinh xá Pubbasama, cũng ở Savatthi (6 mùa an cư đã diễn ra ở
đây). Là người phụ nữ được 5 điều diễm phúc: tóc, da, xương, vóc dáng và sức khỏe tuyệt hảo, bà cịn là người cơng, dung,
ngơn, hạnh vẹn tồn, sáng suốt trong công việc thế gian cũng như trong phạm vi tinh thần đạo đức. Bà Visàkhà đóng một
phần quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến sinh hoạt Tăng đồn. Có lần Phật dạy bà đi hòa giải những
mối bất đồng giữa các Tỳ kheo ni. Ðôi lúc bà thỉnh cầu Ðức Phật khai chế một vài giới cấm cho Tăng Ni.


Cha chồng bà là triệu phú Migàra, vốn là tín đồ thuần thành của Nigantha Nataputta (Ni Kiền Tử Nhã Ðề Tử), giáo chủ đạo
Jain - đạo Lõa thể. Bà đã khuyến dụ cả gia đình bên chồng quy y Tam bảo và nhiều người đã chứng quả. Bà qua đời khi đã
thọ 120 tuổi.


<i><b>3)- Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc): Ngài đại vương Bimbisàra như đã nói đến ở phần trước, và người con kế vị là Vua </b></i>


Ajàtasattu, sau khi cải ác tùng thiện đã trở nên một vị đại hộ pháp, một thiện tín lỗi lạc, có cơng hỗ trợ mọi mặt cho cuộc kết
tập Tam tạng lần I. Một đại thí chủ nữa trong hàng vua chúa phải kể đến là Vua Pasenadi, trị vì xứ Kosala (Kiều Tát La), có
thủ phủ là Savatthi (Xá Vệ). Tu viện Rajakamara là do vua cho xây cúng lên Ðức Phật và đại tăng. Hoàng hậu Malika, vợ
của vua, là người khéo hướng dẫn phu quân của mình trên con đường đạo đức, quy y Tam bảo. Bà đã khuyên vua nên tham
vấn với Ðức Phật để hiểu ý nghĩa 16 cơn mộng hơn là giết hại nhiều sinh mạng để tế lễ cầu an theo lời các đạo sĩ Bà La
Môn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<i>Thắng trận sanh thù oán</i>
<i>Bại trận niệm khổ đau</i>


<i>Ai bỏ thắng bỏ bại</i>


<i>Tịch tĩnh hưởng an lạc </i>


<i> (Tương Ưng VII)</i>
<b>VII- Ðộ những người cùng đinh, mạt hạng</b>


Ðạo từ bi giải thoát mở rộng cho tất cả mọi người, không phân biệt giàu sang và đẳng cấp xã hội. Một sát nhân như


Angulimàla, một dâm nữ như Ambapali, nếu quay về với con đường đạo cũng có thể chứng Thánh quả, như kinh đã ghi lại
như sau:


<i><b>1)- Angulimàla (Vơ Não): Có tên là Ahimsaka (người vô tội), con của một quốc sư xứ Kosala, và là một đệ tử lỗi lạc, thân </b></i>
tín của một danh sư ở Trung tâm Giáo dục Taxila nổi tiếng, nhưng do vì lịng ganh tỵ của đồng mơn khiến thầy dạy đã hiểu
lầm ông và buộc ông phải dâng lên 1.000 ngón tay út để làm lễ cầu pháp.


Ơng trở nên là một hiểm họa, một bóng đen thần chết bao trùm lên đất nước Kosala. Sợ quạ ăn những ngón tay kiếm được,
ơng đành đeo vào cổ nên có hỗn danh là Angulimàla (vịng hoa bằng ngón tay). Ðức Phật là người thứ 1.000 mà ông định
sát hại để tròn đủ vòng hoa mà ông thầy yêu cầu. Ông như bừng cơn mơ sát nhân hãi hùng khi nghe người ông đang cố sức
rượt đuổi mà không sao đến gần được, thốt lên rằng: "Này Angulimàla, chính ngươi mới phải dừng lại, cịn Như Lai đã dừng
lại lâu rồi". Ông quăng dao tội lỗi và được xuất gia bởi nhân duyên đó. Bởi tội ác gây ra, ông trở thành một Tỳ kheo luôn bị
chửi bới, đánh đập, ném đá ở mọi nơi. Với ông, chuyện đầu cổ tay chân mang nhiều thương tích, máu chảy đầy mình là
chuyện cơm bữa. Với tâm ăn năn sám hối cùng với sự nỗ lực tinh tấn thiền định, ông đắc quả A La Hán sau đó.


<i><b>2)- Ambapàli (Liên Hoa Sắc): Trường hợp kỹ nữ Ambapàli nổi danh tài sắc của thành Vesali là một điển hình khác của sự </b></i>
hóa độ vơ phân biệt mà Ðức Thế Tôn đang làm.


Trên đường đi Kusinara (Câu Thi Na) để nhập Niết bàn, Ðức Phật dừng chân ở vườn xồi của cơ gái giang hồ này. Nghe tin,
cô liền đến thỉnh Ðức Phật và đại chúng về nhà để được cúng dường, dù các nhà quý tộc Licchavi (Lê Xa) đề nghị đền bù
cho cô một số tiền rất lớn để họ có đặc ân làm điều này. Cơ phát tâm cúng vườn xồi cho đại tăng, xin xuất gia; và sau sự gia
công chuyên cần, cơ đạt Thánh quả.



</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Thật khơng có lời tán dương nào nói hết được sự vơ biên của lịng từ bi, sự bình đẳng trong con đường giáo hóa của Ðức
Bổn Sư.


<b>VIII- Ðức Phật tuyên bố nhập Niết bàn</b>


Ðức Phật là một nhân vật phi thường, tuy nhiên còn mang thân ngũ uẩn là còn chịu sự hoại diệt của định luật vô thường.
Khi 80 tuổi, thấy niên cao sức yếu, con đường giáo hóa đã viên mãn, Ðức Thế Tôn quyết định nhập Niết bàn tại một làng
mạc xa xôi, hẻo lánh là Kusinàrà (cách Patna, thủ phủ tiểu bang Bihar ngày nay 180 dặm - khoảng 300 cây số - về hướng
Bắc), mà không phải ở những đô thị lớn như Savatthi hay Ràjagaha.


Trong thời gian cuối cùng còn lưu lại Magadha, Ðức Phật đã giảng cho đại thần của Ajàtavattu nghe 7 điều kiện thịnh suy
của một quốc gia, khi ông này tham vấn Thế Tôn về việc chinh phục nước Cộng hịa Vajjian (Bạt Kỳ). Nhân đó, Ðức Phật
cũng giảng 7 yếu tố thịnh suy của Giáo hội.


Rời Ràjagaha, Ðức Phật đi về Ambalatthika, và đến Nàlandà, rồi qua Pàtaligàma; nhân Ðức Phật đến viếng nơi này, dân
chúng đặt tên cổng thành là Gotama. Từ đó, Ðức Phật vượt sông Hằng và hướng về Kotigàma đến làng Nàdika và sau đó đi
về Vesàli, nhập Niết bàn cuối cùng tại đây.


Mỗi nơi chốn Ngài đi qua đều có dấu ấn của sự tế độ mọi người.


Trong năm này, Ðức Phật đã tuyên bố giữa đại tăng: "Này Ananda, Giáo hội các đệ tử cịn mong mỏi gì nữa ở Như Lai ?
Như Lai đã truyền dạy giáo pháp khơng có sự phân biệt nào giữa giáo lý bí truyền và giáo lý cơng truyền. Về chơn lý, Như
Lai khơng bao giờ có bàn tay nắm lại của một ông thầy...". Và Ngài đã dạy rằng khơng nên nghĩ là có một ai phải lãnh đạo
Giáo hội và Giáo hội phải tùy thuộc một ai; mà mỗi cá nhân phải là một Giáo hội, một hiện thân của giáo pháp chân chánh.
Ngài tiếp lời: "... Như Lai đã già yếu, gần đến ngày lìa trần. Như Lai đã 80 tuổi, không khác nào cỗ xe quá cũ kỹ phải cần có
những sợi dây để cột lại các bộ phận, giữ nó khỏi rời ra...". Và Ngài lại kêu gọi sự nỗ lực tinh tấn, giác tỉnh chánh niệm,
khước từ mọi tham ái thế gian, quán niệm Bốn niệm xứ (2)... của các Tỳ kheo. Ngài nói thêm rằng: "Các ơng hãy xem chính
mình là hải đảo của mình, chính mình là nơi nương tựa của mình, khơng nên nương tựa bên ngồi. Hãy xem giáo pháp là hải
đảo của các ông, giáo pháp như chỗ nương tựa, khơng nên nương tựa bên ngồi". Ngài lại đặc biệt nhấn mạnh tầm quan
trọng của nỗ lực cá nhân.



Mặc dầu tuổi cao sức yếu, Ðức Phật luôn vận dụng mọi cơ hội để khuyên dạy các Tỳ kheo bằng nhiều phương thức khác
nhau.


Ở Càpalà, Ðức Thế Tôn tuyên bố 3 tháng sau nhập Niết bàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Trước khi cùng Ananda đi về Mahàvana, Ðức Phật đã giảng cho đại chúng nghe về tính cách vô thường của cuộc sống khi
thấy họ quá ư sầu não.


Triệu tập Tăng chúng quanh thành Vesàli, Ðức Phật nói lời cuối cùng và đưa mắt nhìn thành phố này lần chót và đi về
Kusinara. Trên đường đi, Ngài dừng lại nhiều nơi để hóa độ kẻ hữu duyên. Ở Pava, người thợ rèn Cunda (Thuần Ðà) cúng
dường cho Ðức Phật món sùkasamaddhara (nấm rừng), Ngài hoan hỷ nhận lãnh và dặn kỹ nên chôn phần còn lại. Sau bữa
cơm này, Ðức Phật bị kiết lỵ rất nặng. Với tinh thần bình thản, Ngài nói những lời chúc phúc để trấn an và thanh minh cho
Cunda và từ giã đi về Kusinara cách Pava 6 dặm (khoảng 9 cây số), nơi có dịng tiểu vương của bộ tộc Malla ở.


Ðến nơi, giữa hai tàng cây sala, Ngài nằm tĩnh lặng, nghiêng mình về hơng mặt, chân trái để trên chân phải duỗi thẳng, đầu
quay về hướng Bắc.


Cây sala trổ bông trái mùa như để cúng dường cho ngày đại tang. Mọi người mọi cách biểu hiện sự kính lễ. Ðức Phật lại dạy
cách tỏ lịng kính ngưỡng và tơn sùng Ðức Thế Tơn là hãy tuân thủ giáo pháp, tinh tấn tu hành, phẩm hạnh trang nghiêm.
Kế đó, Ngài đề cập đến 4 Thánh tích (nơi Ðản sanh, Thành đạo, Chuyển pháp luân lần đầu tiên và nơi Nhập diệt) liên quan
đến đời sống của một Ðức Phật, nếu với lòng thành kính chiêm bái sẽ được nhiều lợi lạc.


Sau khi độ cho tu sĩ ngoại đạo Subhadda và đây là người đệ tử sau cùng, Ðức Thế Tôn bảo Ananda báo cho dân chúng Malla
biết rằng Ngài sẽ nhập Niết bàn vào canh cuối đêm nay, cũng như căn dặn Ananda không nên bận tâm với việc phải làm vẻ
vang long trọng đối với nhục thể của Như Lai, mà hãy tận lực tinh tấn để chu toàn hạnh phúc cho chính mình.


Ðược tin qua hàng nước mắt ràn rụa của Tôn giả Ananda, dân chúng Malla thành Kusinara tấp nập kéo về quây quần quỳ
bên Ðức Phật, cùng rừng cây sala chứng kiến giây phút thiêng liêng duy nhất trong đời và nghe những lời dạy sau rốt của
Ðức Bổn Sư: "Này Ananda, đừng nghĩ rằng chỉ cịn lại giáo pháp cao cả mà khơng cịn bậc Ðạo sư nữa. Pháp và luật mà ta


đã dạy bảo, đó là Ðạo sư của các ơng. Này Ananda, Tăng chúng nếu muốn, có thể bỏ các giới luật phụ và nhỏ, sau khi Như
Lai nhập diệt. Có một nghi ngờ, thắc mắc, phân vân gì liên quan đến Phật Pháp Tăng, đến đạo, đến phương pháp, hãy hỏi đi,
đừng để sau này hối tiếc". Ðức Thế Tôn nói như vậy ba lần, nhưng cả đại chúng đều im lặng.


Và, Ðức Ðạo Sư đã khuyến tấn các đệ tử câu cuối cùng: "Hỡi các đệ tử, Như Lai khuyên các con, các pháp hữu vi đều vô
thường, hãy tận lực, liên tục chuyên cần". Ðó là di huấn tối hậu của Ðức Thế Tôn.


Thế rồi Ðức Bổn Sư yên lặng nhập và xuất Sơ thiền. Lần lượt Nhị thiền v.v... đến nhập và xuất Diệt thọ tưởng định. Ngài lại
nhập và xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ định và lần lượt ngược trở lại đến nhập và xuất Sơ thiền. Và khi nhập và xuất lần
thứ hai ra khỏi Tứ thiền, Ðức Thế Tôn đã nhập Vô dư Niết bàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

đại vương Ajàtasattu và ơng Dona đứng chủ trì và phân phối cho 8 quốc gia lớn nhỏ cùng dân tộc Malla, xây tháp tơn thờ.
Ơng Dona xin được thờ phụng cái bình đựng xá lợi khi vừa thiêu xong. Những người Maurya ở Pipphalirana vì đến chậm,
xin được lấy tro tàn của giàn hỏa để dựng tháp mà lễ bái.


Hình dáng của Như Lai khuất dạng từ đây. Con đường hoằng pháp lợi sanh của Ðức Phật kéo dài hơn 45 năm. Từ lúc thành
đạo cho đến lúc nhập Niết bàn, Ngài không ngừng phục vụ chúng sanh bằng hai lối đời sống của chính bản thân và những
lời dạy. Suốt cả con đường, đôi lúc đi một mình, lắm khi cùng đại chúng, từ làng mạc, rừng núi đến thung lũng đồi cao, ở xã
thôn nghèo khổ đến phố tứ phồn hoa, Ngài đều có mặt và đưa tất cả trở về với giáo pháp chơn như, giáo pháp của từ bi, tự
do, dân chủ, bình đẳng, giải thốt.


<b>C- Kết luận</b>


Với sự hy sinh cao cả, lòng từ bi rộng lớn và một ý chí độ sanh dũng mãnh của Ðức Phật, ta có thể tán dương hay quan niệm
Ngài là vĩ nhân trên tất cả những vĩ nhân, siêu nhân đứng trên mọi siêu nhân. Nhưng lời tán dương, việc làm tôn vinh, kính
ngưỡng Ðức Phật đúng đắn nhất, ý nghĩa nhất phải là như lời dặn dò của Bổn Sư trước lúc Ngài ly trần: "Này Ananda,
không nên tôn trọng, đảnh lễ, tán thán, quý mến Như Lai theo cách như vậy. Bất cứ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà
di nào sống đúng với chánh pháp, tự mình ứng xử hợp với đạo, có hành động chân chánh, thì chính người đó, tơn trọng,
đảnh lễ, tán thán, quý mến Như Lai một cách tốt đẹp nhất"./.



<b>* Chú thích:</b>


(1) Thất thánh tài: Gia tài của bậc Thánh, gồm có: 1- Tín (đức tin, lịng chánh tín); 2- Giới (giới luật); 3- Tàm (lịng tự hổ
thẹn); 4- Quí (biết xấu hổ với người); 5- Ða văn (nghe nhiều, biết rộng); 6- Trí tuệ; 7- Xả ly (sự từ bỏ tham, sân, si).


(2) Tứ niệm xứ: 4 đối tượng thiền quán, gồm: 1- Thân thể; 2- Cảm thọ; 3- Tâm thức; 4- Pháp.


<b>Chương IV: Đạo Phật Đối Với Đời Sống Con Người</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

sáng tỏ hơn những vấn đề Phật học then chốt, người viết bài này xin được trình bày những vấn đề sau: 1.Đức Phật và con
người. 2. Trí tuệ từ bi và đại lực.


<b>1. Đức Phật và con người </b>


Đạo Phật được khai sáng bởi con người để phục vụ con người. Đạo Phật lấy con người làm gốc. Phật giáo đã làm thỏa mãn
những nguyện vọng cao quý và sâu xa của con người, và nó cịn có thể chịu đựng sự căng thẳng và nhiễm ơ của đời sống
hàng ngày, nó giúp họ lúc tiếp xúc với đồng loại, ngồi ra cịn đưa ra một mục đích sống. Phật giáo khơng gieo rắc nỗi sợ
hãi trong lòng người. "Cái tốt sẽ mang đến cái tốt, và cái xấu sẽ đem đến cái xấu", "Mỗi hành vi đều có hậu quả của nó"
(every action has its reaction).. Đó là những quy luật tự nhiên.. Phật giáo hoàn toàn phù hợp với quy luật đó, theo đó con
người "Gieo nhân gì thì sẽ gặt quả nấy". Mọi khổ lạc của con người trong cuộc sống này không phải do ảnh hưởng từ bên
ngồi mà là do hành động từ chính con người tạo ra trong thời hiện tại hoặc trong những tiền kiếp hoặc gần hoặc xa.


Tinh thần nhân bản của đạo Phật được biểu lộ không những ở giáo lý, mà còn ở thái độ sống của con người. Đức Phật không
phải là một nhân vật huyền thoại mà là bậc Đại Đạo Sư đã từng sống thật trong thế gian này.


Đức Phật khơng bao giờ tìm cách tự xưng mình là một bậc siêu nhân mà là một con người đã chứng đắc chân lý, cái bí mật
của cuộc sống và cái nguyên nhân thật sự của hạnh phúc và khổ đau. Từ ngữ Phật (Buddha) chỉ có nghĩa là con người giác
ngộ. Phật là con người đã giác ngộ chân lý và đem chân lý ấy giác ngộ cho kẻ khác để mong sự nghiệp giác ngộ viên mãn.
Ngày nay, bậc Đạo sư này không những được tôn vinh bởi hàng trăm triệu người tín đồ mà cịn được mọi người có văn hố
và kiến thức trên thế giới này kính trọng. Bậc giải thoát này cho ta niềm phấn khởi về đời sống cao thượng, đã an ủi con


người vượt qua mọi khổ đau. Người đã giúp đỡ những kẻ nghèo khổ bị lãng quên. Người làm tăng thêm sự cao quý cho cuộc
sống những kẻ mê lầm và làm trong sạch cuộc sống suy đồi của những kẻ phạm tội. Người khuyến khích những kẻ yếu hèn,
liên kết những người chia rẽ, khai ngộ kẻ si mê, soi sáng kẻ theo thuyết thần bí, dẫn dắt kẻ ngu tối, nâng cao phẩm giá kẻ hạ
liệt và tôn vinh người cao thượng. Cả người giàu lẫn kẻ nghèo, cả Thánh nhân và tội phạm đều tơn kính Người như nhau.
Những minh quân cũng như bạo chúa, những vương tôn công tử nổi tiếng và vô danh, những nhà triệu phú hào phóng lẫn
keo kiệt, những học giả khiêm tốn lẫn cao ngạo, những người bần cùng, những người ăn xin bị chà đạp .v.v. tất cả đều được
lợi ích nhờ lời dạy tràn đầy lịng từ bi và trí tuệ của Người ..


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

người trên thế giới này tôn vinh đức Phật như là một bậc Đạo sư tối thượng. Đức Phật đã hy sinh thú vui của trần gian vì nỗi
khổ của con người để đi tìm chân lý rồi vạch ra con đường thoát khổ. Người là một nhà khoa học hoàn hảo trong lĩnh vực
cuộc sống, hoàn hảo đến độ lời dạy của người đã được khẳng định là giáo lý duy nhất có tính đạo đức. Đức hạnh của Người
là biểu trưng tối thiện. Người là khuôn mẫu tồn bích cho mọi đức tính mà Người đã thuyết giảng. Cuộc sống của Đức Phật
không bị một vết ô nhiễm nào cả.


Đức Phật đã chỉ ra con đường đưa đến hịa bình, hạnh phúc và cứu độ cho con người. Con đường của Người thật bao dung
rộng rãi, hợp lý, có thể hiểu được và hướng đến giác ngộ. Giáo lý của Người có thể đóng góp phần tốt đẹp nhất vào hạnh
phúc con người. Lời dạy của Đức Phật soi sáng con đường, nhờ đó con người có thể vượt thốt khỏi sự khổ đau để đi đến
một cuộc sống tràn đầy ánh sáng, thương yêu yên bình và hạnh phúc .


Dạy đạo giải thoát cho con người, đức Phật là một người thầy, một người bạn, sống cùng với con người, hiểu biết con người
và thắm thiết tình người. Con người khổ đau vì con người sống xa bản tính, sống ngược bản tính. Con người khơng ý thức
được thực thể của chính mình, khơng hiểu được mình là gì. Con người khơng có được một nhận thức rõ rệt về hiện hữu và
bản chất của hiện hữu. Đức Phật đã khám phá trên bước đường hành trì những phương pháp giúp Người đi đến sự thực hiện
giá trị và bản chất của hiện hữu. Tiếp xúc thẳng với dòng sinh lực mầu nhiệm ấy, tâm linh Người đột nhiên trở thành cao cả,
sáng tỏ, nhân cách của Người trở thành siêu tuyệt vĩ đại. Và trên lịch sử, con người đã trơng thấy dịng sinh lực nhiệm màu
kia hiển lộ sung mãn và linh hoạt nơi con người Đức Phật.


Suốt hơn hai nghìn năm trăm năm lịch sử, đạo Phật luôn gắn với con người, khai mở cho con người một nguồn sống đầy
tính nhân bản. Đức Phật là người khơi mở nguồn sống ấy, khơi mở chứ khơng phải là hố hiện và tạo dựng. Chính cá nhân
con người mới quyết định số phận và tiền đồ của mình, người có nhân cách độc lập, tự chủ (không lệ thuộc vào bất cứ ai).


Có nhân cách độc lập tự chủ mới có thể nói đến lịng tự tơn và tự tin. Khơng có một đấng thần linh nào có quyền năng
<b>cứu rỗi được con người. Phật tử, theo lời Phật dạy, phải tự mình thắp đuốc lên mà đi. Con người phải tự cứu lấy mình. </b>
Chúng ta tin rằng bất cứ ai cũng có thể hưởng được niềm hạnh phúc thiên giới nếu họ thực hiện lối sống chân chính.


Đạo Phật như là ngọn hải đăng hướng dẫn con người đến hồ bình, an lạc và hạnh phúc. Con người phải đi đến mức độ nhận
thức rằng sự phát triển về đạo đức theo lời Phật dạy sẽ là điều kiện cần thiết để đem lại an lạc và hạnh phúc cho con người.
<b>2.Trí tuệ từ bi và Đại lực </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

tình thương và ý chí nơi bản thân mình và ngồi xã hội. Đạo Phật là đạo giải thốt và giác ngộ. Chỉ có trí tuệ (Panna) mới là
phương tiện duy nhất đưa con người đến bờ giải thoát và giác ngộ .


Trong kinh Xà Dụ, Đức Phật từng dạy: "Nhờ tuệ quán… nên được giải thoát, trong sự giải thoát khởi lên sự hiểu biết: "ta đã
được giải thoát". Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành việc nên làm đã làm, khơng cịn trở lui trạng thái này nữa"
(Trung I , 138b). Vị hành giả cần phải tuệ tri: "Đây là khổ"; "Đây là khổ tập"; "Đây là khổ diệt","Đây là con đường đưa đến
khổ diệt" "Đây là những lậu hoặc"; "Đây là lậu hoặc tập khởi"; "Đây là những lậu hoặc đoạn diệt"; "Đây là con đường đưa
đến lậu hoặc diệt". Nhờ tuệ tri như vậy, hiểu biết như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi Dục lậu, thốt khỏi hữu lậu, thốt khỏi
vơ minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết:"Ta đã giải thoát". Vị ấy biết "Sanh đã tận, phạm
hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, sau đời hiện tại, khơng có đời sống nào khác nữa" (Trung I , tr.279)


Đạo Phật là một tơn giáo trước hết dựa vào lý trí của con người. Nó xuất hiện như là một đạo lý dựa vào lý trí. Trí tuệ chiếm
vị trí then chốt trong mọi lời dạy của Đức Phật. Vai trị của trí tuệ được Đức Phật dạy :


<i>"Tất cả hành vô thường.</i>
<i>Với tuệ, quán thấy vậy,</i>
<i>Đau khổ được nhàm chán</i>
<i>Chính con đường thanh tịnh</i>


<i>Tất cả hành khổ đau</i>
<i>Với tuệ, quán thấy vậy</i>
<i>Đau khổ được nhàm chán</i>


<i>Chính con đường thanh tịnh</i>


<i>Tất cả pháp vô ngã</i>
<i>Với tuệ, quán thấy vậy</i>
<i>Đau khổ được nhàm chán</i>
<i>Chính con đường thanh tịnh</i>


(Pháp cú 277, 278, 279)
"Thấy khổ và khổ tập
<i>Thấy sự khổ vượt qua</i>
<i>Thấy đường Thánh tám ngành</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

"Mắt thịt mắt chư thiện
<i>Vô thượng mắt trí tuệ</i>


<i>Cả ba loại mắt ấy</i>
<i>Được bậc vơ thượng nhân</i>


<i>Đã tun bố trình bày…</i>
<i>Từ đây trí khởi lên</i>
<i>Tuệ nhãn là tối thượng</i>


<i>Ai chứng được mắt ấy</i>
<i>Giải thoát mọi khổ đau"</i>


(Phật thuyết như vậy, tr.457-458)


Con người muốn thoát khỏi sự đau khổ và sợ hãi thì hãy luyện tập trí tuệ và từ bi. Đạo Phật coi trí tuệ như một thanh gươm
– gươm trí tuệ và chỉ nó mới chặt được kẻ thù – đó là Vơ minh. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là hình ảnh của tuệ giác đại trí và
biện tài vơ ngại (kinh Duy Ma). Như vậy, là đạo Phật đặt vai trị của trí tuệ, chiếm một vị trí then chốt. Chỉ có trí tuệ con


người mới diệt được khổ, đem vui cho mọi loài, đưa đến an lạc và hạnh phúc .


Mặc dù trí tuệ rất cần thiết để đạt đến giải thốt, chính nó cũng sẽ khơng đủ. Nó phải kết hợp với từ bi. Từ bi có thể so sánh
như một chiếc xe chở con người đến ngưỡng cửa giải thốt, nhưng chìa khóa thật sự mở cửa là trí tuệ. Lịng từ bi đem đến
sự hạnh phúc lớn nhất cho con người, đơn giản là vì lịng từ bi vượt lên trên tất cả những cái khác. Nhu cầu tình thương nằm
trong sự sống cịn của con người. Đó là kết quả của sự phụ thuộc vào nhau không thể thiếu được, khả năng và kỹ năng của
một cá nhân có đó, nhưng để họ sống riêng lẻ thì họ sẽ khơng tồn tại. Sự phụ thuộc lẫn nhau là một quy luật cơ bản của tự
nhiên. Không chỉ những sinh vật cao cấp mà những côn trùng nhỏ nhất đang sống trên hành tinh này đều phải nương tựa vào
nhau để tồn tại. Chính vì thế sự hiện hữu của con người q phụ thuộc vào sự giúp đỡ của người khác đến nỗi nhu cầu tình
thương của con người là yếu tố quyết định cho sự tồn tại của họ. Vì vậy, ở bất cứ nơi nào, lúc nào, tình thương là dinh
dưỡng quan trọng nhất trong tất cả .


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

gì làm cho lịng ta êm dịu, là lòng mong ước chân thành cho tất cả mọi người sống an lành vui vẻ là động lực làm cho tâm
rung động trước sự đau khổ của người khác. Như vậy, lịng từ bi là cái gì q to lớn, quá mạnh mẽ và quá vĩ đại. Khao khát
thực hành hạnh từ bi là để giúp đỡ người khác, quan tâm vì sự bình yên của kẻ khác, phục vụ họ, kết bạn nhiều hơn. Nếu
quên hạnh phúc của người khác, thì chính bạn cũng theo thời gian đó mà bị người khác lãng quên.


Trong thời đại ngày nay, khi mà con người có tiền bạc, quyền lực, khi mọi sự trên đời này diễn ra tốt đẹp thì con người
<b>thường có cảm giác ít cần đến bạn. Nhưng khi địa vị và sức khỏe suy giảm, con người nhanh chóng nhận ra sự cần </b>
<b>thiết của những người bạn. Tình cảm con người là quan trọng hơn hết và hành tinh nhỏ bé này chính là mái nhà chung cho </b>
tất cả con người. Một khi chúng ta xem mọi người trong mái nhà này là anh em thì cũng dễ dàng cởi bỏ đi những động cơ
cao ngạo, chia rẽ và ta cũng dễ dàng lánh xa sự lừa dối và lạm dụng giữa người với nhau. Chìa khố đối với một thế giới n
bình và hạnh phúc là sự lớn mạnh của lịng từ bi. Con người ngày nay, hơn bao giờ hết đang cần đến lịng từ bi. Chỉ có từ bi
mới là chiếc xe chở con người tới bờ giải thoát. Từ bi là động lực làm cho tâm rung động trước sự đau khổ của kẻ khác, là
cái gì thoa dịu lịng đau khổ của người.


Đạo Phật là đạo giải thoát đưa con người vượt qua bể khổ luân hồi với kiếp nhân sinh. Trong đau khổ con người đủ tâm trí
và can đảm để chế ngự nó. Ý chí vượt qua mọi khổ đau là một năng lực tinh thần, sức khỏe của nội tâm, là sự nỗ lực khơng
ngừng sự hoạt động tích cực của tâm trí và mọi hành động nhằm vào mục đích giải thốt cho mình và cho kẻ khác. Con
người cần phải có ý trí để vượt qua mọi trở ngại. Chướng ngại, nghịch cảnh chỉ có thể làm cho người Phật tử thêm nghị lực


và ý chí phấn đấu. "Không nên sống thụ động trong lo âu sợ sệt hay chờ mong một tha lực nào đến cứu vãn. Phải ln ln
kiên trì, phấn đấu liên tục, cho đến kỳ cùng, để tự giải thoát lấy ta".


Có thể thấy rằng trí tuệ, từ bi hiệp với ý chí nơi bản thân mình ngồi xã hội đã tạo thành một năng lực vơ cùng trọng yếu có
thể hồn tất mọi việc để giải thốt khỏi khổ đau đưa con người đạt đến an lành và hạnh phúc. Trí tuệ từ bi hiệp với ý chí sắt
đá là những phẩm chất cao quý của người Phật tử, nó giúp con người trở nên tồn thiện và có được một lối sống an bình và
hạnh phúc. Nếu mỗi người đều cố gắng với ý chí sắt đá đem trí tuệ và tâm từ bi phục vụ con người, thì thế giới này sẽ trở
thành một thiên đàng mà tất cả chúng sinh đều được sống an vui trong tình huynh đệ và mỗi người trở thành một cơng dân lý
tưởng trong một thế giới hịa bình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<b>Vậy thì Đức Phật ngài đã dạy chúng ta điều gì đây là các chân lý cơ bản!</b>


<b>Chương V: Bốn Chân Lý (Tứ Diệu Ðế)</b>



<b>Thích Viên Giác</b>


<b>A- Dẫn nhập</b>


Một hơm, Ðức Phật đang ở tại Kosambi trong rừng cây simsàpa, Ngài nhặt một ít lá simsàpa đưa lên hỏi: "Này các Tỳ kheo,
các ông nghĩ thế nào? Lá simsàpa ở trong tay ta nhiều hay là ở trong rừng simsàpa nhiều?".


"Bạch Ðức Thế Tôn, lá trong tay Thế Tôn quá ít, cịn lá trong rừng simsàpa thì q nhiều". Phật dạy: "Cũng vậy, này các Tỳ
kheo, điều ta biết thì quá nhiều, nhưng những gì ta dạy cho các ơng thì rất ít; nhưng đó là những gì cần thiết và căn bản cho
sự giải thốt. Những gì ta đã dạy cho các ơng? Chính là "Ðây là Khổ", "Ðây là Khổ tập", "Ðây là Khổ diệt", "Ðây là con
đường đưa đến Khổ diệt" (Tương Ưng V).


Giáo lý Tứ đế là nền tảng của hệ thống giáo lý đạo Phật. Ngay sau khi Ðức Phật thành đạo, Ngài đến vườn Nai thuyết pháp
cho năm anh em Kiều Trần Như, những bạn tu khổ hạnh với Ngài trước đây; nội dung bài thuyết giáo đầu tiên ấy là Tứ diệu
đế. Từ đó, xun suốt hành trình hoằng hóa của Ngài, giáo lý Tứ diệu đế được triển khai, mở rộng. Ðức Phật nhiều lần xác
định về tầm quan trọng và siêu việt của giáo lý Tứ đế, Ngài dạy: "Những bậc A La Hán chánh đẳng giác ở trong quá khứ, ở


trong tương lai hay hiện tại, được coi là vị Chánh đẳng giác đúng nghĩa là Chánh đẳng giác về Bốn thánh đế" (Tương Ưng
<i>V).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

không cần xây dựng tầng dưới của ngôi nhà, tôi sẽ xây tầng trên của ngôi nhà, sự kiện này không thể xảy ra. Cũng vậy, nếu
có ai nói rằng khơng cần giác ngộ Tứ thánh đế, ta sẽ đoạn diệt khổ đau, sự kiện này không thể xảy ra" (Tương Ưng V).


Cho đến lúc sắp nhập Niết bàn dưới cây sa la song thọ, một lần cuối, Ngài nhắc lại giáo lý Tứ đế: "Các thầy Tỳ kheo, đối với
Bốn chân lý, các thầy cịn hồi nghi chỗ nào thì có thể chất vấn tức khắc, khơng nên giữ sự hồi nghi mà khơng cầu giải
đáp" (kinh Di Giáo, Trí Quang dịch).


Như vậy, tầm quan trọng của giáo lý Tứ diệu đế đã được xác định bởi chính Ðức Phật và những đệ tử xuất sắc của Ngài.
Trải qua hơn 2.500 năm, giáo lý Tứ diệu đế vẫn được tất cả các bộ phái Phật giáo, Nguyên thủy hay Ðại thừa, đều xiển
dương và hành trì.


<b>B- Nội dung</b>
<b>I- Ðịnh nghĩa</b>


Tứ diệu đế là Hán dịch từ chữ Phạn Catvary Aryasatyani. Arya là Diệu, cao quý, mầu nhiệm; Satya là Ðế, là sự thật, là chân
lý. Tứ diệu đế còn được gọi là Tứ chân đế, Tứ thánh đế, Bốn chân lý mầu nhiệm.


<i><b>1- Khổ đế (Dukkha): là thực trạng đau khổ của con người.</b></i>


<i><b>2- Tập đế (Samudaya): là nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến thực trạng đau khổ.</b></i>
<i><b>3- Diệt đế (Nirodha): là sự kết thúc hay sự chấm dứt khổ đau.</b></i>


<i><b>4- Ðạo đế (Magga): là con đường hay phương pháp thực hành dẫn đến chấm dứt khổ đau.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<b>II- Nội dung Tứ diệu đế</b>


<i><b>1)- Khổ đế (Dukkha): Khổ đau là một thực trạng mà con người cảm nhận từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, </b></i>


không ai phủ nhận điều ấy. Con người ln có xu hướng vượt thốt khổ đau, tìm kiếm hạnh phúc, nhưng vì khơng hiểu rõ
bản chất của khổ đau nên khơng tìm được lối thốt thực sự; đơi khi ngược lại, càng tìm kiếm hạnh phúc càng vướng vào khổ
đau.


Khổ đế là một chân lý, một sự thực về bản chất cái khổ. Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, sanh là khổ, già là khổ, bệnh là
khổ, chết là khổ, thương yêu mà biệt ly là khổ, mong cầu mà không được là khổ. Tóm lại, chấp thủ năm uẩn là khổ" (Tương
<i>Ưng V). Như vậy, Khổ có thể chia làm 3 phương diện như sau:</i>


a)- Về phương diện sinh lý: Khổ là một cảm giác khó chịu, bức xúc, đau đớn. Khi ta bị một gai nhọn đâm buốt bàn chân hay
một hạt cát vào trong mắt khó chịu..., đây là sự bức bách đau đớn của thể xác. Sự đau đớn của thể xác rất lớn, như Lão Tử
nói: "Ngơ hữu đại hoạn do ngơ hữu thân" (Có thân nên có khổ). Con người sinh ra đã vất vả khốn đốn; lớn lên già yếu, bệnh
tật khốn khổ vô cùng; và cuối cùng, cái chết: sự tan rã cuối cùng của thể xác đem đến khổ thọ lớn lao.


b)- Về phương diện tâm lý: Là sự khổ đau do khơng toại ý, khơng vừa lịng v.v... Sự không vừa ý sẽ tạo nên nỗi đau đớn về
tâm lý. Những mất mát, thua thiệt trong cuộc đời làm mình khổ. Người mình thương muốn gần mà khơng được, người mình
ghét mà cứ gặp gỡ hồi, mình muốn tiền tài, danh vọng, địa vị nhưng nó cứ vụt qua ngồi tầm tay của mình. Cuộc đời như
muốn trêu ngươi, những ước mơ khơng toại ý, lịng mình ln trống trải, bức bách v.v... Ðây là nỗi khổ thuộc về tâm lý.
c)- Khổ là sự chấp thủ năm uẩn (Upadana-skandhas): Cái khổ thứ ba này bao hàm hai cái khổ trên, như trong kinh đã dạy:
"Chấp thủ năm uẩn là khổ".


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Tóm lại, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của hồn cảnh, sự khơng toại nguyện của tâm lý. Về
mặt bản chất, khổ đau là do sự chấp thủ, ngã hóa năm uẩn.


<i><b>2)- Tập đế (Samudaya): Tập là tích tập, các phiền não tụ hội tạo thành năng lực đưa đến khổ đau; đây là nguyên nhân, là </b></i>
nguồn gốc của các khổ. Khi nhận thức được bản chất của khổ một cách rõ ràng, ta mới có thể đi vào con đường đoạn tận khổ
đau (Ðạo đế).


Cuộc đời là khổ đau hay không khổ? Câu trả lời là tùy thuộc vào thái độ tâm lý, cảm thọ và nhận thức của mỗi người;
nguyên nhân của khổ có nguồn gốc sâu xa trong tâm tưởng của con người. Phật giáo cũng nhìn thấy các nguyên nhân của
đau khổ; có cái phát sinh từ vật chất hay hoàn cảnh xã hội, nhưng nguyên nhân thật sự vẫn là tâm thức.



Nguyên nhân của khổ thường được các kinh đề cập chính là tham ái, do tham ái mà chấp thủ, bám víu vào các đối tượng của
tham ái. Sự khao khát về dục lạc sẽ dẫn đến khổ đau, bởi vì lịng khao khát ấy không bao giờ thỏa mãn.


Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vơ minh, tức là si mê không thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương
vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường và chuyển biến, khơng có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng. Do không
thấy rõ nên sinh tâm tham muốn, ôm giữ lấy các đối tượng lạc thú. Do không thấy rõ mới lầm tưởng rằng "cái tơi" là quan
trọng nhất, là cái có thực cần phải bám víu, củng cố và thỏa mãn nhu cầu của nó. Nói cách khác, do vơ minh mà có chấp thủ
"cái tơi" và "cái của tơi" như thân tơi, tình cảm tơi, tư tưởng tơi..., người u của tôi, tài sản của tôi, sự nghiệp của tôi... Do
những chấp thủ ấy mà có những nỗi thống khổ của cuộc đời.


Tóm lại, chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lịng mình; lịng mình đầy tham lam, chấp thủ,
nhận thức sai lầm thì khổ là chắc chắn. Nói cách khác, do cái nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay khơng.
Nếu khơng bị sự chấp ngã và dục vọng vị kỷ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc,
hạnh phúc.


<i><b>3)- Diệt đế (Nirodha): Diệt là chấm dứt, là dập tắt. Diệt đế là sự chấm dứt hay dập tắt phiền não, nguyên nhân đưa đến đau </b></i>
khổ và sự chấm dứt khổ đau; cũng có nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt đế đồng nghĩa với Niết bàn (Nirvana/Nibbàna).


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

a)- Hạnh phúc tương đối: Một khi bạn đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ, thì những nỗi lo âu, sợ hãi, bất an giảm hẳn,
thân tâm của bạn trở nên thanh thản, đầu óc tỉnh táo; bạn nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản và rộng lượng hơn. Ðó là một
hình thức của hạnh phúc. Kinh Trung Bộ có một ví dụ: Có một người con trai đang u một cơ gái. Tình cờ, anh ta bắt gặp
cơ gái nói chuyện, cười đùa với một chàng trai khác. Tâm hồn của người con trai đang yêu ấy bị xáo trộn mạnh mẽ, khó
chịu, bực bội và đau khổ. Thời gian sau, người con trai ấy khơng cịn u thương cơ gái ấy nữa; lần này, anh ta gặp cơ ái ấy
đang nói chuyện, cười đùa với những chàng trai khác, nhưng hình ảnh ấy không làm tâm hồn anh ta đau đớn nữa. Cũng vậy,
nhờ tâm trí khơng bị chi phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ khơng bị đun nóng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng, sợ
hãi, mà tâm ý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc và chính xác hơn, bạn tạo
nên một phép lạ: thân tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn đối với mọi người độ lượng, bao dung và khiêm tốn; đối
với của cải, tài sản, danh vọng trở nên thanh thản hơn, khơng cịn bị áp lực của nó đè nặng lên trái tim mình. Trên cơ sở ấy,
bạn hưởng thụ đời sống có phẩm chất hơn.



Tóm lại, tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, sân và vơ minh đến mức độ nào thì đời sống của bạn sẽ được tăng phần
hạnh phúc lên mức độ ấy.


Nếu bạn phát triển hạnh phúc tinh thần cao hơn bằng cách tu tập thiền định thì bạn sẽ có sự an lạc tuyệt vời. Ðức Phật dạy:
"Có người có thể khơng bị bệnh về thể xác trong một năm hay có thể đến cả trăm năm, nhưng thật hiếm có người khơng bị
bệnh về tinh thần, dù chỉ trong một phút". Những tâm lý được coi là bệnh của tinh thần gồm có 5 trạng thái tâm lý, thường
gọi là 5 triền cái: tham lam, sân hận, hôn trầm ngủ nghỉ, dao động và hối hận, hoài nghi và do dự. Khi 5 loại tâm lý này có
mặt, nó sẽ trói buộc và ngăn che tâm trí bạn; loại trừ chúng thì tinh thần sẽ sáng tỏ thanh tịnh và an lạc như mặt trăng thoát
khỏi mây che. Các trạng thái hạnh phúc tinh thần này được gọi là Tứ thiền.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Chúng ta thường quan niệm Niết bàn như một cảnh giới, một cõi nào đó cao cấp hơn cõi người, như là cõi thiên đường của
các tôn giáo khác; đó là một sai lầm lớn. Niết bàn vượt thốt mọi khái niệm đối đãi về thời gian, không gian, có, khơng, lớn,
nhỏ... Dù vậy, Niết bàn khơng phải là hư vô, mà là một thực tại thanh tịnh, siêu việt, không nằm trong phạm vi phân biệt của
ý thức, hay nói cách khác, khơng thể nhận thức được Niết bàn khi đang còn tham, sân, si. Một vị Thiền sư nói: "Hãy nhìn
những rặng núi, những con suối chảy, những rừng cây xanh ngắt đẹp tuyệt vời kia. Khi biết nhìn mọi vật với một nhãn quan
mới, một nhãn quan không bị chi phối bởi tham sân si, thì cảnh đẹp kia chính là Niết bàn đó ! Niết bàn khơng phải là một
nơi chốn nào khác biệt với thế gian, một cảnh giới nào mà người ta có thể tìm đến. Niết bàn chính là ở đây". Ðức Phật và các
vị Bồ Tát, A La Hán đã đạt Niết bàn ngay trong đời sống này. Ðiều đó nghĩa là Niết bàn nằm ngay trong tầm tay của mỗi
người. Biểu hiện của Niết bàn là khơng cịn tạo nghiệp và khơng cịn tái sinh.


<i><b>4)- Ðạo đế (Magga): Ðạo là con đường, là phương pháp thực hiện để đạt được an lạc, hạnh phúc trong đời sống hàng ngày </b></i>
hay hạnh phúc tuyệt đối Niết bàn. Như vậy, toàn bộ giáo lý mà Ðức Phật đã dạy đều là Ðạo đế, tổng quát và căn bản gồm có
37 pháp, thường gọi là 37 phẩm trợ đạo. Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, đây là những pháp do ta chứng ngộ và giảng dạy,
các con phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập, truyền bá rộng rãi để chánh pháp được trường tồn, vì hạnh phúc cho chúng
sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lịng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và lồi người. Ðó là Bốn
niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn thần túc, Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ đề phần, Tám thánh đạo phần" (kinh Ðại Bát Niết Bàn).
Trong 37 pháp thì Tám thánh đạo được coi là tiêu biểu và căn bản nhất của Ðạo đế. Tám thánh đạo, còn gọi là Tám chánh
đạo - con đường chân chính - có 8 chi phần:



1)- Chánh kiến (Sammà Ditthi): Thấy và hiểu đúng đắn, nghĩa là nhận thức đúng về đạo đức của cuộc sống, cái nào là thiện,
cái nào là ác. Nhận biết đúng về bản chất của sự vật là vô thường, vô ngã, duyên sinh. Nhận thức rõ bản chất của khổ,


nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến hết khổ.


2)- Chánh tư duy (Sammà Sankappa): Suy nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng để đầu óc của mình nghĩ ngợi những vấn đề bất
thiện như tham dục, tức tối giận hờn, bạo động hãm hại... dẫn tư duy của mình hướng về tâm cao thượng như tư duy về sự
buông thả, sự giải thoát, về thương yêu giúp đỡ chúng sinh, về sự bất bạo động, nhẫn nhục, trầm tĩnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

4)- Chánh nghiệp (Sammà Kammanta): Hành vi đúng đắn, nghĩa là khơng có hành vi giết hại, trộm cướp, hành dâm phi
pháp. Thực hành sự thương yêu, cứu giúp, không ham muốn thú vui bất thiện.


5)- Chánh mạng (Sammà Ajivà): Ðời sống đúng đắn, nghĩa là phương tiện mưu sinh, nghề nghiệp chân chính, khơng sống
bằng những nghề phi pháp, độc ác, gian xảo.


6)- Chánh tinh tấn (Sammà Vàyàma): Nỗ lực đúng đắn, nghĩa là nỗ lực đoạn trừ điều ác, nỗ lực thực hành điều thiện.
7)- Chánh niệm (Sammà Sati): Nhớ nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng nhớ nghĩ các pháp bất thiện, đừng để cho các đối tượng
bất chính dẫn dắt mình đi lang thang. An trú tâm ý vào thiện pháp, không quên thiện pháp.


8)- Chánh định (Sammà Samàthi): Tập trung tư tưởng đúng đắn, nghĩa là đừng để tâm thức bị rối loạn, tập trung tư tưởng
làm an tịnh tâm thức một cách đúng đắn, có hiệu quả phát triển tuệ giác.


Mối quan hệ giữa các chi phần Bát chánh đạo là khơng thể phân ly, chi phần này có trong chi phần kia, cái kia hỗ trợ cho cái
này. Tám chánh đạo có thể chia làm 3 bước là Giới, Ðịnh và Tuệ. Giới là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng; Ðịnh là
Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; Tuệ là Chánh kiến, Chánh tư duy. Xác định Bát chánh đạo là con đường đưa đến
giải thoát, Ðức Phật dạy: "Này Subhadda, trong pháp luật nào khơng có Bát thánh đạo thì ở đấy khơng có Tứ quả Sa môn"
<i>(kinh Ðại Bát Niết bàn, TB I). Ðức Phật dạy thêm: "Nếu những Tỳ kheo sống chân chính (theo Bát chánh đạo) thì cõi đời </i>
này khơng thiếu vắng những vị A La Hán".


Con đường tu tập của Ðạo đế là con đường nỗ lực tự thân của mỗi hành giả Phật tử; con đường ấy vừa thực tiễn vừa có hiệu


quả ngay tại đời sống này.


<b>III- Tu tập Bốn chân lý</b>


Giáo lý đạo Phật không phải là một học thuyết, mà là một cơng trình tu tập, có thực hành mới biến lý thuyết thành thực tiễn,
thành chất liệu sống trong mỗi con người, như ăn cơm mới no, uống nước mới hết khát. Ðó là chỗ khó khăn của người Phật
tử, khơng thể nhờ cậy vào ai tu giúp cho mình, hoặc ai ban cho mình được giải thốt, hết khổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

<i><b>1)- Ðối với Khổ đế: Thị chuyển là nhận thức, hay nhận diện cái khổ. Thấy được khổ là bước đầu tiên; nếu khơng thấy, </b></i>
khơng biết thì sẽ khơng có hành động diệt khổ. Khuyến chuyển là đi sâu hơn vào bản chất cái khổ, khởi lên ước muốn đoạn
trừ khổ. Chứng chuyển cảm nhận một cách sâu sắc và toàn diện về bản chất của khổ đau.


<i><b>2)- Ðối với Tập đế: Thị chuyển là nhận diện nguyên nhân đưa đến đau khổ. Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn đoạn trừ </b></i>
các nguyên nhân ấy. Chứng chuyển là tu tập, nỗ lực để đoạn trừ chúng.


<i><b>3)- Ðối với Diệt đế: Thị chuyển là nhận thức được sự vắng mặt của đau khổ là hạnh phúc, là không có đau khổ, ta phải thấy </b></i>
điều ấy. Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn được hạnh phúc, hưởng được niềm vui, thanh thản an lạc của đời sống.


Chứng chuyển là đạt được, hưởng thụ thật sự trạng thái an lạc ấy.


<i><b>4)- Ðối với Ðạo đế: Thị chuyển là nhìn thấy con đường, thấy được phương pháp diệt khổ, thấy rõ rằng đây là con đường đưa</b></i>
đến giải thoát; nói cách khác, thấy được lối thốt ! Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn đi trên con đường ấy, khởi hành
trên lộ trình ấy. Chứng chuyển là đi trên con đường ấy một cách trọn vẹn.


Tóm lại, đối với mỗi chân lý, chúng ta đều phải nhận thức rõ ràng. Từ nhận thức thông suốt sẽ dẫn đến ước muốn hành
động, và cuối cùng đạt được mục đích. Chúng ta phải thấy rõ diễn biến của hành vi, ngơn ngữ và tư duy của chính mình, cái
nào có đau khổ, gây ra đau khổ, ta phải nhận diện và diệt trừ chúng; ta chuyển hóa nó để hưởng được niềm an bình hạnh
phúc của Diệt đế. Hạnh phúc hay đau khổ đều xuất phát từ nơi thân tâm của chúng ta.


<b>C- Kết luận</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

và sự diệt khổ" (Tương Ưng V). Nhận thức đúng như thế là Chánh kiến, nó đóng vai trị rất quan trọng trong quá trình tu tập
Bốn chân lý; nói cách khác, Chánh kiến đi hàng đầu trong mọi pháp mơn. Nhận thức sáng tỏ ấy cịn gọi là Kiến đạo.


Giáo lý Bốn chân lý vừa là phương tiện, vừa là cứu cánh. Một giáo lý hoàn chỉnh đầy tính nhân bản đem lại niềm tin, sức
sống cho con người, xã hội đương thời và vẫn thiết thực lợi ích cho con người và xã hội hiện đại.


Ðặc tính của giáo lý Tứ diệu đế là con đường Trung đạo, không rơi vào cực đoan hưởng thụ dục lạc hay khổ hạnh ép xác.
Giáo lý Tứ diệu đế bao hàm tất cả các giáo pháp mà Ðức Phật đã dạy. Giáo lý Tứ diệu đế có thể thực hành cho người xuất
gia cũng như tại gia, ai cũng tu tập được, ai cũng có thể nếm hương vị giải thoát, đáp ứng được nhu cầu thoát khổ cho cá
nhân và chuyển hóa xã hội.


<i><b>Đọc xong chương V chắc một số đọc giả cho rằng phật giáo có cái nhìn bi quan về cuộc sống khi thấy chân lý đầu tiên </b></i>
<i><b>trong tứ diệu đế là "</b><b>đời là khổ"</b><b>. Để giải đáp thắc mắc của mình mới các bạn đọc bài viết của Hịa Thượng Thích Thanh </b></i>
<i><b>Từ về điều này.</b></i>


<b>Đạo Phật Bi Quan Hay Lạc Quan?</b>



<b>Hịa thượng Thích Thanh Từ</b>


<b></b>


-o0o-Hơm nay chúng tơi xin nói qua và giải thích thêm về bản chất của Đạo Phật để quí Phật tử thấy rõ đạo Phật là bi quan hay
lạc quan. Đây là vấn đề mà nhiều người muốn biết, nhưng Phật tử chúng ta đa số vẫn chưa giải nổi. Chúng tơi sẽ nói rõ để
quí Phật tử hiểu cho thật đúng với tinh thần của đạo Phật, tránh bị người xuyên tạc, hiểu lầm.


Trước hết, chúng tơi nói đến quan niệm mà đa số người hiểu lầm cho rằng đạo Phật là bi quan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

của người có phải đúng như lời đức Phật đã dạy khơng? Phật nói nước mắt chúng sanh nhiều như nước bể cả, nước sông
Hằng..., là căn cứ trên triệu triệu kiếp luân hồi của nhân loại. Đức Phật muốn nhắc nhở chúng ta ngay chỉ một đời thôi mà


chúng ta cũng đã phải đối diện với bao nhiêu chuyện bất như ý, phải gánh chịu nhiều nỗi khổ khác nhau không sao kể xiết,
huống là từ đời này sang đời khác. Vì lời dạy này, nên có nhiều người cho đạo Phật là bi quan. Đây là điểm thứ nhất.


Điểm thứ hai. Quí vị thường đọc kinh Phật, ai cũng nhớ bài thuyết pháp đầu tiên nơi vườn Lộc Uyển. Đó là bài Tứ diệu đế.
Trong đó đế thứ nhất là Khổ đế. Thế là bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật lại là bài nói về cái khổ. Như vậy có bi quan
hay khơng?


Điểm thứ ba. Nếu quí Phật tử nào tu tập thiền quán theo giáo lý nguyên thủy, tức là quán Tứ niệm xứ: quán thân bất tịnh,
quán tâm vô thường, quán thọ thị khổ, quán pháp vô ngã. Như vậy, trước hết ứng dụng tu là quán thân này nhớp nhúa, q vị
có cịn q thân khơng? Nếu khơng q thân thì có chán đời khơng? Cịn qn thọ là khổ của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, khẩu, ý
thì rõ ràng chúng ta nhận ra cái khổ khi tai nghe những lời không vừa ý, mắng chửi, thị phi... Song nghe tiếng nhạc du


dương thì đâu có khổ, sao đức Phật lại nói nghe cái gì cũng khổ? Lưỡi chúng ta nếm vị đắng cay thì khổ, nhưng đức Phật nói
những vị ngon ngọt cũng khổ. Thọ là khổ.


Qua những điểm vừa nêu, chúng ta không hiểu sâu, e rằng chúng ta cũng có thể đồng ý đạo Phật là bi quan. Vậy tất cả đều
khổ thì chúng ta phải hiểu thế nào? Nếu khơng hiểu đúng, q vị sẽ thấy đạo Phật dạy chưa phải là chân lý.


Phật dạy cảm thọ có ba thứ: thọ khổ, thọ lạc, thọ không khổ không lạc. Nhưng Phật lại dạy chúng ta quán tất cả thọ là khổ.
Đây là điều tơi muốn giải thích để q Phật tử hiểu cho kỹ. Sở dĩ đức Phật nói tất cả thọ đều khổ là vì Ngài căn cứ trên lý vơ
<i><b>thường. Ví dụ lưỡi mình vừa nếm một món ăn ngon thì vị ngon đó kéo dài khoảng bao lâu? Ở lưỡi thấy ngon, nhưng qua </b></i>
khỏi lưỡi rồi cịn ngon khơng? Hết ngon. Vậy tất cả cảm thọ dù khổ dù lạc cũng là hiện tướng của vô thường. Mà đã vơ
thường thì sẽ đi tới bại hoại. Cho nên nó khơng thật vui, mà chỉ là hiện tượng của khổ thôi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

Đức Phật nói tất cả cảm thọ đều vơ thường, và vơ thường là nhân của đau khổ. Ví dụ quý Phật tử thấy người già, người
bệnh, người chết là khổ hay vui? Là khổ. Vậy ba thứ già, bệnh, chết là ba tướng khổ. Nhưng trẻ có vui khơng? Hồn tồn
khơng. Vẫn có chuyện khóc dài dài. Trẻ vẫn có bệnh, mà mỗi lần bệnh là vui khơng? Cuộc sống đâu phải lúc nào cũng êm ả
thuận tiện. Như vậy, già, bệnh, chết đã không vui; nhưng trẻ, mạnh, sống cũng đâu đã vui thật.


Tất cả chúng ta ở trên đời này bị vô thường bức bách nên đâu thể gọi là vui. Như vậy Phật dạy quán thân bất tịnh, quán thọ


là khổ và quán tâm vơ thường có đúng khơng? Tơi thường nhắc nhở q Phật tử rằng người thế gian có lối nói khơng thực tế.
Ví dụ một người nam, một người nữ thương nhau thì họ thề thốt "Dù cho biển cạn non mịn... tâm họ cũng khơng đổi".


Nhưng có đổi không? Chỉ một thời gian là thay đổi rồi. Vậy người thề nói thật hay nói gạt? Họ khơng nói gạt, nhưng giữ
không được. Đứng về đạo Phật mà nhìn thì con người thay đổi liên tục khơng ngừng nghỉ.


Thay đổi có hai chiều, tốt và xấu. Có khi cái dở cái xấu thành cái tốt. Có khi cái tốt lại đổi ra cái xấu, cái thành ra cái hoại,
cái hoại ra cái diệt, cái bình thường đến cái tệ. Ngay nơi mình, mình cịn khơng tin được lịng mình ln ở một chỗ. Cho nên
cái gì mình nói là hay, là quan trọng đều khơng có lẽ thật. Đức Phật dạy tâm tưởng con người cũng là vơ thường. Như vậy
có bi quan khơng? Bởi vì hơm nay hứa hẹn với nhau rồi, vì một lẽ gì đó mà khơng thể thực hiện được làm cho người khác
mất tin tưởng, khổ sở, bi quan.


Kế đó Phật dạy qn các pháp vơ ngã. Hay gần hơn là quán thân này vô ngã. Tức là ngay thân này cũng khơng có cái gì là
chủ tể, đều do duyên tứ đại sum họp, gọi đó là thân. Và khi tứ đại tan rã thì mất, đâu có gì trường tồn vĩnh viễn. Đã chẳng có
cái mình thật thì có nên buồn khơng? Như vậy có phải là một mặt nữa của bi quan khơng?


Đức Phật dạy thân này như huyễn như hóa. Nếu căn cứ theo đó mà người ta cho rằng đạo Phật là bi quan yếm thế, có đúng
chưa? Rất là hợp lý. Vì vậy ai mới tìm hiểu đạo Phật chút ít, thấy những điều vừa mới nói sẽ cho rằng đạo Phật bi quan, theo
đạo Phật buồn quá. Hoặc Phật tử nghe thế rồi thấy cũng đúng, đâm ra bi quan khơng muốn tu. Đó là bệnh làm cho chúng ta
thối tâm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

đến chừng nào mới gặp. Bởi mặt biển lúc nào cũng có sóng, khơng sóng to thì sóng nhỏ, biết bao giờ mới gặp bọng cây mà
chun vô? Nếu chưa chun được thì lại phải lặn xuống đáy biển trở lại chờ đến trăm năm khác. Vậy thân này q khơng?
Người Phật tử nếu có việc buồn chán mà tìm đến sự tự hủy diệt mình thì vị Phật tử đó có hiểu đạo chưa?


Q vị thấy tại sao ban đầu thì chê, sau lại dạy phải q trọng thân này? Đây là điều mà tôi muốn nêu ra cho q vị thấy rõ. Ở
trong sách nhà phật có câu: "Thiên niên thiết thọ khai hoa dị, nhất thất nhân thân vạn kiếp nan". Thiết thọ tức là cây Trắc
(Thiết mộc lan) một ngàn năm mới trổ hoa một lần. Vậy mà còn dễ, chớ mất thân này thì mn kiếp khó tìm lại được.


Chúng ta thấy trong đạo Phật nhìn sự vật có hai mặt, một mặt chê cái thân này, một mặt lại quí trọng thân này. Tại sao? Tơi


ví dụ có người đi biển bị chìm thuyền, sau đó họ bơi ra ngồi vớ được gốc cây mục. Nếu người thông minh phải ôm chặt gốc
cây mục này để bơi vào bờ hoặc chờ có người cứu. Lúc ấy, gốc cây mục này đối với chúng ta là quí hay tiện? Rất quí. Vì
cần có nó để cứu mạng sống của mình. Khi chúng ta bám được gốc cây mục và nhìn xa xa là bờ, thì chúng ta chần chờ ơm
nó hồi đợi đến ngấm nước cây rã, chúng ta chết giữa biển; hay ơm chặt nó mà bơi cho mau tới bờ. Và khi tới bờ rồi có quảy
gốc cây mục đi theo khơng? Nếu có người khơng làm như vậy thì họ có thơng minh chăng?


Thấy vậy để hiểu thấu đáo, cách nhìn của đạo Phật đối với thân này. Thấy nó khơng q, khơng sạch, khơng đẹp, không thật
là chỉ chúng ta một sự thật. Chúng ta thấy những hãng chế nước hoa, chế xà bông thơm để che mất mùi hôi và giảm bớt cái
thơ nhám bẩn thỉu của thân. Nếu nó tự thơm như hoa sen thì đâu cần gì phải nhọc công chế tạo nước hoa, xà bông để giúp
cho con người sạch ra, thơm ra bên ngoài. Thế mà vừa xức chút ít nước hoa rồi lại tưởng như mình sạch mình thơm vậy. Đó
chỉ là cái tưởng thơi, chớ đâu có thật. Vậy đạo Phật có dạy chúng ta đều chân thật khơng? Rõ ràng là có.


Trong kinh nói, khi đức Phật mới thành đạo ở dưới cội cây bồ đề, lúc đó có một đám ma quái tới phá. Chúng giả ra những
vũ nữ đẹp quyến rũ đẹp đẽ quyến rũ dụ dỗ Ngài trở về cung thọ hưởng an vui. Ngay khi đó Ngài liền nói: "Túi da hơi thúi
hãy đi đi, ta không cần các ngươi". Bọn họ xấu hổ lui mất. Vậy đức Phật thấy thân này ra sao? Như cái túi đựng đồ nhơ uế
chớ khơng có gì q. Cái thấy đó có đúng khơng? Hồn tồn đúng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

Lời nói chúc sống thăm tuổi là lời nói khơng thật, cịn nói anh chị sống trong hơi thở là lời nói thật. Thế mà ta đâu có thích
nghe. Như vậy khơng phải chính ta cũng đang chọn sự giả để làm vui là gì?


Nói ra những việc bình thường để q vị thấy được lẽ thật. Cái lẽ thật mà trong chúng ta ít ai dám nhìn, cịn bịa chuyện để
tán với nhau. Tới nhà thì kiếm chuyện gì để khen nhau, dù cho có những điều khơng đáng khen, khơng thật để khen, khen
cho được lịng. Và nếu mình khen cho người vui lịng, thì người cũng khen lại cho mình được lịng. Khơng ai dám nhìn, dám
nói ra sự thật, chỉ là tán dóc với nhau. Nhưng họ lại tin rằng đã nói với nhau tồn những điều chân lý. Nói như vâyï, để thấy
cuộc sống của chúng ta khơng có lẽ thật, mà lại cứ như là đã nói hết sự thật, và sống với sự thật.


Từ đây tơi muốn nhắc nhở với q vị đạo Phật là đạo thấy như thật, nói như thật. Thấy thế nào nói thế ấy, chớ khơng có
lừa, khơng có bịp chúng sanh. Tơi hỏi q vị, mình nói thật và mình nói bịp nhau, cái nào có hại, cái nào có lợi?


Ví dụ người đó xấu, mình nói họ xấu, như vậy nếu người biết nghe lẽ thật thì họ khơng làm điều bậy nữa. Cịn nếu họ xấu


mà cứ khen họ, họ tưởng thật càng làm bậy hơn. Vậy thì ai thiệt hại? Cịn chúng ta nói sự thật cho họ biết để họ đừng gây
thêm tội nữa, đừng làm quấy nữa, chính là chúng ta đang cứu họ.


Tuy nói vậy chớ ít ai dám nói lẽ thật lắm. Hơn nữa, nói sự thật đôi khi đương sự không thèm nghe mà trở lại giận ghét, ngầm
hại người cho mình biết sự thật nữa. Người ta thường than: "Ở đời khó quá!" Khó là vì ai cũng sợ sự thật hết. Sở dĩ người ta
kết tội đạo Phật là bi quan là vì đạo Phật nói lẽ thật, khơng lừa người.


Những điều tơi kể ra, có điều nào Phật nói khơng đúng không? Biết sự thật, nghe sự thật mà người ta nói bi quan, đó là lỗi
tại ai? Tại cái điên đảo của con người chớ không phải lỗi tại Phật.


Đã biết thân khơng q vì nhơ nhớp, vì khơng lâu bền, nhưng lại khó được, mất rồi khó tìm. Q vị có nên suy nghĩ để tìm
một hành động đúng cho mình khơng?


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Trong kinh Tạp A Hàm, đức Phật dạy, người Phật tử biết rõ thân nhớp nhúa vô thường, nhưng phải mượn nó để tu cho mau,
giống như người bị lửa táp cháy đầu, phải dập tắt liền chớ không thể đội về nhà. Tức là chúng ta phải gắng sức tu, phải biết
bịn góp phước đức, để tự cứu mình khi mất thân này. Nếu mất thân này mà cịn mang theo nhiều tội ác, phải làm thân chó
sói, thì có tu được khơng? Suốt đời cịn giết thêm bao nhiêu mạng nữa?


Thế nên người đi theo chánh đạo trước hết phải giữ năm giới. Giáo lý đức Phật có năm thừa để mọi người nương theo đó mà
tu. Thừa thấp nhất gọi là Nhân thừa Phật giáo, tức là dạy người tu đời này làm người xứng đáng, đời sau trở lại cũng làm
người xứng đáng. Nhân thừa Phật giáo lấy căn bản năm giới làm gốc, đó là: Khơng sát sanh, khơng trộm cướp, khơng tà
dâm, khơng vọng ngữ, khơng uống rượu.


Q Phật tử nghĩ lại xem mình có giữ đủ chưa? Nếu khơng giữ được thì e rằng tụt xuống khó tìm lại. Như tơi đã nói với q
Phật tử, từ khi quy y là giữ giới không sát sanh, đời sau sanh ra thọ mạng dài, sống lâu. Giữ giới khơng trộm cướp, đời sau
sanh ra giàu có không bị xâm hại. Giữ giới không tà dâm, đời sau sanh ra được thân thể đẹp đẽ. Giữ giới không vọng ngữ,
đời sau sanh ra chúng ta được lời nói lưu lốt. Giữ giới khơng uống rượu, ai nghe cũng thương cũng quí, đời sau sanh ra
được trí tuệ thơng minh.


Năm giới đó nếu giữ được trọn đời này là tốt. Đời sau sanh ra đủ năm điều kiện đó có phải là hạnh phúc sung sướng hay


không? Chúng ta tu gấp tức là tu theo như chúng tơi vừa nói, để hiện tại và đời sau chúng ta hiện diện trong đời với đầy đủ
những phẩm chất tốt đẹp. Còn như tiến hơn chút nữa được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Nếu tu Thập thiện thì đời sau được sanh
lên cõi Trời cao hơn. Cịn nếu tu pháp Tứ đế thì đời sau chúng quả A La Hán, xa hơn nữa là chứng quả Duyên Giác...


Chúng ta chỉ cần tu làm sao cho đúng với chánh pháp, đừng để rơi xuống đường thấp vì mang nhiều nghiệp ác. Q vị ráng
giữ cho tròn. Các Phật tử tự kiểm điểm thấy phần nào thiếu, dở thì ngay bây giờ cịn kịp để tu sửa những sai lầm thiếu sót
ấy. Vậy phải nên lo sửa cho gấp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Ví dụ, có hai người đang gây gỗ sắp đánh nhau. Chúng ta khuyên: "Thôi! Anh hay chị nhịn nhau đi. Gây gổ đánh nhau chỉ
khổ thơi, khơng có lợi lộc gì". Khun như vậy nhưng họ khơng nghe, vẫn cứ đánh nhau đến lỗ đầu, chảy máu. Lúc đó, nếu
người nào thấy thương, đến băng bó cho họ thì họ cảm ơn người kia rối rít. Nhưng họ quên rằng dù có cảm ơn người băng
bó thì mình cũng đã mang thương tích rồi. Trong khi người khuyên mình lúc ban đầu giữ trọn vẹn, đừng để xảy ra thương
tích thì mình đâu biết mang ơn. Q vị thấy việc nào quí hơn? Đúng ra ta phải cảm ơn và q trọng người nhắc nhở mình khi
chưa xảy ra chuyện đáng tiếc mới phải lẽ, chớ đợi tới chuốc quả rồi mới được cứu thì e đã quá muộn. Dù có cứu được, cũng
chỉ đỡ phần nào, chớ làm sao trọn vẹn như buổi đầu.


Hiểu như vậy các Phật tử mới kính trọng quí thầy q cơ xuất gia. Các vị ấy tuy ít làm việc từ thiện xã hội mà lại nhắc nhở,
giảng giải khuyên tu nhiều hơn, ấy là vì tu sĩ Phật giáo đặt nặng việc cứu nhân hơn cứu quả. Đôi khi, Phật tử suy nghĩ cảm
thấy buồn, cảm thấy đạo Phật không biết thương người, không cứu giúp người. Ví dụ có một người đạp xích lơ, mỗi ngày
kiếm được chừng ba bốn chục ngàn. Với số tiền ấy, nếu họ quyết tình ni gia đình vợ con cũng có thể sống được. Nhưng
nếu người đạp xích lơ đó ghiền rượu, thì chỉ cần đến qn nhậu sau một ngày đạp xích lơ là sạch túi, vợ con ở nhà nheo nhóc
đói khát. Có người láng giềng thấy thương, mỗi ngày đem cơm gạo cho, để giúp đở vợ con ơng qua cơn đói khát. Việc làm
ấy có thể kéo dài mãi được khơng? Nếu khơng thì vợ con người đạp xích lơ sẽ sống ra sao? Chắc phải chết thôi. Đối với
người láng giềng giúp đở đó, chúng ta thấy việc làm ấy là tích cực, là làm phước. Nhưng nếu có một thầy tới khun can
người đạp xích lơ thức tỉnh, bỏ uống rượu, trở lại lo lắng cho gia đình. Như vậy việc làm của thầy so với việc làm của người
láng giềng, việc nào có giá trị hơn, có cơng đức hơn? Khi giảng giải, giúp cho người lầm lỗi thấy được, hiểu được và tự sửa
chữa được những khuyết điểm của họ là chẳng những cứu cả cuộc đời của người đó, mà cịn cứu ln gia đình thân quyến
của họ. Cơng đức ấy khơng thể lấy tiền của mà sánh được. Đó là cứu nhân theo đức Phật dạy.


Hiện nay Phật tử chúng ta thường quên cái nhân, chỉ khi nào gặp quả khổ mới chịu tu. Lúc vui quên Phật, lúc khổ mới nhớ


Phật. Như vậy chỉ biết Phật khi khổ chớ không biết Phật khi khỏe mạnh vui tươi. Như vậy đợi đến lúc già yếu, đau đớn mới
chịu nhớ tới Phật thì e rằng khơng cịn kịp tu nữa. Vì vậy Phật tử nên hiểu và cố gắng tập tu ngay khi cịn trẻ, cịn khỏe mạnh
thì về sau mới không bị đau khổ bức bách.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

được năm giới là một người xứng đáng đối với quốc gia xã hội, đối với đạo pháp, khơng những trong hiện tại mà cịn xứng
đáng hơn nữa ở mai sau.


Trong bài giảng này, tôi không nói những gì cao siêu q, chỉ nhắc nhở những điều gì q Phật tử có thể làm được, tu được.
Kết quả của quí vị cũng chính là phần khích lệ đối với chúng tơi, dù q vị tu là tu cho q vị chớ khơng phải tu cho chúng
tơi Nhưng chỉ cần q vị giữ cho ba nghiệp của mình ngày càng tốt lành để đời sau được đi lên, chớ không phải tuột xuống là
chúng tôi mừng rồi. Chỉ cần Phật tử chịu nghe lời chân thật khun bảo của q thầy, q cơ, khơng chạy theo sự dối gạt hoa
mỹ của thế gian là quí Phật tử biết tu nhân đúng đắn, tránh được quả khổ về sau.


Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi
tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ, già có cái chết của già. Nếu khơng lo tu thì vơ thường đến làm sao trở tay kịp. Trên
đường tu, chúng ta phải nhìn cho kỹ, thấy cho rõ, đừng lầm lẫn.


Từ trước đến nay chúng ta nói những điều: Thân bất tịnh, thọ là khổ, tâm vô thường, hay nước mắt chúng sanh nhiều như
nước biển... Tất cả đều cốt chỉ ra lẽ thật của con người cho quí Phật tử thấy rõ. Khi thấu hiểu được lẽ thật của con người cho
quí Phật tử thấu rõ được lẽ thật đó rồi, chúng ta mới quyết tâm tu, cố gắng tu, để không bị khổ đau trong đời này và đời sau.
Như vậy đạo Phật lạc quan hay bi quan? Vì nói thật nên mới nghe như bi quan, nhưng nhờ thế chúng ta biết lẽ thật để sửa
đổi, để vươn lên. Ngược lại nếu lừa dối nhau thì sẽ cùng nhau bị tai họa, bị chìm đắm. Hiểu vậy, tất cả Phật tử mỗi người
phải cố gắng theo như lời Phật dạy: Tu như lửa cháy đầu. Phải kiên trì tinh tấn tiến lên. Từ năm giới căn bản tiến dần lên
đừng để tuột xuống. Nếu để tuột xuống, lỡ mất thân người thì cả trăm nghìn năm sau khó mong tìm lại. Q Phật tử nếu
siêng năng tu tập sẽ khơng cịn hoang mang lo sợ sống chết. Nếu sắp tắt thở, có người hỏi đi đâu thì nói: Tơi sẽ trở lại làm
người tốt hơn, cao quí hơn. Người ấy sẽ được an lành trước khi, trong khi và cả sau khi nhắm mắt. Ngược lại nếu khơng tu
giữ được năm giới thì sẽ hoảng hốt sợ sệt không biết rơi vào đường nào. Thật khổ vô cùng!


Các Thiền sư khi gần nhắm mắt thường mĩm cười từ giả ra đi. Còn kẻ thế gian, lúc gần tắt thở, những người thân chung
quanh khóc than thảm thiết khiến cho kẻ ra đi bi lụy luyến tiếc. Còn những người đi trong bơ vơ, trong đau khổ thì cịn buồn


tủi biết bao nhiêu nữa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

Từ đó q vị thấy việc tu hành thiết yếu đến thế nào. Hồi Phật còn tại thế, sau khi thành đạo rồi, Ngài trở về thành Ca Tỳ La
Vệ giảng dạy cho phụ vương (Tịnh Phạn) và hoàng hậu (Ma Ha Ba Xà Ba Đề) năm giới. Sau đó, hồng hậu phát tâm xuất
gia. Bà liền cùng năm trăm vị công nương đi đến chỗ Phật, xin Phật xuất gia. Phật không cho, bà năn nỉ đôi ba phen, Phật
cũng không chấp thuận. Lúc đó Tơn giả A Nan thấy vậy xót ruột, mới vào thưa với Thế Tơn: "Hồng hậu có cơng lớn với
Thế Tơn, từ lúc hồng hậu Ma Da mất sau khi sanh Thế Tơn có bảy ngày, bà là người nuôi Thế Tôn cho đến lớn khôn, công
lao biết bao nhiêu? Sao giờ đây Thế Tôn không cho bà xuất gia? Chẳng lẽ Thế Tôn đã quên ơn người?" Phật trả lời: "Ta
không quên ơn mà ta đã đền ơn bà rồi". Ngài A Nan ngạc nhiên hỏi Thế Tôn đền ơn bằng cách nào. Phật nói: "Khi ta thành
đạo, trở về thành Ca Tỳ La Vệ, ta đã khuyên, giải thích cho phụ vương và hoàng hậu hiểu được đạo lý, phát tâm qui y Tam
bảo, gìn giữ năm giới hạnh. Đó là ta đã đền ơn".


Như vậy người con đền ơn cha mẹ, khơng gì hơn là lúc cha mẹ cịn sanh tiền, khun cha mẹ siêng tu, giữ gìn năm giới để
khi chết khỏi đọa đường khổ. Đó mới thật là thật thương, thật hiếu; chớ làm ra nhiều tiền chờ lúc chết làm đám ma cho lớn...
chưa chắc đã cứu được cha mẹ. Thế đó đâu gọi là thật thương.


Q Phật tử nghe tơi giải thích rồi, đã thấy tu theo đạo Phật là lạc quan chớ không phải bi quan. Tại sao? Bi quan là buồn, lạc
quan là vui. Cịn đạo Phật khơng buồn khơng vui. Bởi vì đối với thế gian, được thì vui, mất thì buồn, khen thì sung sướng,
chê thì giận khổ. Cái vui buồn thế gian là vui buồn đối đãi, vơ thường, khơng có sự thật. Mà đã khơng sự thật thì chúng ta
đừng dính, đừng mắc. Song thông thường, ai cũng dễ vui khi được khen, dễ buồn khi bị chê. Nếu chúng ta biết lẽ thật rồi thì
có gì vui, có gì buồn. Đạo Phật là đạo chỉ cho chúng ta lẽ chân thật, nhận ra được sự thật rồi, sống đúng như thật. Sống được
như lời đức Phật dạy thì đâu cịn gì buồn, đâu cịn gì phiền não. Ấy là vui.


Phật, người Trung Hoa gọi là Giác; Phật là chỉ cho bậc đã giác ngộ, nên những gì Ngài dạy là lẽ thật từ sự thấy biết của bậc
giác ngộ mà ra. Là đệ tử Phật, chúng ta tin những lời của Phật bằng lẽ thật chớ không phải tin theo sự tưởng tượng, ép buộc.
Tin rồi chúng ta phải ứng dụng tu để tự cứu mình thốt khỏi cảnh khổ, đồng thời cũng giúp được mọi người cùng vươn lên,
tiến lên, khơng cịn bị trầm ln trong sanh tử nữa. Vì vậy, chư Tăng Ni vâng lời Phật dạy, gắng cơng tu hành, nhắc nhở q
Phật tử. Phần cịn lại là phần của q Phật tử. Tiến lên con đường an vui, tươi đẹp hay rơi xuống nẻo khổ tối tăm, xấu xa
<i><b>là do quí Phật tử tự định đoạt vậy.</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

<b>Chương VI : Tám phần Thánh đạo (Bát-Chánh Ðạo)</b>



<b>Thích Tâm Khanh</b>


<b>A- Dẫn nhập</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

<b>B- Nội dung</b>


<b>I- Nội dung Bát thánh đạo:</b>


<i><b>1)- Chánh tri kiến (Sammà ditthi): Trong Pàli ngữ, ditthi là biến từ của dittha. Dittha, nếu là động từ sẽ mang nghĩa "thấy, </b></i>
trông thấy"; khi là danh từ lại có nghĩa: "người được giác ngộ đến mục tiêu cuối cùng". Trong khi Sammà mang ý nghĩa:
"chánh trực, chơn chánh". Sammà ditthi do vậy có nguyên nghĩa là: sự thấy, hiểu biết chân chánh, chánh trực hay nhận thức
đúng, rõ ràng như thật. Các kinh Thánh Ðạo (Trung A Hàm 189), kinh Maha Cattarisanka (Trung Bộ III - số 114), kinh
Chánh tri kiến (Trung Bộ I - số 9) đã đề cập đến Chánh tri kiến như sau:


- Hiểu rõ về 4 sự thật (tứ đế), duyên khởi - vô ngã, mối liên hệ nhân quả trong sự vận hành, từ nguồn gốc sanh tạo đến đoạn
diệt và phương thức tu tập để đoạn diệt các thức ăn nuôi dưỡng ái dục là chánh tri kiến.


- Biết được thiện và bất thiện, các tính chất căn bản của chúng là chánh tri kiến.
- Sự am tường về 5 uẩn của tự thân và thế giới là chánh tri kiến.


<i><b>2)- Chánh tư duy (Sammà samkappa): Chánh tư duy là chi phần thứ hai trong bát chánh đạo sau chánh tri kiến. Do sự hiểu </b></i>
biết, cái nhìn chân chánh mà sự suy niệm hay ý nghĩ đúng đắn phát sinh. Quá trình suy niệm liên tục sẽ hình thành các tư
tưởng (thoughts). Chánh tư duy vì vậy là kết quả của quá trình trầm tư lâu dài, định hình các tư tưởng hay hệ tư tưởng chánh
trực. Tương tự như chánh tri kiến, các tư duy được gọi là chân chánh khi chúng được tạo ra từ sự chuyên chú khảo sát về tứ
đế, duyên khởi - vô ngã, 5 uẩn... Những tư tưởng nào không phản ánh được nội dung của 4 sự thật, duyên khởi - vô ngã là tư
tưởng sai lầm hay còn gọi là tà tư duy như đức Phật đã tuyên bố: "Ai thấy duyên khởi là thấy pháp. Ai thấy pháp là thấy Như
Lai" (Tương Ưng III, tr.144).



</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

Tà ngữ là những lời nói - ngơn hạnh sai lạc gồm 4 biểu hiện: nói dối (vọng ngữ), nói lời ác (ác khẩu), nói hai lưỡi (lưỡng
thiệt) và ỷ ngữ. Trong kinh ví dụ cái cưa (Trung Bộ kinh I - số 21), đức Phật dạy về 5 loại ngữ hành mà một người tu tập
chánh ngữ cần thực hành:


- Nói đúng thời, khơng nói phi thời;


- Nói lời chân thật, khơng nói lời hư ngụy;
- Nói lời nhu hịa, khơng nói lời thơ bạo;
- Nói điều lợi ích, khơng nói điều vơ ích;


- Nói lời xuất phát từ lịng từ, khơng nói lời xuất phát từ lòng sân.


<i><b>4)- Chánh nghiệp (Samma kammanta): Nghiệp (Kamma) là hành vi có tác ý. Một hành động hay hành vi xuất phát từ nhận</b></i>
thức và tư duy chân chánh được gọi là chánh nghiệp. Ngược với chánh nghiệp là tà nghiệp. Sự từ bỏ các hành vi bất thiện
thuộc tà nghiệp - như giết hại, chiếm đoạt tài sảãn của người khác (bao gồm cả hối lộ, nhận hối lộ, thâm lạm công quỹ...), tà
hạnh trong các dục (như nam nữ quan hệ bất chính, tự thủ dục...) - là những hành vi chân chánh hay chánh nghiệp.


Nguồn gốc của mọi hành vi thuộc tà nghiệp đều dẫn khởi từ ba yếu tố: lòng tham lam, sự sân hận và sự ái luyến si mê. Với
nhận thức và tư duy thanh tịnh không uế nhiễm, người tu tập nỗ lực loại trừ tất cả mọi tư tưởng luyến ái, lòng thù hận. Tâm
thức trở nên thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì đời sống cũng trong sạch. Chánh nghiệp do vậy cũng là đời sống trong sạch,
gương mẫu, chánh trực.


<b>5)- Chánh mạng (Sammà àjìva): Yếu tố hay chi phần thứ năm trong Bát thánh đạo là Chánh mạng. Trong tự điển Pàli, </b>
Ajìva có nghĩa là sự nuôi sống, sự sanh sống, hàm nghĩa các hoạt động lao động chân tay hay trí não để ni sống sinh
mạng. Mọi hoạt động nghề nghiệp sinh nhai được hiểu là chân chánh khi chúng không được thực hiện bằng sự xảo trá, lừa
lọc, làm hại đến bản thân, gia đình, xã hội và quốc gia (dù của người hay của mình) như bn bán độc dược, heroin, vũ
khí,... Luận Thanh Tịnh Ðạo giải thích: "Chánh mạng có đặc tính là làm sạch. Nhiệm vụ của nó là đem lại sự phát sinh một
nghề sinh nhai thích đáng. Nó được biểu hiện bằng sự từ bỏ tà mạng" (sđd, tr.41).


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

- Nỗ lực làm tiêu trừ các bất thiện pháp đã phát sanh như các tật xấu, khiếm khuyết của bản thân.


- Nỗ lực ngăn ngừa, dập tắt các ác pháp đang hoặc chưa phát sanh.


- Nỗ lực làm phát sanh các thiện pháp như các tư tưởng, hành vi, ngơn ngữ có chất liệu từ bi, vô ngã, hy sinh, phụng sự...
- Nỗ lực trau dồi và làm tăng trưởng các thiện pháp đã phát sanh.


Các phạm trù thiện, ác thuộc đạo đức, luân lý được thể hiện qua hành vi của thân, lời nói của miệng và tư tưởng của ý. Do
đó, chánh tinh tấn cịn là năng lực kiểm soát chuyên chú các hoạt động của thân, khẩu và ý.


<i><b>7)- Chánh niệm (Sammà sati): Sati theo Pàli ngữ mang nghĩa: sự ghi nhớ, sự chú tâm, thường được dịch là Niệm. Chánh </b></i>
niệm là sự chú tâm quán tưởng 4 đề mục: thân thể, cảm thọ, tâm thức và các pháp. Sự chú tâm và ghi nhớ, suy nghĩ thường
trực về 4 đề mục trên đưa đến sự loại trừ 4 tà niệm:


- Thân thể là một hợp thể bất tịnh mà cho là đẹp đẽ, thanh tịnh, đáng ưa thích.


- Các cảm thọ (bao gồm tất cả các trạng thái, thái độ tâm lý của các quan năng 6 căn khi tiếp xúc 6 trần) dù là đau khổ, vui
sướng hay vơ kí (1) đều do nhân duyên sanh, có khuynh hướng đưa đến khổ (dukkha) mà cố chấp là hạnh phúc, an lạc.
- Tâm lý, tâm thức con người luôn thay đổi, vô thường mà bảo thủ cho là trường tồn.


- Mọi sự vật, hiện tượng trên đời luôn chuyển biến theo vô ngã mà chấp là có ngã, khơng phải do nhân dun sanh.


Luận Thanh Tịnh Ðạo viết: "Khi hành giả nỗ lực như thế (tức luôn chú tâm trên 4 đề mục) sự không quên lãng trong tâm
tương ưng chánh kiến, rũ bỏ tà niệm, thì gọi là chánh niệm. Nó có đặc tính là an lập. Nhiệm vụ của nó là không quên" (sđd,
tr.41).


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

<b>II- Liên hệ giữa Bát thánh đạo và Giới, Ðịnh, Tuệ</b>


Con đường đưa đến giác ngộ theo 8 chi phần thánh đạo tuy không mơ tả đầy đủ về 3 nhóm Giới luật, Thiền định và Trí tuệ
nhưng về đặc tính thực nghiệm, chúng luôn được bao gồm trong ba môn học vô lậu: Giới, Ðịnh, Tuệ. Ðức Phật đã giảng rõ:
"Hiền giả Visakha, tám thánh đạo không bao gồm trong ba uẩn, nhưng ba uẩn bao gồm được cả tám thánh đạo. Bất cứ chánh
ngữ nào, chánh hành nghiệp nào, chánh mạng nào, đều thuộc Giới uẩn. Bất cứ chánh tinh tấn nào, chánh niệm nào, chánh


định nào, đều thuộc về Ðịnh uẩn. Bất cứ chánh kiến nào, chánh tư duy nào đều thuộc về Tuệ uẩn" (Tiểu kinh Phương Quảng
<i>- Trung Bộ I, số 44).</i>


Sự liên hệ giữa các chi phần trong bát chánh đạo với ba nhóm giới luật, thiền định và trí tuệ khơng phải là mối liên hệ khách
quan, máy móc, chúng biểu thị tính nhất quán trong học tập giáo lý và thực nghiệm. Có thể giải thích theo hai hướng: Sự
liên hệ giữa các chi phần trong nhóm và sự liên hệ giữa ba nhóm Giới, Ðịnh và Tuệ.


<i><b>1)- Liên hệ về tính chất thực nghiệm giữa các chi phần trong nhóm: </b></i>


- Các chi phần chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng được xếp chung vì có tính chất chung loại. Lời nói, hành vi cuộc sống
và nghề nghiệp đều biểu hiện ở thân và khẩu. Vì vậy chúng được xếp vào nhóm Giới.


- Niệm, nhất tâm và tinh tấn là ba yếu tố hỗ tương đưa đến Ðịnh. Luận Thanh Tịnh Ðạo giải thích: "Ðịnh khơng thể tự bản
chất làm phát sinh an chỉ, nhưng với tinh tấn hoàn tất nhiệm vụ nỗ lực, niệm làm nhiệm vụ ngăn ngừa dao động, thì Ðịnh có
thể đạt đến an chỉ" (sđd, tr.42).


- Tuệ gồm chánh kiến và chánh tư duy. Ngoài sự nhận thức, hiểu biết là biểu hiện cụ thể của trí tuệ, tư duy hay tư tưởng
cũng được xếp vào Tuệ uẩn. Vì sao ? Ngài Buddha Ghosa Thera (Phật Âm) giải thích: "Tuệ (tức chánh kiến) tự nó khơng
thể định rõ một vật là vô thường, khổ, vô ngã. Nhưng với tầm - tư duy trợ lực, bằng cách liên tục đánh vào đối tượng, thì có
thể... Bởi thế, trong Tuệ uẩn chỉ có chánh kiến là đồng loại, nhưng chánh tư duy cũng được hàm trong đó, vì chánh tư duy
trợ lực cho chánh kiến" (sđd, tr.43).


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

tu tập theo căn tánh, tam vơ lậu học được trình bày khởi từ nhóm Tuệ. Các kinh Chánh Tri Kiến, kinh Ðại Tứ Thập xác định
chánh kiến là chi phần chủ yếu của Bát thánh đạo. Tất cả các chi phần cịn lại đều phải có mặt của chánh kiến hay q trình
tu tập Giới và Ðịnh ln phải song hành với Tuệ.


<b>III- Hai con đường</b>


Như đã nêu, đạo là con đường tu tập chuyển hóa đưa đến thánh quả. Trong kinh Ðại Tứ Thập, Ðức Phật đã dạy về hai con
đường của các bậc hữu học và vơ học (2): "Do có chánh kiến, chánh tư duy khởi lên; do có chánh tư duy, chánh ngữ khởi


lên; do có chánh ngữ, chánh nghiệp khởi lên;..., do có chánh định, chánh trí khởi lên; do có chánh trí, chánh giải thốt khởi
lên. Như vậy, này các Tỳ kheo, con đường của vị hữu học gồm có tám chi phần và con đường của vị A La Hán gồm có mười
chi phần" (tr.191).


Do đó, Bát chánh đạo cũng có hai loại: hữu lậu và vơ lậu. Dù được trình bày dưới hình thức 8 chi phần hay 10 chi phần,
trọng điểm của việc tu tập Bát thánh đạo vẫn là đoạn trừ lậu hoặc, tham ái, chấp thủ. Sự phân loại trên chỉ nhằm mục đích
nhấn mạnh đến vai trị của trí tuệ (Chánh trí) trong việc giải thoát (Chánh giải thoát) mọi lậu hoặc khỏi tâm thức. Ðiều này
khẳng định tầm quan trọng của trí tuệ. Ðạo Phật là đạo của trí tuệ như kinh Bát Ðại Nhân Giác đã viết: "Duy tuệ thị


<b>nghiệp".</b>


<b>IV- Tu tập Bát thánh đạo</b>


Cũng như tất cả giáo lý khác, Bát thánh đạo là giáo lý hướng đến và phục vụ cho cuộc sống. Vì vậy, học tập Bát thánh đạo
không thể dừng lại ở mức độ khảo sát, tìm hiểu. Chúng cần được thể nghiệm trong cuộc sống.


Con người là một tập hợp hai thành phần thân thể vật lý và đời sống tinh thần. Tu tập Bát thánh đạo vì vậy được đặt trên nền
tảng của hai phương diện: tu tập thân và tu tập tâm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

chỉnh khả năng đề kháng của cơ thể phù hợp với môi trường học tập, lao động, làm việc; góp ý và thực hiện cơng tác cải tạo
môi trường sinh thái và tăng cường rèn luyện cơ thể qua tập thể thao, sinh hoạt điều độ. Tu tập chánh niệm - chánh định về
thân là biết rõ và làm chủ các hoạt động của cơ thể, giữ trạng thái qn bình khơng để các dục làm kích động hay ức chế.
Trong kinh Thân Hành Niệm (Trung Bộ kinh - số 119), Ðức Phật dạy: "Này các thầy, khi bước tới, bước lui biết rõ việc
mình làm; khi ngó tới ngó lui biết rõ việc mình làm; khi ăn, uống, nhai, nếm...; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng
biết rõ việc mình làm. Trong khi vị ấy sống khơng phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thế tục được đoạn trừ.
Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh".


Tu tập Bát thánh đạo dù bất cứ chi phần nào cũng đều phải có mặt của chánh kiến. Do vậy, tự nhận thức và theo dõi, làm
chủ bản thân luôn là hai yếu tố không thể thiếu trong quá trình tu tập thân.



<i><b>2)- Tu tập tâm: Tâm thức luôn trôi nổi, biến động theo các điều kiện bên trong hay bên ngoài cơ thể. Tu tập thân khơng thể </b></i>
đặt ngồi phạm vi tu tập tâm và ngược lại. Khi tâm bị dao động hay ức chế bởi phiền não (kilesa), hoạt động thân thể sẽ rối
loạn ngay cả cái nhìn về cuộc đời cũng trở nên buồn thảm. Thơ ca vẫn để lại bao lời than oán, ngậm ngùi:


<i>"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,</i>


<i>Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" -- (Kiều, câu 1243-1244)</i>


Do vậy, tu tập tâm có tầm quan trọng đặc biệt trong việc ổn định cuộc sống. Toàn bộ kinh điển, luật, luận Phật giáo khơng đi
ra ngồi định hướng ấy. Nhận thức hay có chánh kiến, suy nghĩ tìm ra mối liên hệ nhân duyên trong liên hệ nội tại của các
trạng thái tâm lý và thái độ tâm lý ứng xử là bước khởi đầu để điều chỉnh, sửa đổi các hành vi thân khẩu (thuộc chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng) và cuối cùng là gột rửa khỏi tâm những bất thiện pháp, phiền não, ganh ghét, oán hận có nguồn
cội từ tham, sân, si. Nỗ lực tu tập thiền định (chánh định - chánh niệm) là con đường đặc biệt quan trọng, giải quyết tất cả
các rối loạn tâm lý của nhân sinh. Ðồng thời nó xác định tính chất đặc thù của Phật giáo, khác hẳn các tôn giáo khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

<b>C- Kết luận</b>


Thế giới hiện nay đang từng bước phát triển, đi vào đa phương hóa tồn diện. Nhiều học thuyết, lý thuyết triết học, đạo học
đang được tái thẩm định để tìm ra những giá trị ứng dụng cho nền văn minh hiện đại. Các nguyên lý, quy tắc đạo đức cổ lệ
cũng được thay đổi. Tuy nhiên, nếu phải tìm ra những phạm trù đạo đức chung để xây dựng và góp phần ổn định mọi rối
loạn trong cuộc sống nhân sinh thì Bát thánh đạo chính là định hướng cho đời sống cá nhân, gia đình và xã hội ở mọi quốc
gia trên thế giới. Chừng nào con người còn đau khổ, Bát thánh đạo vẫn còn là kim chỉ nam hướng dẫn mọi hành vi, lời nói
và tư tưởng thuộc tam nghiệp; chừng nào xã hội cịn có nhu cầu phát triển tốt đẹp, bát thánh đạo vẫn còn là định hướng tu
chính chính sách, đường hướng tổ chức hoạt động xã hội; và chừng nào mọi quốc gia trên thế giới còn mong muốn đem lại
an lạc cho nhân loại, chừng đó bát chánh đạo vẫn là đóng góp của Phật giáo vào tiếng nói chung của nhân loại trong tiến
trình hịa bình thế giới. Có thể khẳng định giá trị của tám phần thánh đạo như một bản đồ tu tập cho mọi người ở mọi thời
đại. Ðây cũng là ý kiến được rút ra từâ kinh nghiệm tu tập của Giáo sư Rhys Davids, chủ tịch hội Pàli Text Society:


"Dầu là Phật tử hay không phải Phật tử, tôi nghiên cứu từng hệ thống tôn giáo lớn trên thế giới, và trong tất cả, tôi khơng tìm
thấy trong tơn giáo nào có cái gì tốt, cao đẹp và toàn vẹn hơn Bát thánh đạo của đức Phật. Tơi chỉ cịn có một việc làm là thu


xếp nếp sống tôi cho phù hợp với con đường ấy". (Ðức Phật và Phật pháp, 1989, tr.295,bd).


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

<b>Chương VII Nhân quả</b>



<b>Khải Thiên</b>


<b>A- Dẫn nhập</b>


Héraclite, một triết gia Hy Lạp cổ đại, bảo rằng: "Khơng ai có thể đặt chân hai lần trên cùng một dịng nước". Ðiều đó đã nói
lên sự chuyển biến liên tục của con người và thế giới sự vật hiện tượng. Tất cả hiện hữu ấy đều là hiện hữu của tương dun,
chúng ln diễn ra trong vịng nhân quả. và cũng chính trong mối tương quan nhân quả này mà vấn đề luân lý đạo đức Phật
giáo được đặt ra dưới tên gọi của nghiệp thiện và ác. Do đó, nói đến nhân quả - nghiệp báo là nói đến một tiến trình tạo tác
của con người, và từ đó hình thành đời sống an lạc hoặc khổ đau cho mỗi con người; trong đó, mỗi tư duy và hành động cụ
thể là một nguyên động lực kiến tạo nên trạng thái tâm lý an hay bất an, kiến tạo nên cuộc sống hạnh phúc hay bất hạnh. Tất
nhiên, trong suốt tiến trình tạo tác (nhân quả - nghiệp báo) đó, con người ln ln đóng vai trị trung tâm và chủ động. Ở
đây, theo lời Ðức Phật dạy, khơng hề có bất kỳ một sự chi phối nào bởi một quyền năng, bởi một đấng tạo hóa, thần thánh
v.v... trong tiến trình tạo tác ấy, mà chỉ có con người và các hành động tâm lý của nó mà thơi.


<b>B/- Nội dung</b>
<b>I- Ðịnh nghĩa</b>


Các tơn giáo nói chung đều có quan niệm khác nhau về nhân quả. Ở đây, chúng ta chỉ tìm hiểu thuần túy về nhân quả theo
quan niệm của Phật giáo.


<i>Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả. Trong thế giới tương quan duyên sinh, mỗi sự vật, hiện tượng đều có những nguyên </i>
nhân của nó. Nguyên nhân của một sự thể (pháp) gọi là nhân, và hiện hữu (pháp) của sự thể đang tồn tại là quả. Trong mối
tương quan nhân quả này, mỗi hiện hữu vừa là nguyên nhân vừa là kết quả như sự tuần hoàn của mây, mưa, nước, hơi


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

<b>II- Nội dung</b>



Trong tương quan nhân quả, như đã đề cập, cịn có các yếu tố dun (trung gian) xen vào; do đó, sự thành tựu một quả hẳn
là cịn tùy thuộc vào các dun. Vì thế, ở đây chúng ta cần ghi nhận một số điểm như sau:


* Trong giáo thuyết nhân quả, một nhân không thể đưa đến một quả, hay một quả không thể chỉ có một nhân. Và nhân quả
thường là đồng loại. Ví dụ: trứng gà chỉ nở ra con gà, chứ khơng thể có trường hợp trứng gà nở ra con vịt. Như thế là khơng
có sự lẫn lộn trong đồng loại.


* Nhân quả tuy cùng một giống (đồng loại), nhưng do các duyên trung gian xen vào, cho nên có thể quả cùng loại với nhân
nhưng vẫn khác với nhân. Ví dụ: một nắm muối nếu bỏ vào tơ canh thì mặn, nhưng nếu bỏ vào hồ nước mênh mơng thì
khơng mặn. Sự khác biệt này tùy thuộc vào các duyên (thuận hay nghịch) và theo đó mà quả hình thành.


* Nhân quả - nghiệp báo là sự hiện hữu của các mối tương quan thiện-ác, chánh-tà v.v..., nó thuộc pháp hữu vi sanh diệt vốn
là hiện thân của ý niệm phân biệt; do đó, với tâm thanh tịnh và xả ly thì vấn đề nhân quả - nghiệp báo khơng cịn được bàn
đến.


<b>III- Phân loại nhân quả</b>


Thơng thường, một quả khi hình thành nó cần có đầy đủ ngun nhân chính và các nhân duyên phụ, cho nên nhân quả được
xét đến qua nhiều góc độ như thời gian, khơng gian, vật lý, tâm lý v.v...


<i><b>1- Phân loại 1 (theo thời gian):</b></i>


a- Nhân quả đồng thời: Là loại nhân quả mà từ nhân đi đến quả rất nhanh. Ví dụ: ăn thì no, uống nước thì hết khát, tức giận
thì buồn phiền v.v...


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

* Hiện báo: Nghĩa là nghiệp nhân trong đời này đưa đến quả báo ngay trong đời này. Ví dụ: tuổi nhỏ lo học hành chăm chỉ
nên lớn lên trở thành người có tri thức.


* Sinh báo: Nghĩa là tạo nhân trong đời này nhưng đến đời sau mới thọ quả báo. Ví dụ: kinh Ðịa Tạng bảo rằng ai hay trêu
chọc người, đời sau sẽ thác sinh vào loài vượn, khỉ.



* Hậu báo: Nghĩa là tạo nhân trong đời này nhưng đến các đời sau mới thọ quả báo (xem Truyện tiền thân, Bổn Sinh, Bổn
<i>Sự).</i>


Ba thời nhân quả này vì có một thời gian tương đối ổn định (có khoảng cách), do đó chúng được xếp vào loại định nghiệp.
Cũng có trường hợp do các nhân duyên trung gian can thiệp mạnh vào làm cho nghiệp quả trở nên khó xác định về thời gian
và chủng loại. Trong trường hợp này, chúng được gọi là bất định nghiệp. Ba thời nhân quả, đồng thời cũng là câu trả lời tại
sao (một số trường hợp) có người làm lành trong đời này lại gặp những điều bất hạnh, và ngược lại, người làm việc ác lại
gặp may mắn.


<i><b>2)- Phân loại 2 (theo vật lý và tâm lý): Cách phân loại này nhằm chỉ đến sự biểu hiện của nghiệp quả thông qua thái độ tâm </b></i>
lý tiếp thọ nghiệp, đồng thời nói lên những khoảng cách khác nhau của nghiệp quả giữa tâm lý và vật lý, giữa nội tâm và
ngoại cảnh.


a- Nội tâm và ngoại giới: Nhân quả biểu hiện ở trong tâm lý của con người được gọi là nhân quả nội tâm (nội giới) và ngược
lại là ngoại cảnh (ngoại giới).


Như trường hợp một vị sư bị vu khống phải ở tù, thân vị ấy ở trong tù nhưng tâm vị ấy thì an định, ly thủ, giải thoát. Như
thế, nghiệp quả chỉ biểu hiện ở thân chứ không biểu hiện ở tâm.


b- Tâm lý và vật lý: Sự biểu hiện khác nhau của nhân quả trên cùng một con người được chia thành hai phần: tâm lý và vật
lý.


Như một người có thân thể (thể chất vật lý) xấu xí, khó nhìn, nhưng tâm thì thơng minh và sáng suốt, hiền từ, độ lượng và tu
tập tốt (tương tự như vậy đối với các trường hợp ngược lại).


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

<b>IV- Các phạm trù nhân quả</b>


Có thể nói rằng, nhân quả là giáo lý gắn liền với đời sống tu tập của hàng Phật tử, gắn liền với các vấn đề luân lý đạo đức
của con người; và nhân quả đã nghiêm túc đặt ra vấn đề trách nhiệm của con người đối với chính tự thân cũng như xã hội.


Bởi lẽ, Ðức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp" (Tăng Chi II, HT Thích Minh Châu,
Viện Phật học Vạn Hạnh, 1982, tr.101). Từ đó, nhân quả được bàn đến thông qua các phạm trù cơ bản của đời sống con
người.


<i><b>1- Nhân quả - vấn đề luân lý đạo đức Phật giáo: Trước hết, giáo lý nhân quả dạy con người thức tỉnh trong các hành động </b></i>
tạo tác của mình để xa lánh các việc ác và nỗ lực làm các việc lành nhằm đem lại sự an vui, thanh bình cho cuộc sống. Giáo
lý nhân quả chú trọng đến vấn đề thiện ác, tức là vấn đề luân lý đạo đức của con người nói chung và của hàng Phật tử nói
riêng. Tuy nhiên, vấn đề trọng yếu của giáo lý nhân quả là ở chỗ nó đặt ra trách nhiệm cá nhân của mỗi con người đối với
các điều kiện sống của con người ấy. Do đó, khơng thể quy ước giáo lý nhân quả - tức luân lý đạo đức Phật giáo - theo
khuôn mẫu ước lệ như luật pháp được ban hành trong xã hội. Chẳng hạn, một người phạm tội, luật pháp sẽ trừng phạt y khi
hành vi phạm tội được xác định - nghĩa là y đã thực hiện điều tội lỗi, Trong khi, với đạo đức và luân lý, anh ta sẽ có tội ngay
khi những ý niệm tội lỗi (xấu ác) phát sinh trong tâm của y, mặc dù đó chỉ là ý niệm chứ chưa phải là hành vi. Do đó, trách
nhiệm cá nhân theo giáo lý nhân quả, ở đây, là trách nhiệm cao nhất đối với thái độ tâm lý đạo đức của mỗi con người, mà
không phải là trách nhiệm theo quy ước luật pháp trong xã hội.


Trong một số trường hợp, những người khơn ngoan có thể chạy trốn pháp luật, nhưng với luân lý đạo đức, họ khơng thể
chạy trốn lương tâm của chính mình. Vì thế, nếu đứng trên phương diện giáo dục, giáo lý nhân quả thực là một phương pháp
giáo dục vô cùng lành mạnh và tích cực. Vì ngay từ đầu, tinh thần nhân quả đã đưa con người về với chính nó. Con người
phải hồn tồn chịu trách nhiệm về những tư duy và hành động của chính mình. Hạnh phúc hay khổ đau là do mình tự tạo
cho mình. Ở đây khơng hề có một sự trừng phạt hay ban thưởng nào, cũng khơng có một giáo điều hay tín lý nào có thể thiết
lập trên cơ sở nhân quả của Phật giáo. Một nền luân lý đạo đức như thế, nhân bản và tích cực như thế, trí tuệ và đầy tình
người như thế, nếu được áp dụng vào mỗi con người, gia đình, học đường và xã hội; ắt hẳn sẽ đưa đến một cuộc sống an lạc,
hạnh phúc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

đầu của con người để đi vào đạo. Nhưng đối với Phật giáo, sự giác ngộ và giải thốt khơng chỉ dừng lại ở lĩnh vực nhân
quả-thiện ác, mà nó cịn đi xa hơn nữa, đó là đi ra khỏi thế giới phân biệt, đối đãi giữa quả-thiện-ác (thực tại giải thốt).


Vì lẽ, Ðức Phật dạy các pháp là vô ngã. Do đó, mọi sự phân biệt thiện-ác, chánh-tà... đều là sản phẩm của ý niệm vốn sanh
khởi từ sự có mặt của ngã tưởng. Ở đây, điều tối quan trọng là hãy nỗ lực tư duy và nhận ra rằng khơng hề có mặt bất luận
một ngã tưởng nào thực sự hiện hữu; tất cả là vô ngã. Khi nhận ra điều này nghĩa là đã bước lên đường để đi vào thế giới


thực tại giải thoát - một thế giới vượt lên trên mọi ý niệm phân biệt, mọi ngã tưởng điên đảo, thế giới của sự thanh tịnh, xả ly
và vô niệm. Tại đây, thần chết sinh tử của nhân quả khơng cịn nữa, vì rằng khi ngã tưởng được bng bỏ thì tham ái và chấp
thủ sẽ tiêu tan, và khi ngã tưởng, tham ái và chấp thủ bị đoạn diệt thì trụ cột của thế giới tương quan nhân quả của nghiệp
báo thiện ác đã bị sụp đổ; đây là ý nghĩa của Niết bàn tối thượng.


<b>V- Một số nhận định về giáo lý nhân quả</b>


Qua các phần được trình bày ở trên, nhân quả có vị trí rất quan trọng trong việc giải thích sự khác biệt nghiệp quả ở mỗi con
người, và sự thiết lập nên một nền tảng đạo đức luân lý Phật giáo rất nhân bản và tích cực. Nhân quả theo Phật giáo không
phải là định mệnh, cũng khơng mang tính chất tiền định cố hữu. Bởi lẽ, sự hiện hữu của con người không đơn giản chỉ tùy
thuộc vào các nhân đã gieo trong đời sống q khứ, mà nó cịn tùy thuộc ngay nơi các hành động (nghiệp mới) tạo tác trong
hiện tại. Ðiều này cũng khai phóng cho con người một lối đi năng động, tích cực để vượt qua mọi trở ngại của nghiệp quả,
thậm chí có thể chấm dứt dòng sinh tử khổ đau ngay tại cuộc đời này. Thực ra, theo lời Ðức Phật dạy, tất cả nghiệp quả (của
vô lượng kiếp quá khứ) đã tập trung vào thân năm uẩn này rồi, vấn đề còn lại là hành vi tạo tác (xúc) giữa thân căn và thế
giới, nói cụ thể là những nghiệp mới được tạo tác thông qua sự giao tiếp giữa 6 căn, 6 trần để ý thức (hay 6 thức) cảm thọ
vui, buồn, khổ, lạc hoặc không khổ, không lạc mà thơi. Từ đó, lối đi của giải thốt chân thực, thực sự không phải là nghiệp
quả của năm uẩn, mà chính là hành vi tạo tác của năm uẩn. Cho đến khi nào chúng ta ngộ được rằng năm uẩn là vơ ngã,
chúng khơng có tự tánh và khơng cịn tham ái và chấp thủ năm uẩn là ta, là của ta, là tự ngã của ta; ngay lúc đó, nhân quả -
nghiệp báo sẽ khơng cịn hiện hữu.


Trong kinh điển, thảng hoặc có nói về nhân quả xuất thế gian, nhưng thực ra, nếu ngay tại thế gian này mà phiền não, lậu
hoặc đã được đoạn tận thì xuất thế chính là tại thế, cũng như hoa sen đã vươn lên khỏi mặt nước và nở rộ giữa hư không vô
tận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

Nhân quả - nghiệp báo là pháp duyên sinh, do đó khơng có lý do gì mà nó thường trụ vĩnh hằng. Vấn đề là nỗ lực tận dụng
năng lực của trí tuệ soi sáng bóng mờ của tự ngã để đi vào chân trời thực tại như thực; đó chính là hình ảnh của bậc A La
Hán đã chấm dứt dòng sinh tử luân hồi ngay trên mảnh đất trần thế này.


Và đối với người Phật tử, cần phải hiểu rõ nhân quả, xây dựng niềm tin trên cơ sở của nhân quả, để từ đó kiến tạo cho mình
một đời sống thanh bình, an lạc. Kinh Pháp Cú, Ðức Phật dạy rằng: "Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ tạo tác, đối với ý nhiễm


<i>ơ, nói năng hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe (đi) theo chân vật kéo, ... đối với ý thanh tịnh, an lạc bước theo </i>
<i>sau, như bóng khơng rời hình"</i>./.


<b>Nghiệp (Karma)</b>



<b> Thích Tâm Thiện</b>



<b>A- Dẫn nhập</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

<b>B- Nội dung</b>
<b>I- Ðịnh nghĩa</b>


Nghiệp là gì? Theo từ nguyên, nghiệp, tiếng Sanskrit gọi là karma, Pàli gọi là kamma, có nghĩa là hành động có tác ý


(volitional action). Nói cách khác, nghiệp luôn luôn được bắt nguồn từ những tạo tác của tâm (ý) thông qua những hoạt động
của thân, miệng và ý, gọi chung là tam nghiệp. Do đó, một hành động (tạo tác) nếu không phát sinh từ tâm thì khơng thể gọi
là nghiệp, mà hành động ấy chỉ được gọi là hành động hay hành động duy tác (kriyà). Và như vậy, định nghĩa của nghiệp là:
<i>hành động có tác ý, hay hành động được phát sinh từ tâm.</i>


<b>II- Nội dung của nghiệp</b>


Thơng thường, nói đến nghiệp là nói đến vấn đề thiện, ác trong vòng sinh diệt và tương tục của đời sống con người. Thông
qua việc tạo nghiệp (thiện hay ác) mà con người tự xây dựng cho mình một định nghiệp - một đời sống khổ đau hay hạnh
phúc. Nhưng khổ đau hay hạnh phúc là những cảm nhận của riêng mỗi con người khác nhau và nó là những pháp sinh diệt,
tương tục trên cơ sở tâm lý khác nhau. Vì thế, sẽ khơng có một khn mẫu ước lệ nào có thể quy ước một cách đầy đủ về
nghiệp. Tuy nhiên, cơ sở của nghiệp là tâm (ý), do đó, khảo sát về nghiệp chính là khảo sát về cội nguồn của tâm. Ðức Phật
dạy:


<i>"Ý dẫn đầu các pháp</i>
<i>Ý làm chủ tạo tác</i>


<i>Nếu với ý nhiễm ơ (ác)</i>
<i>Nói năng hay hành động</i>


<i>Khổ não bước theo sau</i>


<i>Như chiếc xe theo chân con vật kéo" -- (Dhp 1)</i>
<i>"Ý dẫn đầu các pháp</i>


<i>Ý làm chủ tạo tác</i>
<i>Nếu với ý thanh tịnh (thiện)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

<i>An lạc bước theo sau</i>


<i>Như bóng khơng rời hình" -- (Dhp 2)</i>


Qua bài kinh trên, chúng ta nhận rõ rằng chính mối tương quan nhân-quả từ nơi tâm ý của con người đã hình thành nên cái
nghiệp thiện hay ác mà con người phải thọ nhận. Vì thế, Ðức Phật dạy về nghiệp là nhằm đánh thức con người thức tỉnh từ
nơi tâm ý của chính mình (tự tịnh kỳ ý) để từ đó đi vào một đời sống an lạc giải thoát. Tất nhiên, cái mà gọi là nghiệp ở đây
là những gì thuộc pháp hữu lậu (nghiệp hữu lậu), tức là những gì thuộc thiện-ác, khổ đau-hạnh phúc v.v..., nó gắn liền với
đời sống đạo đức, luân lý của con người, với những cảm thọ vui buồn - khổ lạc, mà khơng phải là những gì thuộc vơ lậu -
giải thốt. Do đó, trong một số trường hợp, khi các kinh văn đề cập đến nghiệp và lậu, chúng ta cần hiểu rằng đó là một lối
diễn đạt nhằm phân biệt giữa cái thiện, ác và cái đã thoát ly mọi ý niệm về thiện, ác. Chẳng hạn tham-sân-si là nghiệp bất
thiện, nghiệp ác; nhưng tự thân không tham-không sân-không si đã là thanh tịnh giải thốt rồi. Ở đây, trên phương diện nào
đó, không cần thiết phải gọi không tham-không sân-không si là cái nghiệp thiện, hay cái nghiệp thanh tịnh-giải thoát. Bởi lẽ,
thanh tịnh-giải thốt tự nó đã thốt ly mọi khái niệm thiện-ác, hữu-vô. Do vậy, khi bàn đến nội dung của nghiệp, ở đây


chúng ta chỉ thuần túy nói đến nghiệp thiện và nghiệp ác, tức là nghiệp hữu lậu mà khơng nói đến nghiệp vơ lậu. Cố nhiên,
định nghĩa "Nghiệp là hành động có tác ý hay hành động phát sinh từ tâm" chỉ được dùng cho tất cả nghiệp hữu lậu, tức là
mọi vấn đề liên quan đến thiện và ác.



<b>III- Phân loại nghiệp</b>


Thông thường, nghiệp được tạo tác trên cơ sở của thân, khẩu và ý. Tất nhiên, cả ba nghiệp trên đều xuất phát từ ý hay còn
gọi là tâm. Như thế, khi xét đến nghiệp của một con người là xét đến thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Ngoài ba nghiệp
này, khơng cịn một cái nghiệp nào khác. Tuy nhiên, nghiệp có những tính chất và chức năng khác nhau nên chúng được
phân làm nhiều loại và có nhiều tên gọi khác nhau.


<i><b>1)- Phân loại 1 (theo tên gọi): Theo trình tự, trước hết, giáo lý về nghiệp được chia thành hai loại:</b></i>
a- Nghiệp thiện: Tư duy và hành động về các điều lành như thực hành Ngũ giới và Thập thiện giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

Từ hai loại nghiệp trên, chúng ta phải xét đến quá trình tạo tác, tư duy và hành động để hình thành nên nghiệp (thiện hay ác).
Do đó, nếu xét về tiến trình của nghiệp (process of karma) thì nghiệp lại được chia thành hai loại nữa:


a- Nghiệp nhân: Những tư duy, hành động tạo nghiệp chưa đưa đến một kết quả.


b- Nghiệp quả: Những tư duy, hành động tạo tác sau một tiến trình đã tạo thành nghiệp, cịn gọi là nghiệp quả hay nghiệp
báo.


Trong thực tế, khi nói đến nghiệp, hàng Phật tử thường chú trọng đến nghiệp báo (nghiệp quả) hơn là nghiệp nhân. Và đây là
chỗ thiếu sót của chúng sanh khi đối diện với nghiệp. Và cũng chính điều này khiến cho chúng sanh quan tâm đến quả báo
hơn là gieo nhân. Nghiệp quả hay nghiệp báo cịn được gọi là quả dị thục (nghiệp đã chín muồi).


<i><b>2)- Phân loại 2 (theo tiến trình): Xét theo tiến trình (từ nhân đến quả) của nghiệp thì có hai loại nghiệp cơ bản:</b></i>


a- Ðịnh nghiệp: Là nghiệp được lưu chuyển trong thời gian ổn định và từ nhân đến quả thống nhất với nhau. Ví dụ, trứng gà
sau khi được ấp trong một thời gian sẽ nở ra con gà. Nói chung, các nghiệp nhất định sẽ đưa đến kết quả (như ăn thì sẽ no)
thì được gọi là định nghiệp.


b- Bất định nghiệp: Là nghiệp không dẫn đến kết quả, hoặc kết quả sẽ thành tựu trong thời gian bất định, hoặc có thể giữa
kết quả và ngun nhân khơng hồn tồn thống nhất với nhau, thì được gọi là bất định nghiệp.



<i><b>3)- Phân loại 3 (theo thời gian): Nếu căn cứ theo thời gian, chúng ta nhận ra hai loại nghiệp, một đã chín muồi và một đang</b></i>
và sẽ diễn tiến trong dòng nghiệp tạo tác:


a- Nghiệp cũ: Là nghiệp đã được tích lũy từ nhiều đời sống quá khứ, và hiện tại nó đã chín muồi. Chẳng hạn thân thể của ta
(cao, thấp, mập, ốm, thông minh, ngu đần, hạnh phúc hay bất hạnh v.v...) ngày nay là do cái nghiệp đã gieo từ trong vô thủy.
Các nghiệp quả (y báo và chánh báo) của thân này là quả dị thục của các nghiệp nhân từ vơ thủy. Ngồi thân này, khơng hề
có một cái nghiệp riêng lẻ, cũ xưa nào khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

vào tư duy và hành động của ngày hôm nay. Kinh Tương Ưng IV, Ðức Phật dạy: "Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý là nghiệp cũ.
Các hành động của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý trong hiện tại là nghiệp mới".


Trong Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã chỉ rõ cái nghiệp cũ và mới của con người:
<i>"Sư rằng phúc họa đạo trời</i>


<i>Cội nguồn cũng ở lịng người mà ra</i>
<i>Có trời mà cũng có ta</i>


<i>Tu là cội phúc, tình là dây oan"</i>


Họa và phúc (thiện, ác) là đạo trời, nhưng cái đạo trời ấy cội nguồn của nó chính ở tại lịng người (tâm, ý) mà sinh ra. Và
trời ở đây là nghiệp cũ, cịn ta chính là nghiệp mới.


<i><b>4)- Phân loại 4 (theo tính chất): Như đã trình bày, nghiệp báo là sự chín muồi (quả dị thục) của các nghiệp thuộc về bất </b></i>
thiện. Do đó, khi nói đến nghiệp báo (nghiệp quả) là nói đến tiến trình nhân - quả của nghiệp. Theo giáo lý về nghiệp, một
nhân không thể tạo thành một quả, mà phải có các duyên phụ trợ. Cho nên, nói đủ phải nói là nhân - duyên - quả. Duyên là
các nhân phụ làm cho nhân chính thành quả; như nước, phân, đất, sự cần mẫn chăm bón của con người (là các duyên) làm
cho hạt giống thành tựu nẩy nở. Vì thế, khi tìm hiểu về quả dị thục (sự chín muồi) của nghiệp, ta phải tìm hiểu về 3 đặc tính
sau:



a- Dị thời nhi thục: Thời gian chín muồi của nghiệp quả khác với thời gian tạo nghiệp (nghiệp nhân). Ví dụ như trái xoài,
thời điểm khi sinh ra cho tới khi nó chín muồi là khác nhau (khác thời mà chín).


b- Dị loại nhi thục: Kết quả bị biến chất (dị loại) so với thời gian mới tạo nghiệp. Ví dụ, trái xồi khi nhỏ thì chua, nhưng khi
chín thì ngọt (biến chất rồi mới chín).


c- Biến dị nhi thục: Kết quả bị biến thái và biến tướng (biến dị) so với thời gian mới tạo nghiệp. Ví dụ trái xồi non thì màu
xanh, đến khi chín thì màu vàng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

a- Tập quán nghiệp: Là nghiệp được huân tập bởi một thói quen trong đời sống hàng ngày. Có thể đó là thói quen thuộc tâm
lý, hành vi, cách ứng xử v.v... Ví dụ, hút thuốc lá là một tập quán nghiệp.


b- Tích lũy nghiệp: Là các nghiệp được tích lũy dần như rót nước vào thùng, có thể xem thân của ta như là một tích lũy
nghiệp từ vơ thủy.


c- Cực trọng nghiệp: Là các nghiệp gây ấn tượng xấu ác cực mạnh và sâu trong tâm lý của con người như phạm các tội ngũ
nghịch (giết cha, mẹ (giết người) v.v...).


d- Cận tử nghiệp: Là nghiệp lúc sắp chết hay những sức mạnh tâm lý của con người trước lúc tắt thở. Nghiệp này cực kỳ hệ
trọng trong việc hướng dẫn nghiệp thức đi tái sinh. Những tư tưởng cuối cùng của người sắp chết sẽ tạo nên một cận tử
nghiệp (thiện hoặc bất thiện). Một người có thể suốt đời làm ác, nhưng trước lúc tắt thở, nỗ lực sinh khởi ý thức về thiện
pháp, về những điều thiện trong đời, và nhờ ý lực đó có thể tái sinh vào cõi tốt đẹp (tương tự như vậy đối với trường hợp
ngược lại). Từ đó, qua những kinh nghiệm cận tử, chúng ta cần huân tập các thiện nghiệp trong đời sống của mình để tạo
thành một sức mạnh (ý lực) đoạn trừ các ác nghiệp ngay trong đời sống hàng ngày và cả đến giờ phút lâm chung.


<i><b>6)- Một số danh từ về nghiệp mà bạn cần biết:</b></i>
- Bạch nghiệp (nghiệp trắng): các nghiệp thiện
- Hắc nghiệp (nghiệp đen): các nghiệp ác


- Phi hắc phi bạch nghiệp: các hành động duy tác (không thiện không ác)


- Biệt nghiệp: nghiệp riêng của mỗi người


- Cộng nghiệp: nghiệp chung của tập thể (gia đình)
- Thánh nghiệp: nghiệp đưa đến thánh đạo


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

<b>IV- Thái độ tâm lý tiếp thọ nghiệp</b>


Ðây là một vấn đề vô cùng quan trọng trong giáo lý nghiệp báo. Vì mỗi người đều có cái nghiệp riêng do vơ minh, ái thủ đã
tạo nên, do đó đương nhiên phải đối diện với quả báo của mình. Sự trốn tránh nghiệp lực là điều vơ ích. Cụ Nguyễn Du,
trong Truyện Kiều, đã nói rằng:


<i>"Ðã mang lấy nghiệp vào thân</i>


<i>Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa</i>
<i>Thiện căn ở tại lòng ta</i>


<i>Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài"</i>


Vì thế, vấn đề quan trọng được đặt ra đối với người đang trên đường tu tập không phải là nghiệp báo mà chính là thái độ tâm
lý tiếp thọ nghiệp. Kinh Nipata, Ðức Phật dạy rằng: "Người đã tiêu diệt ảo kiến, phá tan lớp tối tăm dày đặc trong tâm sẽ
khơng cịn thênh thang đi mãi. Ðối với người ấy, vấn đề nhân quả (nghiệp báo) khơng cịn nữa".


Ðoạn kinh trên cho ta thấy rằng tâm lý của người giải thốt sẽ hóa giải mọi nghiệp lực của chính họ. Như một nhà sư vô cớ
bị tù, ở trong tù mà lịng thì vơ cùng bình an, khơng hề dao động; nghĩa là nhà sư ấy khơng cịn bị nghiệp lực chi phối nữa.
Chẳng hạn, cùng một hành động xảy ra đối với hai người, nhưng thái độ thọ nhận hành động (nghiệp) ấy của hai người thì
hoàn toàn khác nhau như trường hợp "nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột". Do đó, đối với nghiệp, thái độ tâm lý của
người tiếp thọ thì quan trọng hơn là chính cái nghiệp ấy. Ngài Huyền Giác, trong Chứng đạo ca, bảo rằng: "Sát na diệt
khước A Tỳ nghiệp", có nghĩa là khi đã giác ngộ thì mọi nghiệp chướng (nặng như A Tỳ) trong tích tắc cũng đều băng tiêu.
Vì lý do này, nên trong kinh thường nói đến thọ nghiệp (chịu đựng nghiệp) và phi thọ nghiệp (không bị chi phối bởi nghiệp).
<b>C- Kết luận</b>



Ðức Phật dạy rằng: "Không ai làm cho ta nhiễm ô, cũng không ai làm cho ta trong sạch; trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta,
chỉ có ta làm cho ta ơ nhiễm, chỉ có ta làm cho ta trong sạch" (Dhp). Lời dạy trên đã mở ra cho con người một hướng đi rất
chủ động trong việc tạo nên một đời sống an lạc giải thoát ngay tại cuộc đời này./.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

<b>-oOo-Luân hồi</b>



<b> Thích Tâm Thiện</b>


<b>A- Dẫn nhập</b>


Luân hồi là một thể tài rất sinh động và rất được quan tâm đối với con người. Chết rồi sẽ đi về đâu? Tại sao sinh, rồi tái
sinh? Có cõi âm hay khơng? v.v... Ðó là những dấu hỏi lơ lửng trong tâm của phần lớn của nhân loại. Các nền tín ngưỡng và
tơn giáo trên thế giới đều có những quan niệm khác nhau về luân hồi. Riêng đối với Phật giáo, luân hồi không phải là một
giáo lý đặc thù, cũng không phải là một vấn đề triết học cơ bản, nhưng nó là một sự thật hiển nhiên đối với những con người
còn bị trầm luân trong sanh tử khổ đau. Do đó, trong các kinh điển của cả Nam tạng và Bắc tạng đều thảng hoặc đề cập đến
vấn đề luân hồi, như là một hiện tượng trôi chảy của những đời sống nối tiếp nhau. Ðặc biệt là trong Bổn Sinh (Tiểu Bộ
kinh) đã ghi lại các mẩu chuyện tiền thân của Ðức Phật, như là một xác chứng hùng hồn về cuộc sống luân hồi của một vị
đại Bồ Tát.


<b>B- Nội dung</b>
<b>I- Ðịnh nghĩa</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

Ðức Phật dạy:
<i>"Ðêm dài đối với kẻ thức</i>
<i>Ðường dài đối với kẻ mệt</i>
<i>Luân hồi dài đối với kẻ ngu</i>


<i> Không biết rõ chân diệu pháp" -- (PC 60)</i>
<b>II- Nội dung</b>



Sau khi thành đạo tại cội bồ đề, một trong những tun ngơn (khải hồn ca) đầu tiên của Ðức Phật đã được cất lên giữa dòng
đời với nội dung giải thốt vịng ln hồi - trầm luân, đã được ghi lại trong kinh tạng như sau:


<i>"Trong dịng sống chết vơ tận</i>
<i>Ta đi mãi khơng dừng</i>


<i>Từ bào thai này sang bào thai khác</i>
<i>Ðuổi theo người chủ ngôi nhà</i>


<i>(trong vòng luân hồi)</i>


<i>Chủ nhà ! Ta đã nắm được ngươi rồi</i>
<i>Ngươi không cất nhà lại được</i>


<i>Cột kèo đã gãy hết</i>
<i>Mái, rường đã sụp đổ</i>


<i>Tâm lìa hết tạo tác</i>
<i>Tất cả đã diệt trừ xong</i>


<i>(giải thốt khỏi vịng ln hồi) -- (Pháp Cú - 153-154)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

Thơng thường, khi nói đến luân hồi - tái sinh, trong Phật giáo thường đề cập đến hai khái niệm cơ bản về sự sinh tử, đó là:
a)- Chu kỳ sinh tử của từng sát na


b)- Chu kỳ sinh tử của một đời sống


* Về chu kỳ sinh tử của từng sát na, vì nó diễn ra quá nhanh chóng như sự sinh ra rồi mất đi của một làn chớp (điện chớp)
mà thuật ngữ Phật học gọi là "niệm niệm - sinh diệt" (sự sinh tử diễn ra trong từng ý niệm), do đó vấn đề chỉ được bàn đến


trên một bình diện cao hơn, như trong thiền định, hoặc các cảnh giới của tâm thức v.v...


* Về chu kỳ sinh tử của một đời sống, do tính cách giới hạn của một chu kỳ sống, nghĩa là có thể ghi nhận qua bốn giai


đoạn: sanh, lão, bệnh, tử và / hoặc sinh thành (sinh), tồn tại (trụ), biến chuyển (dị) và hoại diệt (diệt) của một chúng sinh, nên
chu kỳ này trở thành chủ đề nghiên cứu về luân hồi - tái sinh.


Theo quan điểm của Phật giáo, tất cả mn lồi chúng sinh đều phải chịu sự chi phối của định luật vô thường. Ðối với con
người, vơ thường chính là sự biểu hiện của sinh, lão, bệnh, tử trải qua nhiều kiếp sống, và cứ mỗi kiếp sống như thế đều
được giới hạn bởi hai đầìu sinh và tử. Tuy nhiên, sinh và tử chỉ là sự hoàn tất của một chu kỳ. Như thế, khi thân xác này hủy
hoại, cái gì sẽ tiếp tục tái sinh - mở đầu một kiếp sống mới? Ðây là then chốt để tìm hiểu về luân hồi.


Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikaya - 135), Ðức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp, là
quyến thuộc của nghiệp; nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra".


Từ lời dạy trên, chúng ta thấy rằng nghiệp (karma) luôn luôn có mặt cùng với sự có mặt của con người. Và khi chết, thì sự
thể vật lý này tan hoại, cịn nghiệp vẫn cứ tiếp tục trơi lăn theo dịng trầm ln của nó (hoặc thiện nghiệp, hoặc ác nghiệp).
Nhưng nghiệp không phải là linh hồn bất tử để nối kết các kiếp sống, vì bản thân nó là vơ ngã. Tuy nhiên, chính nghiệp là cơ
sở, là điểm trung tâm, để qua đó, vịng ln hồi xoay chuyển.


Vậy, nghiệp là gì?


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

Từ đây, chúng ta thấy rõ rằng, chính tâm lý của mình là cơ sở để tạo nên nghiệp của mỗi người. Con người là kẻ quyết định
cái nghiệp của mình - cái định niệm do mình tạo tác. Và cũng chính con người là kẻ duy nhất có thể giải thốt mọi nghiệp
lực của mình, đi ra khỏi vịng ln hồi - tái sinh.


<i><b>2)- Nghiệp và tái sinh: Trong đạo Phật, nghiệp được trình bày gồm nhiều loại, nhưng nghiệp cơ bản là thân nghiệp, khẩu </b></i>
nghiệp và ý nghiệp. Về mặt tính chất, nghiệp được phân thành bốn loại như sau:


1) Cực trọng nghiệp (weighty karma): nghiệp loại nặng như giết cha mẹ, giết người v.v...


2) Tập quán nghiệp (habitual karma): nghiệp do thói quen hình thành.


3) Tích lũy nghiệp (stored up karma): nghiệp do tích tụ từ cuộc sống thường ngày.
4) Cận tử nghiệp (death-proximate karma): nghiệp lúc sắp chết.


Như đã trình bày, trong suốt vịng ln lưu của sinh tử, tử sinh, từ đời sống này sang đời sống khác, nghiệp bao giờ cũng
đóng vai trị trung tâm của sự luân chuyển. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tái sinh (reincarnation), thì cận tử nghiệp là điều kiện
quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp đến sự tái sinh. Cận tử nghiệp, trên một góc độ nào đó, có thể nói là hệ quả được cơ kết
trong suốt đời sống của một kiếp người; đồng thời, nó cũng là dòng nghiệp thức mạnh nhất, thúc đẩy thần thức của con
người trước, trong hoặc sau khi chết tìm kiếm một sự tái sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

đây và bây giờ, cần phải luôn luôn hướng tâm đến với sự xả ly thanh tịnh, xóa bỏ mọi sự tham ưa và bám víu. Thánh nhân
có dạy rằng: "Thế gian như một con thuyền, hãy đi trên nó chứ đừng mang vác...".


Từ một vài chi tiết trên, chúng ta thấy rằng sự sống và sự chết của con người có được an lạc hay khơng là tùy thuộc vào
dòng tâm thức của mỗi cá thể. Sau khi thọ mạng đã hết - chết, thì thân xác sẽ tan hoại, nhưng dòng nghiệp thức (thần thức)
sẽ tiếp tục đi vào các đời sống mới trong sáu cõi: trời, người, a tu la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, tùy theo nghiệp lực thiện
hay bất thiện.


<i><b>3)- Nghiệp thức - sinh và tái sinh: Theo kinh Trung Bộ (tập I), sự xuất hiện của một con người bao giờ cũng hội đủ 3 điều </b></i>
kiện: a/- Cha mẹ có giao hợp; b/- Người mẹ có thể thụ thai; và c/- Phải có mặt nghiệp thức. Nếu khơng có mặt nghiệp thức
thì thai nhi khơng thể sống.


Về nghiệp thức (conscious), còn được gọi là hương ấm, hay là kiết sinh thức (Gandhabha). Khi điều kiện hội đủ và do


nghiệp chiêu cảm mà kiết sinh thức đi vào thai mẹ; lúc bấy giờ, kiết sinh thức được xem như là "ý niệm tối sơ" của một đời
sống mới. Cho đến khi chết, cũng dòng nghiệp thức ấy thúc đẩy tìm kiếm tái sinh, nên được gọi là "nghiệp dẫn tái sinh".
Thực ra, cả sự sinh và tái sinh đều được căn cứ trên dòng vận hành của nghiệp thức. Và từ sinh cho đến tái sinh (sau khi
chết), trong suốt q trình đó, đời sống của một sinh thể được hình thành qua cơ cấu của 12 nhân duyên: vô minh - duyên
hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái


duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão, tử, sầu, bi, khổ, ưu não... (về ý nghĩa của 12 nhân duyên, xem bài
<i>Tam bảo, ba pháp ấn). Như vậy, 12 nhân duyên chính là sự hiện hữu của con người. Và trong 12 nhân duyên, các chi phần </i>
vô minh, hành, thức và danh (sắc) là các yếu tố chính của nghiệp dẫn tái sinh.


<i><b>4)- Các quan niệm về chết và thân trung ấm: Trong Nikàya đề cập đến sự chết một cách cụ thể như sau: thứ nhất là chết do</b></i>
sắc thân đoạn diệt, hai là chết do thọ mạng đã hết, và do nghiệp ở đời đã hết. Bên cạnh đó, cịn có trường hợp chết đột ngột
(bất đắc kỳ tử, chưa đến lúc mà chết). Nhìn chung, sự chết được xem như là sắc thân (cơ thể) đã đoạn diệt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

Tuy nhiên, theo Nikàya và A Hàm thì từ "tử tâm" cho đến "kiết sinh tâm" chỉ diễn ra trong vịng một đến hai sát na (tích
tắc), do đó khơng cần có thân trung ấm (trung hữu).


Thật ra, theo người viết nhận định, thân trung ấm cũng là một thân vi tế (tịnh sắc thân), một cảnh giới trong hằng hà sa thế
giới; và đương nhiên nó cũng vơ thường, biến dị, cũng ln hồi sinh diệt. Vì thế, khơng có gì mâu thuẫn giữa "tử tâm" và
"kiết sinh tâm" trong Nikàya với quan điểm có hay khơng có quan điểm sắc thân trung ấm. Vì lẽ, thời gian 49 ngày cho một
thân - thức đương nhiên khơng có gì vơ lý khi tại trần gian có những đời sống dài nhất chỉ một vài ngày, như lồi muỗi
mịng v.v...


<i><b>5)- Ðể có một sự chết trong thanh bình - an lạc: Ðây là vấn đề trọng yếu của con người. Như đã đề cập, sống và chết cũng </b></i>
như thức và ngủ, vậy thôi. Chúng ta không nên quan tâm quá đáng về cái chết, vì ai cũng chết. Nhưng điều đáng quan tâm
hơn là sống và sống như thế nào để lúc chết được bình an. Vì lẽ đó, đối với Phật tử cần phải sống giữ tâm linh trong sạch,
đừng làm điều gì gây khổ đau cho chính mình và cho kẻ khác, nhất là phải luôn luôn ý thức rằng cuộc đời là vô thường,
"trần gian này là chiếc cầu, hãy đi qua nó chứ đừng xây nhà trên nó". Cho đến khi nào tâm được trong sạch, thanh bình,
khơng cịn luyến tiếc, khơng cịn bám víu vào bất cứ điều gì, dầu gia tài sự nghiệp, dầu vợ đẹp con ngoan v.v..., thì khi đó sự
chết của bạn như lên thuyền sang sơng, giải thốt mọi khổ đau, chết trong sự bình an phúc lạc. Ðức Phật dạy:


<i>"Bỏ quá khứ, hiện tại và vị lai</i>
<i>Ðến bên kia cuộc đời</i>


<i>Ý giải thoát tất cả</i>



<i> Chớ vướng bận sinh, già, bệnh, chết" -- (PC 348)</i>
<b>C- Kết luận</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

<i>"Ta cịn để lại gì khơng</i>
<i>Kìa non đá lở, nọ sơng cát bồi</i>


<i>Lang thang từ độ luân hồi</i>


<i> Vô minh nẻo trước xa xơi dặm về..." -- (Vũ Hồng Chương)</i>


<i><b>-oOo-Duyên khởi và thuyết thập nhị nhân duyên. Đạo phật vẫn quan niệm rằng mọi sự là do nhân duyên mà nên. Nguyễn Du</b></i>
<i><b>đã từng nói "</b><b> Người đâu gặp gỡ làm chi. Trăm năm biết có dun gì hay không?"</b></i>


<b>Chương VIII: Mười hai nhân duyên</b>


<b> (Thập nhị nhân duyên)</b>



<b> Thích Tâm Hải</b>


<b>A- Dẫn nhập</b>


Mười hai nhân duyên (Thập nhị nhân duyên) là cách trình bày đặc biệt của giáo lý Duyên khởi (Paticcasamuppada) (1). Giáo
lý này do chính Bồ tát Tất Ðạt Ða (Siddhartha) thể chứng dưới cội bồ đề sau 49 ngày tư duy thiền định, từ đó Ngài trở thành
một bậc giác ngộ hoàn toàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

<b>B- Nội dung</b>
<b>I- Ðịnh nghĩa:</b>


<i><b>1)- Thế nào là nhân duyên?</b></i>



Nhân là yếu tố quyết định, điều kiện chính làm sinh khởi, có mặt của một hiện hữu. Duyên là điều kiện hỗ trợ, tác động làm
cho nhân sinh khởi. Ví dụ: hạt lúa là nhân của cây lúa; các yếu tố như đất, độ ẩm, ánh sáng mặt trời, người gieo... là duyên
để hạt lúa (nhân) nảy mầm phát triển thành cây lúa. Mối quan hệ nhân - duyên thực ra phức tạp và vi tế hơn nhiều, đặc biệt
là trong thế giới tâm thức; và, nhân duyên nói cho đủ là nhân - duyên - quả.


"Nhân duyên" trong "Mười hai nhân duyên" hàm ý nghĩa "nhân duyên khởi": sự nương tựa vào nhau mà sinh khởi, sự tùy
thuộc phát sinh, nói chính xác là "do cái này có mặt, cái kia có mặt; do cái này khơng có mặt, cái kia khơng có mặt; do cái
này sinh, cái kia sinh; do cái này diệt, cái kia diệt".


<i><b>2)- Mười hai nhân duyên là gì?</b></i>


Trong kinh Tương Ưng Bộ II (Samyutta Nikàya), Ðức Phật đã thuyết minh về Mười hai nhân duyên (Duyên khởi) như sau:
"Do vô minh, có hành sinh; do hành, có thức sinh; do thức, có danh sắc sinh; do danh sắc, có lục nhập sinh; do lục nhập, có
xúc sinh; do xúc, có ái sinh; do ái, có thủ sinh; do thủ, có hữu sinh; do hữu, có sinh sinh; do sinh sinh, có lão tử, sầu, bi, khổ,
ưu, não sinh, hay toàn bộ khổ uẩn sinh. Ðây gọi là Duyên khởi".


"Do đoạn diệt (2) tham ái, vơ minh một cách hồn toàn, hành diệt; do hành diệt nên thức diệt; do thức diệt nên danh sắc diệt;
...; do sinh diệt nên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là
đoạn diệt" (tr.1-2).


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

của an lạc, giải thốt. Năm uẩn chính là cấu trúc của con người và cuộc đời. Sự hiện hữu của con người tự nó nói lên mười
hai nhân duyên đang vận hành theo chiều tập khởi.


Theo cách trình bày trên, vô minh được xem như là căn nguyên, nguồn cội, cốt lõi của mười hai nhân duyên. Tuy nhiên,
không nên hiểu nhầm vô minh là nguyên nhân đầu tiên của chuỗi liên kết đó. Bởi Ðức Phật dạy, vô minh cũng do nhân
duyên sinh, là duyên khởi. Khi có nhân dun (tích cực) thì vơ minh cũng sẽ chuyển hóa thành trí, tuệ; đây là ý nghĩa "vô
minh diệt, minh sinh".


Cũng cần lưu ý một chút về số mục (12 chi phần) của dạng thức Duyên khởi này. Ðịnh nghĩa được nêu trên, trích từ kinh
Trung Bộ II, là một cách trình bày tiêu biểu nhất, gồm đầy đủ cả 12 chi phần. Trong một số bản kinh khác, như kinh Ðại


Duyên (Trường Bộ kinh III), kinh Ðại Bổn Duyên (Trường A Hàm I)..., Ðức Phật trình bày chỉ gồm 5, 8, 10, 11 và đầy đủ
nhất là 12 chi phần. Vấn đề này được các nhà nghiên cứu Phật học có thẩm quyền phân tích rất tỉ mỉ, và tất cả đều thống
nhất số mục 12 chi phần được xác định qua nội dung thiền quán của Ðức Phật dưới cội bồ đề. Ðây là dạng thức chính xác,
đầy đủ và phù hợp nhất với tư duy của con người. Sự sai khác về số mục các chi phần chỉ là thể hiện phương pháp giáo hóa
linh động của Ðức Phật. Ngài tùy thuộc vào trình độ của người nghe mà nói vắn tắt hoặc đầy đủ. Ðiều này sẽ được làm sáng
tỏ ở phần nói về sự vận hành của mười hai nhân duyên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

<b>II- Ý nghĩa của mười hai chi phần nhân duyên:</b>


<i>1)- Vô minh (Avijjà): sự mê mờ, cuồng si của tâm thức; hay nói cách khác là sự khơng hiểu biết như thật về hiện hữu là </i>
duyên sinh, vô thường và khơng có một tự thể độc lập, bất biến.


<i>2)- Hành (Sankhàra): động lực, ý chí hành động tạo tác (ý hành) của thân, miệng và ý.</i>


<i>3)- Thức (Vinnana): tri giác của con người về thế giới thông qua các cơ quan chức năng như mắt (nhãn thức), tai (nhĩ thức), </i>
mũi (tỷ thức), lưỡi (thiệt thức), thân (thân thức) và ý (ý thức).


<i>4)- Danh sắc (Nàma-rùpa): sắc là phần vật lý và sinh lý, danh là phần tâm lý. Với con người, sắc là cơ thể vật chất, các giác </i>
quan và chức năng của chúng; danh là các tâm phụ thuộc (tâm sở), như xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư.


<i>5)- Lục nhập (Chabbithàna): có nơi gọi là sáu xứ, là sự tương tác giữa sáu căn (= 6 nội xứ: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và </i>
đối tượng của chúng là sáu trần (= 6 ngoại xứ: hình thể, âm thanh, hương vị, mùi vị, xúc chạm và ý tưởng - pháp).


<i>6)- Xúc (Phassa): sự gặp gỡ, tiếp xúc, giao thoa giữa các căn (chủ thể) và trần (đối tượng). Nói rõ hơn, xúc chính là sự tiếp </i>
xúc giữa con người và thế giới thông qua 6 cơ quan tri giác. Lưu ý là, khi có thức phát sinh do mắt tiếp xúc với hình thể (sắc
trần), thì sự nhận biết đó mới gọi là nhãn thức... Vậy, xúc là sự gặp gỡ, giao thoa giữa căn, trần và thức.


<i>7)- Thọ (Vedanà): sự cảm thọ. Nói khác đi là các phản ứng tâm lý phát sinh khi mắt tiếp xúc với hình thể, tai tiếp xúc với âm</i>
thanh... ý tiếp xúc với ý tưởng (pháp).



Cảm thọ có ba loại: cảm thọ dễ chịu (lạc thọ), cảm thọ khó chịu (khổ thọ) và cảm thọ trung tính (phi khổ phi lạc). Ðây là
chất liệu mà con người thường lấy để xây dựng những giá trị gọi tên là hạnh phúc và khổ đau, bất hạnh. Thực ra, chúng là do
duyên sinh, luôn thay đổi, khơng hề có một tự tính cố định.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

<i>10)- Hữu (Bhava): tiến trình tương duyên để hình thành, gồm dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu.</i>


<i>11)- Sinh (Jati): sự ra đời, tạo nên, xuất hiện. Sinh ở đây không phải là sự sinh ra em bé, mà là sự thành tựu các bộ phận cấu </i>
thành (năm uẩn), thành tựu các xứ (các cơ quan tri giác và chức năng của chúng).


<i>12)- Lão-tử (Jaramrana): sự suy nhược, tàn lụi, tuổi thọ lớn, tan rã, tiêu mất, tử vong. Với sinh mạng con người, lão tử được</i>
biểu hiện dưới các hiện tượng: răng long, tóc bạc, da nhăn, các cơ quan tri giác suy yếu và chết.


<b>III- Sự vận hành của mười hai nhân duyên:</b>


Thông qua ý nghĩa của các chi phần mười hai nhân duyên, đặc biệt là chi phần lục nhập, một lần nữa khẳng định rằng, dạng
thức duyên khởi này là giáo lý nói về con người, bởi vì chỉ ở con người mới có đầy đủ 6 cơ quan tri giác. Do vậy, khi nói về
sự vận hành của mười hai nhân dun cũng chính là nói về sự vận hành của con người.


Vì khơng nhận biết hiện hữu (con người và thế giới) là do nhân duyên hòa hợp mà sinh khởi, ln biến dịch và khơng có
một tự thể thường hằng, nên con người ảo tưởng về một tự ngã: đây là cái tôi và đây là cái của tơi (Vơ minh). Chính ảo
tưởng và sự bất giác này quấy động tâm thức, làm sinh khởi lòng tham ái, chấp thủ... Và đó là động cơ cho các hành động
của thân, lời và ý (Hành). Mỗi khi ý niệm về một tự ngã sinh khởi thì Thức có mặt. Sự hiện hữu của Thức tất yếu địi hỏi sự
có mặt của chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức (Danh sắc, Lục nhập). Khi căn, trần và thức gặp gỡ nhau (Lục nhập),
thì Xúc sinh khởi. Cảm thọ (Thọ) có mặt ngay khi căn, trần và thức giao thoa nhau; cảm thọ sẽ tn chảy như một dịng thác
mà khơng một năng lượng nào có thể ngăn cản được, vì bản chất của cảm thọ là thế. Thọ bao gồm những phản ứng tâm lý
trước đối tượng như là buồn, vui, yêu, ghét, trung tính... Cảm thọ dễ chịu sẽ làm phát sinh luyến ái (Ái). Trong Ái đã bao
hàm chấp thủ và nó được biểu hiện dưới nhiều hình thức tương ứng với các cảnh giới của tâm thức (Hữu). Hữu tạo ra Sinh,
và mỗi khi đã có Sinh, thì tiến trình suy yếu, tan rã, mất đi sẽ vận hành như một hệ quả đương nhiên: nghĩa là lão-tử, sầu, bi,
khổ, ưu, não; hay khổ đau có mặt. Ðó là sự vận hành của mười hai nhân duyên theo chiều sinh khởi (lưu chuyển) - chiều vận
hành này có động lực là vơ minh, tham ái và chấp thủ. Nói khác đi, đây là con đường của khổ đau, luân hồi được dẫn dắt và


chi phối bởi vô minh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

đoạn tận tham ái hoặc chấp thủ thì vịng xích mười hai nhân dun khơng cịn lý do để hiện hữu. Ðó là ý nghĩa của lời Phật
dạy: "Ái diệt tức Niết bàn".


Sự vận hành của mười hai nhân duyên không chỉ đơn giản là tiến trình hình thành một sinh mạng (từ ý niệm tối sơ về hiện
hữu đến hơi thở cuối cùng), mà sự vận hành của nó (chiều thành lập - lưu chuyển) nói lên căn nguyên có mặt của con người
(và cuộc đời); nó khơng bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Bao giờ tham ái, chấp thủ hoặc vơ minh chưa được đoạn tận
thì con người vẫn bị chi phối bởi sự vận hành của mười hai nhân duyên - nghĩa là vẫn luẩn quẩn trong luân hồi, khổ đau bất
tận - khi mười hai nhân duyên đoạn diệt, đồng nghĩa với toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt.


<b>IV- Một số cách giải thích về mười hai nhân duyên:</b>


Mười hai nhân duyên, hay Duyên khởi, là nguyên lý của mọi hiện hữu. Nó là sự thật nên không bị giới hạn trong không gian
và thời gian. Ðức Phật khẳng định rằng: "Duyên sinh là thực tính của mọi hiện hữu, sự thật này khơng thay đổi dù Như Lai
có xuất hiện hay khơng xuất hiện". Một hiện hữu dù nhỏ như hạt nhân của nguyên tử đến to lớn như vũ trụ cũng không nằm
ngồi ngun lý này. Với đặc tính đó, giáo lý Mười hai nhân duyên có thể dùng để soi sáng nhiều vấn đề khác trong cuộc
đời như luân hồi, nhân quả... tùy thuộc theo góc độ quan sát của người giải thích. Ở đây chỉ giới thiệu 4 cách giải thích phổ
biến.


<i><b>1)- Dạng thức tổng quát:</b></i>


"Do cái này có mặt, cái kia có mặt; do cái này khơng có mặt, cái kia khơng có mặt; do cái này sinh, cái kia sinh; do cái này
diệt, cái kia diệt" (Tiểu Bộ kinh, tr.291). Dạng thức này là cách trình bày khái qt, tóm tắt và đơn giản nhất do chính Ðức
Phật nói. Nó được xem như là một nguyên lý cho mọi hiện hữu trong thế giới hiện tượng. Nói chính xác hơn, nếu mười hai
nhân duyên là dạng thức duyên khởi riêng về con người, thì dạng thức tổng qt nói về bản chất của thế giới hiện tượng, đặc
biệt là thế giới không có tình thức (khí thế giới).


<i><b>2)- Ba đời hai tầng nhân quả (Tam thế lưỡng trùng nhân quả):</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

quả vị lai là sinh và lão-tử; đây là lớp nhân quả thứ hai. Sự phối hợp giữa hai lớp nhân quả này với các duyên tạo nên một
mối quan hệ có vẻ chặt chẽ, tương tục của dịng chảy thời gian: quá khứ - hiện tại - vị lai. Qua cách giải thích này, ý đồ dùng
giáo lý Mười hai nhân duyên để giải thích luân hồi đã thể hiện rõ. Tuy nhiên, cách phân chia như trên sẽ dễ đưa đến một ngộ
nhận, như là vô minh và hành chỉ có ở quá khứ, 8 chi phần tiếp theo chỉ có ở hiện tại, sinh và lão tử thì thuộc về tương lai
(!). Thực ra, trong hiện tại (và ngay trong mỗi chi phần) đã có mặt vơ minh. Khi một chi phần hiện hữu thì lập tức có sự hiện
hữu của 11 chi phần cịn lại. Nếu một chi phần bất kỳ vắng mặt thì mối liên kết 12 chi phần nhân duyên tự sụp đổ. Như đã
phân tích, mười hai nhân duyên là một dịng tương tục, chằng chịt, khơng hề lệ thuộc vào thời gian (quá khứ, hiện tại hay
tương lai). Cách giải thích này vơ tình làm thơ thiển và đơn giản hóa giáo lý Mười hai nhân duyên - một giáo lý vốn được
xem là rất thâm áo và tinh tế.


<i><b>3)- Nhân quả đồng thời:</b></i>


Khi nói "Do vơ minh, hành sinh...", không nên hiểu là hành do vô minh sinh ra. Giữa vô minh và hành... là mối quan hệ
nhân quả tuyến tính, đơn phương; nghĩa là các chi phần trong mười hai nhân duyên hiện hữu tùy thuộc vào yếu tố thời gian
(trước - sau). Cách giải thích này nói rằng, ngay trong một sát na (4) đã có sự hiện hữu đầy đủ của cả 12 chi phần. Khi ý
niệm lệch lạc về một cái tơi và cái của tơi (tự ngã) có mặt, lập tức có mặt chuỗi nhân quả tương tục: ý chí tạo tác (hành), tri
giác phân biệt và chấp thủ (thức)... đến lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não. Mỗi một chi phần vừa là quả vừa là nhân cho các chi
phần khác, chúng nuôi dưỡng lẫn nhau.


<i><b>4)- Sự hiện hữu của một đời sống con người (mạng căn):</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

<b>V- Một số hệ luận từ giáo lý Mười hai nhân duyên:</b>


1)- Con người (và cuộc đời) là hiện hữu của cấu trúc mười hai nhân dun, nên khơng hề có một tự ngã độc lập và thường
hằng. Con người chính là chủ nhân của cuộc đời mình, bởi giáo lý Mười hai nhân duyên cho thấy sự thật: "Khơng thể tìm ra
một đấng sáng tạo, một Brahman, hay một vị nào khác, làm chủ vịng ln chuyển của đời sống; chỉ có những hiện tượng
diễn tiến, tùy thuộc vào những điều kiện" (5).


2)- Con người và cuộc đời là vô ngã, không có một tự tính thường hằng (vơ thường), nên bên trong mỗi người luôn tiềm ẩn
một khả năng giác ngộ, và cuộc đời ln có cơ hội để xây dựng trở nên tốt đẹp.



3)- Khi một chi phần trong mười hai nhân duyên vận hành, nghĩa là 11 chi phần cịn lại cũng vận hành. Ðiều này nói lên sự
dung thông giữa cái "một" và cái "tất cả", vượt ra ngồi khái niệm khơng gian, thời gian, từ đó có thể khẳng định có sự hiện
hữu của các loại thần thông.


<b>C- Kết luận</b>


1)- Mười hai nhân duyên là giáo lý về con người và nói cho đối tượng nghe là con người. Vì con người bị vướng nặng vào
vô minh, ái và chấp thủ nên Ðức Phật đặc biệt nhấn mạnh đến các chi phần này khi hướng dẫn con người tu tập vì mục đích
giải thoát, giác ngộ.


2)- Mười hai nhân duyên, hay Duyên khởi, không phải là một giáo lý dùng để đối trị chấp ngã hay nhằm giải thích thế giới;
mà đây là sự thật và là một pháp tu tập vì giải thốt thiết thực cho con người. Do vậy, giáo lý này là căn bản của chánh kiến
(thứ nhất trong Bát chánh đạo). Nói khác đi, chánh kiến là cái nhìn tồn diện, như thật về các pháp là do dun sinh.


3)- Vơ ngã hay giải thốt, Niết bàn không phải là một trạng thái trống trơn, mà là sự trống rỗng ý niệm về một tự ngã thường
hằng. Nói cách khác, đó là trạng thái khơng có mặt vô minh, tham ái và chấp thủ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

5)- Hiện hữu hay cuộc sống là hiện hữu của các mối tương quan đa phương giữa con người với con người, giữa con người
với môi trường xã hội, môi trường tự nhiên... Khi một cá nhân sống tốt là đang góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp, và
ngược lại. Mỗi người phải có trách nhiệm với cộng đồng, bởi xây dựng cộng đồng chính là đang bảo vệ cá nhân mình.
6)- Mười hai nhân duyên, hay giáo lý Duyên khởi nói chung, là một giáo lý vơ cùng tinh tế và khó hiểu, bởi con người vốn
đã quen với nếp tư duy hữu ngã từ vơ thỉ. Muốn có một nhận thức đúng về giáo lý này, địi hỏi phải có sự qn sát và tư duy
thường xuyên về nó. Suy tư và thực tập giáo lý Mười hai nhân duyên (theo chiều đoạn diệt), chắc chắn rằng sẽ từng bước
mang đến cho hành giả một cuộc sống độ lượng, vị tha, giải thoát và an lạc trong hiện tại. Bởi như lời Phật dạy: "Ai thấy
Duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Phật (Ta)". Thấy Phật là thấy được thực tại tối hậu, vượt ra ngoài mọi ràng
buộc của thế giới ngã tính - bị giới hạn bởi vô minh, tham ái và chấp thủ này./.



<b>-oOo-* Chú thích:</b>



(1) Cịn gọi là Dun sinh, Y tha khởi: sự nương tựa vào các yếu tố khác mà sinh khởi, hình thành, hiện hữu; tùy thuộc phát
sinh.


(2) Diệt trừ, xả bỏ, chuyển hóa (Pàli: uccheda).


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

<i><b>Triết học Phật giáo là một khoa học về con người nó đã xây dựng lên một hệ thức luận về con người như: Thân thể, </b></i>
<i><b>cảm giác, tri giác, tâm hành, nhân thức dược gọi là ngũ uẩn. Tìm hiểu về ngũ uẩn là để hiểu rõ hơn về con người của </b></i>
<i><b>chúng ta.</b></i>


<b>Năm uẩn</b>


<i><b>(Ngũ uẩn)</b></i>



<b> Thích Viên Giác</b>


<b>A- Dẫn nhập</b>


Theo đạo Phật, những nỗi khổ đau của con người đều xuất phát từ sự thiếu hiểu biết, thiếu trí huệ. Vơ minh thường được coi
là nỗi bất hạnh lớn nhất của chúng sinh. Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, tất cả những nỗi sợ hãi, thất vọng, vấp ngã và tai
nạn đều do ngu si mà sinh khởi. Tất cả những điều ấy khơng sinh khởi nơi người có trí tuệ, cũng như ngọn lửa bùng cháy từ
bụi lau, bụi cỏ làm cháy luôn cả nhà cửa, lầu gác và cung điện. Cũng vậy, ngọn lửa ngu si bùng lên làm cho những nỗi sợ
hãi, thất vọng, vấp ngã và tai nạn có mặt" (Kinh Ða Giới, Trung Bộ kinh III). Ðức Phật khuyên dạy mọi người hãy trở thành
kẻ hiền trí bằng cách suy tư quán chiếu để nhận chân được bản chất của nhân sinh và vũ trụ, qua đó dập tắt ngọn lửa ngu si,
thành tựu trí tuệ và đoạn diệt khổ đau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

Trong phạm vi của bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày khái quát về 5 uẩn. Ðề tài năm uẩn được đề cập đến ở nhiều nơi trong
kinh tạng và luận tạng, thuộc truyền thống Nguyên thủy cũng như Ðại thừa. Lý thuyết năm uẩn là một cách phân tích, một
lối nhìn về con người và thế giới, nhưng đây không phải là cách duy nhất mà chỉ là cách phổ biến nhất mà thôi. Ðiểm đặc
biệt của phân tích năm uẩn là chú trọng về con người và nhấn mạnh phần tâm lý hơn vật lý.



<b>B- Nội dung</b>
<b>I. Ðịnh nghĩa:</b>


Năm uẩn, Phạn ngữ là Pãnca-skandha (Sanskrit), Pãnca khandha (Pàli). Pãnca là năm; Khandha là nhóm, là yếu tố là tích tụ,
Ngài Huyền Trang dịch là Ngũ uẩn; Ngài La Thập dịch là Ngũ ấm, ấm nghĩa là ngăn che, chướng ngại (che mất chân tánh) -
Năm uẩn được dùng phổ biến hơn.


Năm uẩn là năm yếu tố hay năm nhóm kết hợp lại tạo thành con người; hay nói cách khác, con người là một hợp thể của
năm yếu tố, gồm có: Sắc uẩn (Rùpa) là yếu tố sinh lý - vật lý; Thọ uẩn (Vedanà) là yếu tố cảm giác; Tưởng uẩn (Sãnnã) là
yếu tố tri giác, là sự nhận biết đối tượng giác quan hay tâm lý; Hành uẩn (Sankhàra) là yếu tố tâm lý hoạt động ngoài Thọ và
Tưởng là những tâm lý tạo động lực đi tới tạo nghiệp và kết quả của nghiệp như ước muốn, quyết định... thuộc ý chí cịn gọi
là Tư; Thức uẩn (Vinãna) là yếu tố nhận thức, phát hiện sự có mặt của đối tượng, gồm có sáu thức. Thức làm nền tảng cho
Thọ, Tưởng và Hành, theo Duy thức học thì có tám thức. Thức là Tâm vương (Citta); Thọ, Tưởng, Hành là Tâm sở


(Cetasika).


Trong kinh tạng Nikàya và A Hàm thường dùng từ Năm thủ uẩn (Pãnca upàdana khandha), nghĩa là năm uẩn là đối tượng
của sự chấp thủ, của tâm tham ái thì gọi là năm thủ uẩn.


<b>II. Nội dung năm uẩn:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

uẩn" (Kinh Ðại Kinh Mãn Nguyệt, Trung Bộ kinh III). Như vậy yếu tố vật chất là thân thể hay ngoài thân thể, thuộc vật chất
hay năng lượng, thuộc thời gian hay không gian đều bao hàm trong sắc uẩn.


Thân thể là sắc uẩn, vì vậy chúng khơng phải là một thực thể độc lập mà là một hợp thể vật chất biến động và mâu thuẫn.
Thân thể muốn tồn tại phải nương vào các yếu tố sắc khơng phải là thân thể như mặt trời, dịng sơng, ruộng lúa, thời tiết,
khơng khí... Quan điểm của Phật giáo về thân thể vật lý dựa trên cơ sở lý duyên sinh, nghĩa là trình bày rõ về mối tương hệ
bất khả phân ly giữa yếu tố con người với yếu tố vũ trụ thiên nhiên gồm môi trường, hồn cảnh... Ðó là cái nhìn về con
người một cách tồn diện.



Bản chất của sắc uẩn là vơ thường, vô ngã và chuyển biến bất tận theo lý duyên sinh, vậy bản chất của chúng là không. Sự
chấp thủ, tham ái thân thể (sắc uẩn), hoặc bất cứ một đối tượng vật lý, sinh lý nào cũng đều tiềm ẩn nguy cơ đau khổ. Như
trong kinh Phật đã dạy, ai cho rằng sắc uẩn là ta, là của ta, là tự ngã của ta thì chắc chắn gặt hái đau khổ, thất vọng, sầu
muộn, vấp ngã và tai nạn.


Nhờ thấy rõ thân thể qua phân tích sắc uẩn đưa đến trí tuệ sâu sắc làm rơi rụng tâm lý tham ái thân thể, chặt đứt sợi dây trói
buộc vào sắc uẩn.


<i><b>2)- Thọ uẩn (Vedanà-khandha): Thọ là cảm giác, do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà sinh ra thọ. Ðức Phật dạy </b></i>
có sáu thọ: mắt tiếp xúc với hình sắc mà sinh thọ, tai với âm thanh, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với vật cứng-mềm, ý với
đối tượng tâm ý. Cảm giác theo Phật giáo không dừng lại ở mức độ tiếp xúc đơn thuần mà là cảm xúc, một biểu hiện sâu
hơn của cảm giác; cảm giác có ba loại: một là cảm giác khổ, hai là cảm giác vui sướng, ba là cảm giác không vui không khổ.
Cảm giác khổ là một loại cảm giác khó chịu khi ta tiếp xúc với một đối tượng khơng thích ý, nó kèm theo một chuỗi tâm lý
khó chịu, bất mãn, tránh xa... Ví dụ khi ta nhìn thấy một con vật dơ bẩn xấu xí, ta nảy sinh cảm giác ghê tởm khơng muốn
nhìn. Cảm giác vui sướng là một loại cảm giác dễ chịu, thoải mái, phấn khởi khi ta tiếp xúc với một đối tượng thích ý, nó tạo
cho ta niềm vui, sung sướng xích lại gần... Cảm giác trung tính khơng khổ khơng vui, nó khơng tạo cho ta cảm giác khó chịu
hay dễ chịu, nó khơng tạo ra một lực hút hay lực đẩy nào. Ví dụ khi ta nhìn một dịng sơng, khơng khởi lên khổ hay lạc mà
chỉ là cảm giác thông thường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

tâm như thiền định chẳng hạn, hay cảm giác bên ngoài qua các giác quan, cảm giác cường độ mạnh hay yếu đều nằm trong
thọ uẩn. Phân tích ta sẽ thấy có những cảm giác đến từ thân thể (sắc uẩn) như ăn uống khối khẩu hay bị thương tích đau
đớn; có những cảm giác đến từ tâm lý (tưởng, hành) như thiền định hay tưởng tượng; có những cảm giác đến từ tâm lý và
vật lý như thưởng thức một bản nhạc hoặc ngắm một bức tranh, hoặc sự đau khổ do hoàn cảnh bất hạnh... Tất cả những loại
cảm thọ ấy tạo thành một dịng sơng cảm thọ tâm lý chi phối hệ thống tâm thức, chúng sinh khởi biến hiện thay đổi vô


chừng; chúng chuyển biến vô tận, vô thường, vô ngã và hiện hữu có điều kiện. Chấp thủ vào cảm thọ bao giờ cũng sai lầm
và gặt hái khổ đau.


<i><b>3)- Tưởng uẩn (Sãnnã-khandha): Là nhóm tri giác có khả năng nhận biết đối tượng là cái gì, đây là khả năng kinh nghiệm </b></i>
của sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan. Sự nhận biết đối tượng có hai loại: một là nhận biết đối tượng bên ngoài


như mắt thấy sắc nhận biết đó là đóa hoa hồng, tai nghe âm thanh nhận ra bản nhạc tiền chiến...; hai là khả năng nhận biết
đối tượng bên trong, tức là các đối tượng tâm lý như những khái niệm, hồi tưởng ký ức... Như vậy, tưởng uẩn là cái thấy, cái
biết của mình về con người, hoặc sự việc hay sự kiện. Tri giác là một trong những tác dụng của thức.


Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, phàm tri giác gì thuộc quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng,
xa hay gần, như vậy là tưởng uẩn" (sđd). Như vậy, những tri giác về các đối tượng bên ngoài, bên trong, thuộc thời gian,
không gian, đơn giản hay phức tạp đều gồm trong tưởng uẩn. Tri giác là tri giác về cái gì, khơng thể có một tri giác thuần
chủ thể; vì vậy, tưởng bao gồm mọi nhận thức về thế giới vật lý, tâm lý. Tuy nhiên, thế giới vật lý, tâm lý ấy được ký hiệu
hóa, khái niệm hóa, nên giữa tri giác và thực tại ln có một khoảng cách.


Sự có mặt của tri giác là sự có mặt của kinh nghiệm. Tri giác tùy thuộc vào những kinh nghiệm đã qua như khi thấy đóa hoa
hồng biết đây là đóa hoa hồng, cái tri giác về đóa hoa hồng đã có sẵn (chủng tử) nên cái kinh nghiệm đã cho biết đó là đóa
hoa hồng. Vì vậy tri giác dễ bị đánh lừa bởi kinh nghiệm, do vì thực tại thì ln sinh động.


Tri giác tồn tại có điều kiện, vì vậy chúng vơ thường, trống rỗng; và do dun sinh nên tri giác đầy hư vọng mà ta thường
gọi là vọng tưởng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

51 tâm sở gồm cả thọ, tưởng, tức là cảm giác và tri giác cũng gọi là hành. Nhưng ở đây không xếp cảm giác và tri giác vào
nhóm hành vì chúng (thọ và tưởng) khơng có khả năng tạo nghiệp và quả của nghiệp.


Hành uẩn cũng có sáu loại do sự tiếp xúc giữa sáu giác quan và sáu đối tượng, hành còn gọi là Tư. Ðức Phật dạy: "Này các
Tỳ kheo, thế nào là hành? Có sáu tư thân này: sắc tư, thinh tư, hương tư, vị tư, xúc tư và pháp tư. Ðây gọi là hành" (Tương
Ưng Bộ kinh III). Tư là động lực quyết định, là ý chí, ý muốn; tâm sở này tạo động lực dẫn dắt tâm ý theo xu hướng thiện,
bất thiện. Một số tâm sở có tác động mạnh mẽ để hình thành nghiệp hay hành như: dục, xác định, niềm tin, tinh tấn, tham
lam, sân hận, ngu si, kiêu mạn, tà kiến... Hành uẩn bao gồm mọi hiện tượng tâm lý, Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, phàm
hành gì thuộc quá khứ, hiện tại hay vị lai, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là hành uẩn" (sđd).
Tất cả những hiện tượng tâm lý, sinh lý hiện tại là kết quả của hành trong quá khứ, nghĩa là hành tạo nên một năng lực tiềm
ẩn điều khiển thúc đẩy ở trong chiều sâu tâm thức mà trong kinh thường gọi là "phiền não tùy miên", hay trong luận gọi là
"câu sanh phiền não". Chúng làm nền tảng và lực đẩy để hình thành một năng lực hành mới, dẫn dắt con người đi tới tương
lai.



Hành uẩn tồn tại nhờ các điều kiện do duyên sinh nên chúng vô thường, trống rỗng và biến động bất tận.


<i><b>5)- Thức uẩn (Vinnãna-khandha): Thức là có khả năng rõ biết, phản ánh thế giới hiện thực. Khi giác quan tiếp xúc với đối </b></i>
tượng, thực nhận biết sự có mặt của đối tượng, thức không nhận ra đối tượng ấy là gì, là cái gì, màu gì... đó là chức năng của
tri giác (tưởng); thức chỉ nhận biết sự hiện diện của đối tượng giống như tấm gương phản chiếu tất cả những hình ảnh đi
ngang qua nó. Thức có sáu loại: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Thức là nền tảng của thọ, tưởng,
hành. Thức là Tâm vương; thọ, tưởng, hành là Tâm sở.


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

Mặc dù thức uẩn là nền tảng của tâm lý nhưng nó khơng tồn tại độc lập, chúng hiện hữu do duyên sinh, cụ thể là do sắc, thọ,
tưởng, hành; mối quan hệ giữa chúng với nhau là bất khả phân ly. Ðức Phật dạy: "Thức tồn tại nhờ sắc làm điều kiện, làm
đối tượng, sắc làm nơi nương tựa... Thức phát triển hưng thịnh nhờ sắc. Thức tồn tại nhờ thọ... nhờ tưởng... nhờ hành... (như
trên). Nếu có ai nói tơi sẽ chỉ ra sự đi, sự đến, sự sinh, sự diệt của thức biệt lập với sắc, thọ, tưởng, hành thì người ấy đã nói
một điều khơng thực" (Kinh Tương Ưng III). Như vậy, thức là một hợp thể của bốn uẩn kia, vì vậy đạo Phật khơng chấp
nhận có một thức nào đó độc lập, tự chủ như khái niệm về một linh hồn bất tử chẳng hạn. Thức vô thường lưu chuyển, vô
ngã và do duyên sinh.


Tóm lại, con người dưới sự phân tích năm nhóm thì thân thể thuộc một nhóm - nhóm vật lý, sinh lý; tâm lý thì chia thành
bốn nhóm: cảm giác, tri giác, động lực hay ý chí và thức. Mỗi nhóm là một tập hợp của các yếu tố, đồng thời mỗi nhóm đều
nương tựa vào nhóm kia mà tồn tại, nhóm này có trong nhóm kia và ngược lại. Nói khác, trong sắc có thọ, trong thọ có sắc,
chúng nương vào nhau mà có mặt, suy rộng ra đều như vậy. Một cảm giác khổ sở nó bao gồm ln cả thân thể và tri giác,
tâm tư và thức. Năm uẩn là các khía cạnh khác nhau của một thể thống nhất là con người. Thể thống nhất ấy mới nhìn qua
tưởng như độc lập, bất biến được điều khiển bởi một chủ thể, nhưng thật ra chúng chỉ là một hợp thể vô ngã, vơ thường và
rất tạm bợ. Trong kinh có một thí dụ như cây chuối khơng có lõi, nó chỉ là một hợp thể của các bẹ chuối. Ðó là bản chất của
năm uẩn, đó cũng là mục tiêu của sự phân tích năm uẩn: thấy rõ bản chất của con người và vũ trụ mà con người đang sống,
nhờ đó mà khai mở tuệ giác, đoạn diệt khổ đau.


<b>III. Tu tập quán chiếu năm uẩn:</b>


Mục đích của phân tích năm uẩn khơng phải là hình thành một hệ thống triết lý về con người và vũ trụ, mà để nhìn thấy một


cách rõ rệt bản chất của con người và thế giới hiện tượng. Như đã nói, những khổ đau của con người là do vô minh, là không
thấy rõ bản chất của sự sống. Do vô minh nên chấp ngã, chấp vào cái chủ thể bất biến; do chấp ngã mà có tham ái, sân hận,
si mê; do tham, sân, si mà có sợ hãi, thất vọng, vấp ngã và tai nạn.


Tu tập quán chiếu sâu sắc năm uẩn thì "minh" sẽ sinh, trí tuệ sẽ sinh, chấp thủ và tham ái sẽ diệt, đó là mục đích chính của tu
tập qn chiếu năm uẩn. Tương tự trong Bát Nhã Tâm kinh nói: "Quán Tự Tại hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời chiếu
kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách", tạm dịch: Bồ tát Quán Tự Tại (tức Quán Thế Âm) thực hành trí tuệ thâm sâu
thấy rõ tự tánh của năm uẩn là không, nên vượt thoát mọi khổ ách.


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

<i><b>1)- Quán chiếu trên cơ sở các pháp ấn:</b></i>


Tức là quán năm uẩn là vô thường, là khổ đau, là trống rỗng, là vô ngã. Trang bị cho mình một cái nhìn sáng tỏ, chánh kiến
về thân thể, về tình cảm, về nhận thức tư tưởng, về những hoạt động sâu kín của tâm lý, rằng chúng là vô thường, vô ngã;
nếu chấp thủ tham ái chúng sẽ đưa đến khổ đau. Ðức Phật thường thức tỉnh các đệ tử quán chiếu về năm uẩn một cách đơn
giản như Ngài hỏi các Tỳ kheo:


- "Thân thể là thường hay vô thường?
- Bạch Thế Tơn, vơ thường.


- Vơ thường thì đưa đến khổ hay vui?
- Bạch Thế Tôn, khổ.


- Cái mà vô thường và khổ thì có hợp lý khơng khi cho rằng cái này là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi?
- Bạch Thế Tôn... không hợp lý" (Tương Ưng III).


Với sức quán chiếu thường xuyên như vậy sẽ tạo nên năng lực làm rơi rụng tâm tham ái và chấp thủ.
<i><b>2)- Quán chiếu năm uẩn do duyên sinh:</b></i>


Quán chiếu thân thể do bốn đại và bốn đại sở tạo tạo nên, nghĩa là do các yếu tố như thực phẩm, mặt trời, khơng khí, dịng
sơng, di truyền, đất đá... thân thể hình thành và tồn tại do vô số nhân duyên. Quán chiếu cảm thọ khổ, vui, không khổ không


vui do sự tiếp xúc giữa sáu giác quan và sáu đối tượng mà sinh, các cảm giác ấy tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố như khơng
gian, thời gian, trình độ văn hóa, thời tiết, điều kiện xã hội... chỉ một cảm giác vui hay buồn chứa đựng cả một bầu trời


duyên sinh và duyên diệt. Quán chiếu tri giác do sự tiếp xúc với hình sắc, âm thanh, mùi vị... mà sinh cái biết về sự vật, hình
thành các khái niệm, nhận thức, chúng tùy thuộc vào các yếu tố không gian, thời gian, điều kiện văn hóa, xã hội... Quán
chiếu các hoạt động ý chí ước muốn cũng do tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà sinh, nếu các tiếp xúc khơng có thì
khơng có các hoạt động tâm lý ấy. Quán thức tồn tại do duyên danh sắc tức là do thân thể, do cảm giác, tri giác và tâm hành
mà có mặt, chúng khơng độc lập, tự có... Cuối cùng quán các uẩn đều nương vào nhau, có ở trong nhau, cái này là cái kia.
Như vậy thấy một cách sâu sắc và toàn diện về con người và mối quan hệ con người với thiên nhiên và vũ trụ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

Lý thuyết năm uẩn phân tích con người là hợp thể của yếu tố sinh lý, vật lý, tâm lý để làm nổi bật tính vơ ngã, biến động, bất
an và dun sinh của con người và vũ trụ. Trên cơ sở phân tích quán chiếu năm uẩn sẽ đem đến trí tuệ và giải thoát khổ đau.
Ðức Phật dạy: "Ai không chấp trước, không tham luyến, không suy tưởng, không hoan hỷ về sắc, thọ, tưởng, hành, thức...
người ấy giải thoát khỏi ác ma" (Kinh Tương Ưng III). Như vậy, vấn đề chủ yếu không phải là sự hiện hữu của năm uẩn mà
chính là sự có mặt của chấp trước và tham luyến năm uẩn. Con người có thói quen tư duy về ngã, về cái tồn tại, cái chủ động
đằng sau cái biến động, nên mọi sự rối loạn từ đó mà sinh. Mặt khác, chúng ta thường bị dính mắc, bị cột chặt vào một cái gì
đó như là thân thể hay tình cảm, tư tưởng... nếu cái ấy bị mất mát, bị lấy đi, tâm tư chúng ta sẽ trống rỗng, bị khủng hoảng
ngay. Phật dạy: "Người ngu thường nghĩ rằng thân này là chính ta, ta có cái thân này, thân này ở trong tự ngã hoặc có tự ngã
ở trong thân... Cái khổ này là chính ta, ta có nỗi khổ này, nỗi khổ này ở trong ta, ta đang ở trong cái khổ...". Do vậy, khi sắc
thân, cảm thọ... thay đổi, con người thay đổi theo; sợ hãi, chướng ngại, khát vọng và phiền muộn phát sinh.


Khi tâm chấp trước và tham luyến được rũ bỏ, năm uẩn là thanh tịnh, là vô lậu, là pháp uẩn. Khi ấy sắc thân là thân tự tại,
thọ là tâm từ bi, tưởng là trí vơ phân biệt, hành là trí thanh tịnh và thức là trí căn bản. Như vậy, đạt được giải thốt hồn tồn
như Bát Nhã Tâm kinh nói: Vượt thốt mọi khổ ách.


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

<i><b>-oOo-Vậy là các bạn đã có nhứng khái niệm rất cơ bản về Phật giáo. Nếu các bạn thấy thích đạo Phật và tự hỏi "</b><b>tôi muốn học </b></i>
<i><b>Phật và muốn theo đạo Phật thì tơi phải làm gì"</b><b>? Đây là câu trả lời của các bạn.</b></i>


<b>Chương IX HỌC PHẬT BẰNG CÁCH NÀO ?</b>




<b> H.T Thích Thanh Từ</b>


Hỏi học Phật bằng cách nào, tức là hỏi đến phương pháp học Phật. Ở thế gian mơn học nào cũng có
phương pháp riêng của nó. Ví như mơn tốn học, người học trò trước phải biết số, kế học thuộc cửu
chương, học cách cộng trừ nhân chia, lên nữa phải học cơng thức, phương trình v.v... Mơn văn
chương, trước phải biết chữ cái, học ráp vần, viết chánh tả, học văn phạm, tập cách làm văn v.v...
Phương chi Phật pháp là mơn học giác ngộ, mà khơng có phương pháp riêng của nó hay sao ?


Phương pháp học Phật tức là ba môn Tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ, và Tu tuệ. Bởi vì muốn vào cửa giác ngộ khơng phải anh
tướng trí tuệ thì khơng sao vào được. Phật pháp là chân lý là những sự thật, nếu khơng có ngọn đuốc trí tuệ soi sáng, làm
sao chúng ta thấy mọi sự thật ở chung quanh, khơng cần trí tuệ, chỉ dùng lịng tin đến với đạo Phật, để học Phật pháp, thật
là sai lầm lớn lao. Đây là chứng bệnh trầm trọng của Phật tử hiện thời. Cần chữa lành bệnh này, chúng ta phải ứng dụng
triệt để ba môn Tuệ học vào cơng trình tu học Phật pháp.


<b>Thế nào là Văn tuệ? </b>


Văn là nghe, do nghe giáo lý Phật pháp trí tuệ mở sáng, gọi là Văn tuệ. Chúng ta nghe Phật pháp qua lời giảng dạy của chư
Tăng, của thiện hữu tri thức đã tu học trước ta. Những lời giảng dạy ấy xuất phát từ kinh điển của Phật, trong đó chứa tồn
lời lẽ chân chánh, chỉ bày mọi sự thật cho chúng sanh. Càng nghe trí tuệ chúng ta càng sáng. Hoặc chúng ta trực tiếp đọc
kinh sách Phật, khiến mở mang trí tuệ cũng thuộc Văn tuệ. Chịu khó nghe giảng dạy, chịu khó nghiên cứu kinh sách Phật,
đó là người biết từ cửa Văn tuệ tiến thẳng vào ngôi nhà Phật pháp.


<b>Thế nào là Tư tuệ? </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

sáng.


<b> Mồi bằng cách nào?</b>


Ví như chúng ta nghe vị Sư giảng rằng: “Tất cả thế gian đều là vơ thường.” Sau đó phải dùng trí tuệ của mình phán đốn
xem đúng hay không. Chúng ta tự đặt câu hỏi: Tất cả thế gian đều là vơ thường, có sự vật nào thốt ngồi luật lệ ấy chăng?


Nếu có, câu nói này chưa phải chân lý. Bằng không, mới thật đúng chân lý, chúng ta sẽ hoàn toàn tin. Thế rồi, ta tự khảo
sát :


Con người có phải vơ thường khơng? Từ ơng bà đến cha mẹ chúng ta đều có sanh ra, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu rồi chết.
Kể ln cả ta, khi nào cịn nhỏ bé, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu, rồi cũng sẽ chết. Trong gia đình thân tộc chúng ta đã thế,
ngồi xã hội cũng thế, cả nhân loại trên thế giới cũng thế; ngàn xưa là thế, mãi sau này cũng thế. Quả là con người vô
thường.


Đến những sự vật, nào nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... có bị vơ thường khơng? Chính cái nhà của mình, khi mới cất thì tốt đẹp
lành lặn, qua vài ba năm thấy cũ dần, đến năm mười năm thì hư sập. Cái bàn viết cũng thế, khi mới đóng xem bóng lống
tốt đẹp, dùng mấy năm thấy đã cũ, tróc sơn khờn mặt, rồi đây sẽ mục nát hư hoại. Chiếc xe đạp khi mới mua đem về mới
toanh, chạy được một năm vỏ đã rách, cổ lỏng, các con ốc lờn... vài năm nữa sẽ hư. Thế là, nhà cửa, bàn ghế, xe cộ...


những vật cần dùng bên cạnh chúng ta thảy bị vô thường chi phối. Cho đến trăm ngàn vật khác, nếu khảo sát đều thấy đồng
một số phận như nhau.


Chúng ta có thể kết luận rằng: “tất cả thế gian là vô thường”, quả thật là chân lý. Ta tin chắc lẽ này, dù có ai nói khác đi,
cũng khơng làm lay động được lịng tin của ta. Bởi lòng tin này đã được gạn lọc qua sàng lý trí, nên nó vững chắc khơng
dễ gì làm lung lay.


Lại một thí dụ, chúng ta nghe vị Sư giảng lý luân hồi, bảo rằng: “Muôn vật ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi.” Ta
tự đặt câu hỏi: Tại sao muôn vật đều ln hồi? Có vật nào khơng ln hồi chăng? Chúng ta bắt đầu xét từ thực vật:


Cây cối thành hình bắt nguồn từ hạt, hạt nẩy mầm tăng trưởng thành cây, nở hoa, kết trái; trái sanh hạt, hạt lại nẩy mầm...
lộn đi đảo lại khơng cùng. Song đó là sự lộn đi đảo lại từ cây này sang cây khác, ngay bản thân cây ấy có đảo lộn vậy
không? Cũng lộn đi đảo lại như thế. Thân cây hiện sống đây, do châm rễ hút đất nước... nuôi dưỡng mới được sanh trưởng,
dần dần thành đại thọ. Rễ hút đất nước nuôi dưỡng thân cành lá, lá rụng biến thành phân đất, cành gãy mục cũng thành
phân đất, thân cây ngã mục cũng trở về đất nước. Thân cây nhờ đất nước sanh trưởng, khi ngã mục lại trở về đất nước.
Nước do ánh nắng bốc thành hơi, hơi lên cao gặp khí lạnh đọng lại, rơi xuống thành nước; nước lại bốc hơi... mãi mãi
không cùng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

ngày giờ tháng năm, thời tiết xuân hạ thu đông, xoay vần thế mãi không cùng.


Do sự khảo sát trên, chúng ta khẳng định rằng “muôn vật ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi”, là sự thật khơng cịn
gì phải nghi ngờ.


Trên đây tạm cử vài thí dụ làm căn bản cho cơng cuộc suy xét phán đoán Phật pháp. Căn cứ vào đây, chúng ta phán xét
những lời Phật dạy, hoặc chư Tăng dạy trong những trường hợp khác. Có thế, mới phân biệt được chánh tà và mới đúng
tinh thần người học Phật.


<b>Thế nào là Tu Tuệ? </b>


Sau khi phán xét lời Phật dạy là đúng, chúng ta đem áp dụng trong cuộc sống hằng ngày của mình, khiến chánh lý càng
bày hiện sáng tỏ, là tu tuệ. Ví như, đã biết rõ “tất cả thế gian là vô thường”, chúng ta ứng dụng sự vô thường vào đời sống
của mình, trong những trường hợp như sau:


Đã biết rõ thế gian là vô thường, khi gặp vô thường đến với bản thân, với gia đình ta, ta vẫn giữ bình tĩnh khơng hốt hoảng
hãi sợ. Vì biết chắc điều đó ở thế gian khơng ai tránh khỏi, sợ hãi kinh hồng chỉ làm rối thêm vơ ích. Bởi khơng sợ nên
tâm ta bình tĩnh sáng suốt, giải quyết mọi việc một cách tốt đẹp. Chúng ta vẫn đủ sáng suốt để khuyên giải cho những
người đồng cảnh ngộ bớt đau khổ.


Biết rõ thế gian là vô thường, mọi sự tranh giành danh lợi, tài sắc... lòng ta nguội lạnh. Tranh giành những thứ tạm bợ ấy
làm gì, để rồi chuốc khổ về mình, gây đau khổ cho người, rốt cuộc chỉ thành việc mị trăng bắt bóng. Lịng tham lam giành
giật dục lạc thế gian, do đây dứt sạch.


Do thấy rõ lẽ vô thường, chúng ta không thể ngồi yên chờ chết. Phải cố gắng làm mọi việc lành, nếu cơn vô thường đến,
chúng ta có muốn làm cũng khơng sao làm được. Lại biết quí tiếc thời giờ, một ngày qua rồi khơng tìm lại được, phải cấp
bách nỗ lực làm lợi mình lợi người, khơng thể chần chờ.


Đó là ba trường hợp do biết “thế gian vô thường”, chúng ta khéo ứng dụng tu hành trong cuộc sống hiện tại của mình. Bao


nhiêu sự lợi ích tốt đẹp sẽ theo đó mà tăng trưởng. Sự tu hành ấy, đi đơi với tâm trí tỉnh táo sáng suốt, nên gọi là “Tu tuệ”.
Ví dụ khác, chúng ta nhận rõ “muôn vật luân hồi”, liền ứng dụng lý luân hồi vào cuộc sống của mình. Nếu phải luân hồi,
chúng ta chọn cái luân hồi nào tốt đẹp an ổn hơn. Ví như, biết các lồi thảo mộc từ hạt nẩy mầm, sanh trưởng thành cây,
đơm hoa, kết quả; hạt lại nẩy mầm... Chúng ta nên chọn lựa hạt tốt giống ngon đem ương, để sau này kết quả ngon, cho ta
và mọi người được thưởng thức vị ngon. Cũng thế, trong vòng luân hồi bản thân ta cũng khơng thốt khỏi, ta cần tạo
những nhân tốt, nhân an vui, để mai kia có lăn lộn cũng lăn lộn trong chỗ tốt, chỗ an vui.


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

nghiên cứu biết sức hút của quả đất, sau đó tìm cách chế phi thuyền đủ sức mạnh vượt ra ngồi vịng hút của quả đất, đi
thẳng vào quĩ đạo v.v... Biết ln hồi để tìm cách thốt ra, chính là tinh thần “Tu tuệ”.


Văn tuệ, Tư tuệ rất cần thiết, song Tu tuệ lại càng quan trọng hơn. Nếu có văn tuệ, tư tuệ mà thiếu tu tuệ thì chỉ là tuệ rỗng,
khơng lợi ích thiết thực cho đời sống con người. Nhờ tu tuệ mới thẩm định được giá trị văn, tư ở trên và giúp cho văn, tư
được kết quả viên mãn.


Vì thế, đức Phật dạy hàng Phật tử đi chùa là cốt gặp Sư tăng, Sư ni, gặp Tăng Ni rồi cần phải thưa hỏi Phật pháp, thưa hỏi
xong phải ghi nhớ, ghi nhớ rồi cần phán xét, phán xét rồi phải tiến tu. Được vậy mới đúng tinh thần Phật tử (Phỏng theo
bài kinh Ma-ha-nam trong Tạp A-hàm). Bồ-tát Quán Thế Âm cũng trình với Phật, thuở quá khứ lâu xa Ngài gặp Phật dạy
tu phương pháp văn, tư, tu được vào chánh định và cho hiệu là Quán Thế Âm (Kinh Lăng Nghiêm). Chính trong giới
Bồ-tát, Phật cũng dạy “dù ở xa trăm ngàn dặm, nghe có người nói kinh luật, người mới thọ giới Bồ-tát cũng phải mang kinh
luật đến đó học (Kinh Phạm Võng). Quả nhiên đức Phật không chấp nhận đệ tử tu hành tối dốt, phải đầy đủ ba môn Tuệ
học, mới xứng là đệ tử của Ngài.


</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

<b>TU LÀ CẦU BÌNH AN HAY SỬA ÐỔI XẤU THÀNH TỐT?</b>


<i><b> H.T Thích Thanh Từ</b></i>


Trong giới Phật tử chúng ta ngày nay đa số không hiểu rõ ý nghĩa chữ TU, nên ứng dụng sai lầm một
cách đáng thương. Khi đến chùa xin qui y, họ thầm nghĩ từ đây về sau được Phật hộ độ cho mình khỏe
mạnh, gia đình mình an ổn, mọi mong cầu được như ý, khi chết được Phật rước về cõi Phật... Chớ họ
không hiểu rằng, kể từ ngày qui y Tam Bảo là tự mình quyết tâm chừa bỏ những thói hư tật xấu, mình


quyết thắng mọi tâm niệm, hành động đê hèn ác độc của mình, và mình cố gắng tạo dựng đầy đủ phước
lành để chết được sanh về cõi Phật. Họ đinh ninh trong lòng TU là nương tựa Tam Bảo, là van xin với
Phật, là thỏa mãn mọi mong cầu, là an lành suốt cuộc đời..., nên trở thành yếu hèn ỷ lại, mất hết ý nghĩa
chữ TU.


Bởi bản chất con người hầu hết là yếu hèn, sợ hãi, tham lam, nên bước chân vào đường tu, họ thích ỷ
lại, van xin và mong cầu. Do đó làm biến thái tinh thần tu hành của người Phật tử.


<b>YẾU HÈN - Phát xuất từ tư tưởng yếu hèn, nên khi qui y Tam Bảo, Phật tử này chỉ một bề trơng cậy gởi gấm đời sống </b>
của mình và gia đình mình cho Phật, mọi việc đều nhờ Phật hộ độ khi sống được bình an, lúc chết được Phật rước về cõi
Phật. Với tâm niệm này, Phật tử cứ tưởng tu là thường đi chùa lễ Phật, thường cúng dường, thường cầu nguyện là tròn bổn
phận người tu. Những người này cung kính Phật như một vị thần hộ mạng, tưởng như Phật đủ quyền năng bảo hộ cho bản
thân và gia đình họ suốt đời. Vì thế, khi bản thân hay gia đình xảy ra tai ách gì, họ tha thiết chí thành cầu Phật gia hộ cho
tai qua nạn khỏi. Nếu cầu nguyện Phật không được kết quả, nghe ở đâu có cậu đồng hay bà bóng giỏi, hoặc ơng thần nào
linh thiêng cầu gì cũng được như nguyện, họ liền mang hương đèn đến đó cầu xin. Bởi đến với Phật bằng tâm ỷ lại, trông
cậy, nên khi trơng cậy khơng được toại nguyện thì họ bước sang nơi khác một cách dễ dàng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97>

<b>THAM LAM - Do lòng tham sâu đậm, nên khi qui y Phật họ vẫn một bề mong cầu cho thỏa mãn lịng tham. Ðến chùa </b>
khơng phải để học đạo tu hành, mà để cầu xin. Chỉ cần cúng Phật một bó nhang, một dĩa quả, họ lại xin Phật đến trăm ngàn
thứ. Nào là xin Phật cho gia đình bình an, xin cho con cái thi đậu, xin cho làm ăn phát tài, xin cho tai qua nạn khỏi, xin cho
thân nhân quá cố được siêu sinh Tịnh Ðộ v.v. và v.v. Họ chi ra cúng Phật quá ít, mà họ xin lại quá nhiều. Nếu xin được
như ý thì họ tinh tấn đi chùa, cịn xin khơng được thì họ tìm chỗ nào linh thiêng hơn để đến cầu xin cho thỏa mãn.


Bởi những người Phật tử như thế đến với chùa, nên trong chùa mới có xin xăm bói quẻ, cúng sao cúng hạn, coi ngày
lành ngày dữ... để thỏa mãn đòi hỏi của họ. Mặc dù gần đây Giáo hội Phật giáo Việt Nam kêu gọi dẹp bỏ mê tín dị đoan,
song thói quen của những Phật tử này vẫn chưa bỏ được. Nguyên nhân Phật giáo suy đồi phần lớn do những vị này mà ra.
Là Phật tử mà họ không tin nhân quả, khơng hiểu Phật là gì, khơng biết tu như thế nào, làm sao không tạo thành những
điều kiện u tối cho Phật giáo? Ðây là những tệ nạn do các Phật tử quan niệm tu Phật để "cầu được bình an".


Nếu người hiểu rõ "Tu là sửa đổi xấu xa thành hay tốt" thì khơng có quan niệm như trên. Mục đích họ đến qui y Tam


Bảo cốt nương chánh pháp để tu hành trừ sạch bệnh tham sân si phiền não của mình. Phật thường dạy, Ngài "theo bệnh cho
thuốc để trừ bệnh khổ cho chúng sanh". Nơi nội tâm chúng ta có bệnh gì thì Phật có thứ thuốc ấy để trị lành bệnh. Cho nên
nói "chúng sanh có vơ lượng phiền não, Phật có vơ lượng pháp mơn". Vì thế, tu là dùng Phật pháp chuyển hóa tâm
niệm sai lầm, xấu xa, tội ác của chúng ta. Biết vậy thì tu là phải học hỏi giáo pháp và ứng dụng giáo pháp để trị lành những
tâm bệnh của mình. Học hỏi giáo pháp là mở sáng con mắt trí tuệ, là đi lần trên con đường giác ngộ, tức là tu theo đạo
Phật. Vì Phật là con người giác ngộ, đạo Phật là con đường tiến đến giác ngộ. Mọi khổ đau của chúng sanh do si mê tạo
nên, muốn giải thoát khổ đau là phải giác ngộ. Tuy nhiên giác ngộ mức độ cao thấp khác nhau, tùy đó mà con người được
bớt khổ hay hết khổ. Học hỏi giáo pháp là học Phật, ứng dụng giáo pháp để tu hành là tu Phật. Với tinh thần tu học này,
chúng ta khơng tìm đâu thấy có ỷ lại, van xin, cầu cúng; mà thấy mỗi người trang bị sẵn ngọn đuốc trí tuệ của mình để mồi
với ngọn đuốc chánh pháp của Phật. Những người này khơng có yếu hèn, sợ hãi, tham lam; mà lịng cương quyết, can đảm,
kiên trì tự nỗ lực tu hành cho đến ngày giải thoát. Tham sân si là mục tiêu họ phải chiến đấu đến bao giờ tiêu diệt hết mới
thôi. Bởi vậy một bước tiến tu là một niềm an lạc, càng tu khổ đau càng tan rã, như tuyết giá tan rã khi ánh mặt trời lên.
Tiến tu như thế, có lý do gì thối tâm bỏ đạo, có duyên cớ nào phải lùi bước đi theo đường tà?


</div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

pháp vị "vô thường" của Phật ban cho. Ðạo lý "nhân quả" là nền tảng của Phật giáo, nếu chúng ta không suy tư cho thấu
đáo thì lịng chánh tín khó phát sanh. Phật dạy "tin nhân quả là chánh tín", nếu chúng ta khơng chịu khó rà đi sốt lại kỹ
càng thì làm sao đủ lịng tin nhân quả. Bởi không tin nhân quả, chúng ta dễ sanh yếu hèn, sợ hãi, van xin rơi vào đường mê
tín. Lý "nhân duyên" là chân lý của muôn pháp, nếu không nghiền ngẫm thật chín chắn, thật nhuần nhuyễn, chúng ta
khơng thể hiểu nổi chỗ thâm áo của nó. Ðã không hiểu lý "nhân duyên" chúng ta làm sao thấy được chỗ cao siêu của Phật
giáo mà sanh lòng tin kính?


Muốn hưởng được pháp vị một cách thấm thía nồng nàn, người Phật tử phải tận lực suy tư nghiền ngẫm chánh pháp thật
tường tận tinh vi. Như muốn thưởng thức hương vị của thức ăn thật đầy đủ, người ta phải nhai thật nhuyễn những thức ăn
ấy. Ðồng thời Phật tử phải ứng dụng triệt để chánh pháp trong cuộc sống hằng ngày. Mọi người ai cũng thừa nhận nơi nội
tâm của mình đã sẵn có tính lương thiện và tính tội ác. Tội ác là nhân khổ đau cho mình và cho người, đời này và đời sau,
nó làm cho con người trở thành hèn hạ xấu xa. Lương thiện là nhân an vui cho mình cho người, đời này và nhiều đời khác,
nó gầy dựng cho con người trở thành bậc Hiền, Thánh. Nếu muốn hết khổ được vui, chúng ta phải dẹp bỏ tính tội ác, ni
dưỡng tính lương thiện, chính đây là tu. Tu là điều kiện tất yếu của mọi người, không riêng ai và giới nào, nếu là người
muốn hết khổ được vui và cố vươn lên bậc Hiền, Thánh.



Ước mong các Phật tử tự kiểm điểm lại xem, mình thuộc hạng nào trong hai hạng trên. Nếu là hạng đến với Phật để "cầu
bình an" thì nên chuyển hướng can đảm vươn lên để thành Phật tử chân chánh, không thối chuyển trên đường đạo. Nếu là
hạng đến với Phật để "sửa đổi xấu thành tốt" thì cố gắng hơn nữa để mọi xấu xa đều dứt sạch, mọi khổ đau đều tan biến, tự
tại tiến thẳng trên đường giác ngộ. Toàn thể Phật tử đều là người chánh tín, biết ứng dụng chánh pháp chuyển hóa ba


</div>
<span class='text_page_counter'>(99)</span><div class='page_container' data-page=99></div>

<!--links-->
bài 9.Địa lý 6.Hiện tượng ngày đêm.....
  • 6
  • 9
  • 27
  • ×